You are on page 1of 22

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN

HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN

ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ VẬN DỤNG


VÀO THỰC TIỄN VIỆT NAM

Họ và tên: Nguyễn Thị Mai Hương


Mã số sinh viên: 11212534
Lớp TC: LLNL1106(122)_38

STT: 5
Hà Nội, tháng 09 năm 2022
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………1
NỘI DUNG………………………………………………………………………2
I. Cơ sở lý luận ...…………………………………………………………2
1. Sản xuất hàng hóa....………………………………………………………2
1.1. Sản xuất hàng hóa và tính tất yếu…………………………………2
1.2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá...…………………………3
1.3. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa.…………………………………4
1.4. Ưu điểm của sản xuất hàng hóa...…………………………………4
2. Nền kinh tế sản xuất hàng hóa..……………………………………………5
2.1. Khái niệm…………………………………………………………5
2.2. Đặc điểm, tính ưu việt của nền kinh tế hàng hóa…………………5
2.3. Các nhân tố và quy luật vận động trong kinh tế hàng ……………6
II. Liên hệ thực tiễn…………………………………………………………6
1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam và quá trình chuyển đổi sang kinh tế
hàng..
hóa là vấn đề tất yếu, khách quan …………………………………………9
2. Tiềm năng và hạn chế của kinh tế hàng hóa ở Việt Nam …..……………11
3. Những thành tựu …………………………………………………………12
4. Điều kiện, giải pháp phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam……………18
III. Kết luận ...………………………………………………………………19
IV. Tài liệu tham khảo………………………………………………………20
LỜI MỞ ĐẦU
“Tiền thân là một nền kinh tế phong kiến lạc hậu và trì trệ, cùng với việc phải trải
qua hai cuộc chiến tranh giữ nước đầy gam go, khốc liệt, nền kinh tế nước ta vốn đã lạc
hậu lại càng khó để theo kịp xu hướng kinh tế của thế giới hơn. Sau khi giành được độc
lập, từ nền kinh tế lạc hậu và trì trệ đó, nước ta bắt đầu xây dựng nền sản xuất kế hoạch
hóa tập trung, quan liêu bao cấp, tiếp tục phát triển kinh tế cũ bất cập đã đẩy đất nước vào
tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng so với các nền kinh tế khác hàng chục thập kỷ.
Đến năm 1976, Việt Nam hoàn toàn thống nhất, đất nước từng bước đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Trong thời kỳ này, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng
đồng thời cũng gặp không ít khó khăn, thách thức. Tháng 12 năm 1986 của VI. Quốc hội
đã đưa ra một quyết định quan trọng. Đảng và nhà nước ta quyết định xây dựng lại nền
kinh tế, thay thế nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp bằng nền kinh tế sản xuất hàng
hoá. Tiếp đó, sản xuất hàng hóa trở thành nền tảng, động lực của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững đất nước, giúp nền kinh tế đất nước từng bước
hội nhập với sự đi lên không ngừng của khu vực và thế giới, đạt được nhiều thành tựu
quan trọng. Trong quá trình đổi mới, đất nước ta luôn nỗ lực hoàn thiện con đường phát
triển kinh tế nói chung và sản xuất hàng hóa nói riêng. Nhiều tài liệu quan trọng đã được
công bố về định hướng chiến lược, cơ chế, chủ trương phát triển sản xuất hàng hóa. Đảng
và nhà nước đã nhanh chóng nhận ra vai trò quan trọng của sản xuất hàng hóa để phát
triển kinh tế quốc dân. Những bước đầu còn nhiều khó khăn và phức tạp. Nền kinh tế cần
học hỏi và tiếp thu kinh nghiệm của con người trên cơ sở phản ánh, sáng tạo và lựa chọn
phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam. Trong quá trình học tập này, lý luận
về sản xuất hàng hóa của Mác đã cho chúng ta thấy vai trò quan trọng của sản xuất và
phân phối hàng hóa. Lý thuyết của Mác chỉ ra các phạm trù cơ bản của hàng hóa, tiền tệ,
giá cả, quy luật giá sản xuất hàng hóa,... những cơ sở lý luận về các quan hệ kinh tế trong
sản xuất hàng hóa. Vì vậy, việc nghiên cứu học thuyết sản xuất hàng hóa của Mác và hiểu
rõ vai trò, ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế nước ta hiện nay là vô cùng quan trọng
và cần thiết. Em quyết định các chủ đề sau để thảo luận vì muốn tìm hiểu sâu hơn về bản
chất và các mối quan hệ của lý luận sản xuất hàng hóa áp dụng lý luận kinh tế chính trị
Mác - Lênin. Nền kinh tế sản xuất hàng hoá và ứng dụng của nó trong nền sản xuất hàng
hoá hiện nay ở Việt Nam.”

1
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Sản xuất hàng hóa
1.1. Sản xuất hàng hóa và tính tất yếu
Sản xuất hàng hoá là thuật ngữ được dùng trong Kinh tế Chính trị Mác - Lênin dùng
để chỉ về hình thức tổ chức kinh tế, mà trong đó, sản phẩm được sản xuất ra không
phải để tự phục vụ nhu cầu tiêu dùng của người sản xuất mà được mua, bán hoặc
trao đổi trên thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác. Nói cách
khác toàn bộ quá trình sản xuất phân phối trao đổi tiêu dùng, thông qua
hệ thống thị trường và được quyết định bởi thị trường để trả lời các câu hỏi: “Sản
xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Sản xuất như thế nào?”
Sản xuất hàng hoá là một hình thức tổ chức kinh tế khác với sản xuất tự cung tự
cấp ở thời kỳ sơ khai của lịch sử loài người. Khi đó sản phẩm của sức lao động được tạo
ra chỉ nhằm đáp ứng chính nhu cầu của người sản xuất ra chúng.

Sản xuất tự cung tự cấp Sản xuất hàng hóa


(kinh tế tự nhiên) (kinh tế hàng hóa)
Là loại hình tổ chức kinh tế, trong đó Là loại hình tổ chức kinh tế, trong đó sản xuất sản
sản phẩm được sản xuất ra thông qua phẩm nhằm mục đích mua bán hoặc trao đổi trên
lao động nhằm thoả mãn chính nhu thị trường, thay vì đáp ứng nhu cầu của người tiêu
cầu của người sản xuất. dùng trực tiếp sản xuất sản phẩm.
Người sản xuất đồng thời là người Người sản xuất không phải là người tiêu dùng.
tiêu dùng.
Lực lượng sản xuất: kém phát triển. Lực lượng sản xuất: phát triển.

Bao gồm hai giai đoạn: Bao gồm ba giai đoạn:


+sản xuất +sản xuất
+tiêu dùng +trao đổi - phân phối
+tiêu dùng

2
Sản xuất tự cung tự cấp: Đây là một loại hình tổ chức kinh tế sản xuất tự nhiên, khép
kín trong từng đơn vị nhỏ và không thể mở rộng quan hệ với các đơn vị khác. Như vậy,
nó mang tính chất trì trệ bảo thủ và hạn chế trong những nhu cầu hẹp.
“Sản xuất tự cung tự cấp phù hợp với thời đại, khi mà lao động chân tay là chủ yếu, lực
lượng sản xuất còn kém phát triển. Nó tồn tại trong thời kì Công xã Nguyên thủy, chủ
yếu là trong thời kì Chiếm hữu Nô lệ. Dưới các hình thái kinh tế nông dân gia trưởng,
điền trang, thái ấp của địa chủ, sản xuất tự cung tự cấp đã tồn tại trong suốt thời kì phong
kiến. Trao đổi hàng hóa dần dần xuất hiện khi sự phân công lao động được mở rộng và
lực lượng sản xuất trở nên phát triển cao hơn. Sản xuất hàng hóa ra đời theo đúng quy
luật tất yếu của nó khi trao đổi hàng hóa trở thành mục đích thường xuyên của sản xuất.”

1.2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa


“Sản xuất hàng hoá là một phạm trù lịch sử chỉ xuất hiện và tồn tại trong xã hội
trong những điều kiện nhất định. Theo quan điểm của Mác, sự xuất hiện và tồn tại của
sản xuất hàng hoá phụ thuộc vào hai điều kiện cơ bản:
Phân công lao động xã hội: Là sự chuyên môn hoá sản xuất, phân công lao động
xã hội thành các lĩnh vực, các ngành sản xuất khác nhau của nền sản xuất xã hội. Nhưng,
với mỗi cá thể lại có sự khác nhau về mặt nhu cầu, bởi vậy để đáp ứng được những nhu
cầu mà bản thân mong muốn, ta cần phải trao đổi sản phẩm mà mình có.
Sự phân công lao động xã hội là cơ sở và tiền đề của sản xuất hàng hoá. Theo
Mác: Sản xuất hàng hoá muốn tồn tại cần điều kiện là phân công lao động xã hội, nhưng
ngược lại, phân công lao động xã hội có thể tồn tại mà không cần đến sản xuất hàng hoá.
Việc sản xuất-trao đổi hàng hoá trở nên phong phú và đa dạng hơn khi sự phân công lao
động xã hội ngày càng phát triển.
Sự tách biệt tương đối về kinh tế giữa những người sản xuất: Những người sản
xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập với nhau do sự tách rời lợi ích. Cho nên sản
phẩm sản xuất ra thuộc tài sản của các chủ thể kinh tế. Khi muốn tiêu dùng sản phẩm lao
động của người khác, họ phải thông qua mua bán, trao đổi hàng hóa.
Về mặt lịch sử, sự tách biệt này được xác định bởi quyền sở hữu tư nhân đối với tư
liệu sản xuất. Trong chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, tư liệu sản xuất thuộc về
mỗi cá nhân và do đó họ có quyền sở hữu đối với sản phẩm mà mình làm ra.

3
Do đó, sự phân công lao động xã hội làm cho những người sản xuất phụ thuộc vào
nhau, nhưng chế độ tư hữu lại tách biệt họ làm cho họ độc lập. Đây là một mâu thuẫn. Để
có thể giải quyết được mâu thuẫn này chỉ có cách mua bán, trao đổi sản phẩm với nhau.
Như vậy, sản xuất hàng hóa phát sinh từ nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.”

1.3. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa


Hai đặc trưng cơ bản của sản xuất hàng hoá :
“Sản xuất hàng hóa là sản xuất để mua bán, trao đổi. Trong lịch sử loài người sơ
khai, sản xuất hàng hoá là một hình thức tổ chức kinh tế đối lập với sản xuất tự cung tự
cấp. Cụ thể trong sản xuất hàng hoá, sản phẩm được tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của người khác thông qua mua bán, trao đổi.
“Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân vừa mang tính xã
hội. Trên danh nghĩa, đặc tính của sản phẩm do người làm ra nó hoặc người trực tiếp sở
hữu tư liệu sản xuất quyết định, đó là tính tư nhân. Việc sản phẩm làm ra nhằm đáp ứng
nhu cầu của những người khác trong xã hội, đó là tính xã hội. Tính chất tư nhân này có
thể phù hợp với tính chất xã hội của sản xuất hàng hóa, hoặc không. Đó là mâu thuẫn cơ
bản của sản xuất hàng hoá.”

1.4. Ưu điểm của sản xuất hàng hóa


Tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển: sản xuất hàng hoá phát sinh trên
cơ sở chuyên môn hoá sản xuất, phân công lao động xã hội, tận dụng những lợi thế về tự
nhiên, xã hội và kỹ thuật của mọi người, mọi cơ sở sản xuất. Không những thế, nền kinh
tế sản xuất hàng hoá phát triển trở lại đã tăng cường chuyên môn hoá lao động và thúc
đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội.
Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xã hội hoá sản xuất: sản xuất hàng hoá phá
vỡ tính chất tự cung tự cấp, lạc hậu, bảo thủ của nền kinh tế sản xuất tự cung tự cấp. Sử
dụng các lợi thế về mặt tự nhiên-xã hội và kĩ thuật của từng người, từng địa phương,
vùng miền để kích thích sự phát triển của nền kinh tế cả nước.
Đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội: Với sự phát triển của xã hội cùng với sự
tăng lên về nhu cầu của con người ngày càng cao cả về lượng và chất. Việc tạo ra nhiều
sản phẩm mang đến cho người tiêu dùng đa dạng sự lựa chọn hơn để đáp ứng nhu cầu

4
của họ. Góp phần cải thiện đời sống xã hội đồng thời làm tăng khả năng lao động của xã
hội.

2. Nền kinh tế sản xuất hàng hoá


2.1. Khái niệm
Nền kinh tế hàng hoá là một hình thức tổ chức kinh tế xã hội, trong đó, sản xuất để
trao đổi và mua bán trên thị trường là hình thái phổ biến của sản xuất hàng hóa.
Sự trao đổi hàng hóa ban đầu diễn ra dưới hình thức trực tiếp gọi là hàng đổi hàng.
Với sự ra đời của tiền, các cá nhân đã có thể sử dụng nó như một phương tiện để trao đổi.
Khi đó, nền kinh tế hàng hóa cũng là nền kinh tế tiền tệ. Nền kinh tế hàng hoá cũng là
nền kinh tế thị trường nếu cơ chế trao đổi dựa trên giá cả thị trường. Nền kinh tế hàng hóa
đồng thời cũng là nền kinh tế kế hoạch nếu cơ chế trao đổi dựa trên các thỏa thuận kế
hoạch từ trung tâm.
Trong lịch sử phát triển của xã hội, (theo trình tự kinh tế tự nhiên – kinh tế hàng
hóa – kinh tế sản phẩm), kinh tế hàng hóa là một giai đoạn phát triển nhất định. Trong bất
kỳ chế độ xã hội nào, sự tồn tại của các hình thái thị trường và giá trị luôn là đặc điểm
chung của kinh tế hàng hóa.

2.2. Các đặc điểm và tính ưu việt kinh tế hàng hóa:


2.2.1. Đặc điểm
Đặc điểm chung của nền kinh tế hàng hóa trong tất cả các chế độ xã hội là sự tồn tại của
hình thái thị trường và giá trị. Trong đó, giá trị của hàng hóa (lượng lao động xã hội cần
thiết để sản xuất ra nó) được đo bằng tiền dưới dạng giá cả. Các quy luật đặc trưng của
sản xuất hàng hóa là quy luật giá trị và các quy luật liên quan như quy luật lưu thông tiền
tệ, quy luật cung cầu, quy luật trao đổi hàng hóa theo nguyên tắc giá cả tương đương.

2.2.2 Tính ưu việt


Một là, kích thích tính năng động của chủ thể hàng hóa
Hai là, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất
Ba là, mở rộng giao lưu kinh tế, xã hội hoá nền kinh tế
Bốn là, tự phát thúc đẩy lực lượng sản xuất

5
 Chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường:
Hai nền kinh tế trên chỉ khác nhau về trình độ phát triển. Kinh tế thị trường là hình
thức phát triển cao nhất của kinh tế hàng hoá. Nền kinh tế hàng hoá phát triển tức là các
loại hàng hoá, tiền tệ và thị trường được mở rộng, phát triển.
Hàng hóa bao gồm cả yếu tố đầu vào sản xuất cũng như sản phẩm đầu ra của sản
xuất. Dung lượng thị trường và cấu trúc thị trường sẽ được mở rộng và hoàn thiện. Mọi
quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hoá. Khi đó, kinh tế hàng hóa được gọi là
kinh tế thị trường.

2.3. Các nhân tố và quy luật vận động trong kinh tế hàng hóa
2.3.1. Các nhân tố kinh tế sản xuất hàng hóa:
 HÀNG HOÁ:
Khái niệm:
- Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn những nhu cầu cụ thể của con
người thông qua mua bán, trao đổi.
- Hàng hóa có thể là vật thể (hữu hình) hoặc phi vật thể (dịch vụ vô hình).

Hai thuộc tính của hàng hóa:


Thuộc tính hàng hoá: Trong mỗi hình thái kinh-tế xã hội khác nhau, sản xuất hàng
hoá có những đặc điểm khác nhau, nhưng khi một vật phẩm được sản xuất ra dưới dạng
hàng hoá thì đều mang hai thuộc tính cơ bản: giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị sử dụng: là công dụng của vật phẩm làm thoả mãn một nhu cầu cụ thể nào
đó của con người được thể hiện dưới hình thức sử dụng và tiêu dùng. Giá trị sử dụng hay
tính hữu dụng của hàng hóa được xác định chủ yếu bởi các đặc tính tự nhiên của hàng
hóa đó. Do đó, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn. Sản phẩm đã là hàng hóa thì
phải có giá trị sử dụng. Nhưng không phải bất cứ sản phẩm nào có giá trị sử dụng cũng
được gọi là hàng hoá. Bởi lẽ hàng hoá phải là sản phẩm do lao động con người tạo ra.
Trong kinh tế hàng hóa, vật mang giá trị trao đổi là giá trị sử dụng .

6
Giá trị: Theo Mác, để hiểu được giá trị của hàng hóa, người ta phải bắt đầu từ giá
trị trao đổi. Có thể nói rằng trao đổi hàng hóa phải dựa trên giá trị, tức là hai hàng hóa
được trao đổi phải tương đương về mặt giá trị. Giá trị của hàng hoá được định nghĩa là
thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Nói cách khác, giá trị là lao động
xã hội của người sản xuất hàng hóa được kết tinh thành hàng hóa. Giá trị trao đổi cũng
thay đổi nếu giá trị thay đổi và giá trị trao đổi là một hình thức biểu hiện của giá trị. Nếu
giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên thì giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hoá.
Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính, giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng đây
là sự thống nhất của hai thuộc tính trái ngược nhau.

 TIỀN TỆ:
Nguồn gốc và lịch sử ra đời của tiền:
Giá trị của hàng hoá rất trừu tượng chỉ thể hiện qua giá trị trao đổi, giá trị của hàng
hoá biểu hiện bằng tiền được gọi là giá cả. Tiền xuất hiện là kết quả của quá trình lâu dài
sản xuất và trao đổi hàng hoá: hình thái giá trị đơn giản hoặc ngẫu nhiên; hình thái giá trị
mở rộng hoặc toàn bộ; hình thái giá trị chung; tiền tệ ra đời.
Bản chất của tiền tệ:
Vật ngang giá chung, là hàng hoá đặc biệt thể hiện mối quan hệ giữa những người sản
xuất ra hàng hoá.
Chức năng của tiền tệ:
Một là, tiền tệ là phương tiện thanh toán Bốn là, tiền tệ là là thước đo giá trị
Hai là, tiền tệ là phương tiện cất trữ Năm là, tiền tệ là tiền tệ thế giới
Ba là, tiền tệ là phương tiện lưu thông

2.3.2. Quy luật vận động của hàng hóa là quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh
 QUY LUẬT GIÁ TRỊ
Nội dung:
- Sản xuất và trao đổi hàng hoá dựa trên thời gian lao động cần thiết của xã hội.

7
- Trong sản xuất, quy luật giá trị buộc người sản xuất, để tồn tại, phải cân bằng giữa hao
phí lao động cá biệt với hao phí lao động xã hội cần thiết.
- Trong trao đổi hay lưu thông đều phải tuân theo nguyên tắc ngang giá. Có nghĩa là, hai
hàng hoá được trao đổi cho nhau nếu cùng kết tinh một khối lượng lao động như nhau
hoặc mua bán, trao đổi hàng hoá phải được thực hiện với giá trị bằng giá cả.
Tác động:
Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông
Thứ hai, phân hoá sản xuất: Phân chia người sản xuất hàng hoá thành người giàu và
người nghèo.
Thứ ba, kích thích cải tiến: Kích thích sự phát triển tự phát của khoa học và công nghệ,
lực lượng sản xuất, hiệu quả lao động xã hội và năng suất làm cho giá trị cá cá biệt thấp
hơn giá trị xã hội.

 QUY LUẬT CẠNH TRANH


Nội dung:
- Trong sản xuất hàng hoá, cạnh tranh giữa người sản xuất và người tiêu dùng, giữa
những người sản xuất hàng hoá, là một tất yếu khách quan, và là một tất yếu thường
xuyên của những người sản xuất hàng hoá.
- Quy luật cạnh tranh nảy sinh từ bản chất của sản xuất hàng hóa và quy luật giá trị.
Tác động:
Một là, buộc phải luôn chủ động, nhạy bén với nhà sản xuất, không ngừng cải tiến công
nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cao tay nghề hoàn thiện tổ chức quản lý
để nâng cao năng suất, hiệu quả và chất lượng kinh tế
Hai là, độc quyền hay thiếu cạnh tranh vốn thường cho thấy sự bảo thủ, trì trệ và kém
phát triển. Cạnh tranh có cả mặt tích cực và tiêu cực. Cạnh tranh tiêu cực ổ chỗ: có thể
dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh như buôn lậu sản phẩm, làm hàng giả, trốn thuế, ăn
cắp bản quyền, tung tin làm tổn hại uy tín của đối thủ, cạnh tranh làm gia tăng khoảng
cách giàu nghèo, gây tổn hại môi trường sinh thái),... Đó là những thủ đoạn vi phạm đạo
đức, vi phạm pháp luật nhằm thu được lợi ích nhất cho bản thân, gây tổn hại đến lợi ích
của tập thể, xã hội.

8
II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM

Theo Mác, kinh tế hàng hóa không phải là một phương thức sản xuất độc lập, mà
là một hình thức tổ chức kinh tế tồn tại trong phương thức xã hội. Với phạm vi và mức độ
khác nhau, tuy cùng là nền kinh tế hàng hóa, nhưng bản chất của xã hội quy định đặc
điểm của kinh tế hàng hóa xã hội đó. Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa nên vai
trò chủ đạo của nhà nước là định hướng, điều phối nền kinh tế hàng hoá theo chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế hàng hóa
là vấn đề tất yếu, khách quan.
1.1. Thực trạng
“Thời k phong kiến, trình độ lao động và năng suất lao động nước ta còn yếu kém,
chính sách bế quan tỏa cảng ở một số triều đại đã kìm hãm sự lưu thông hàng hóa. Quyền
sở hữu về tư liệu lao động nằm trong tay một số ít người ở tầng lớp thượng lưu. Ở thời kỳ
này, nền sản xuất hàng hóa ở nước ta được đánh giá là mới chỉ xuất hiện chứ chưa thực
sự phát triển.”
“Trong thời kỳ bao cấp trước đổi mới, nền kinh tế hàng hóa đồng thời là nền kinh
tế kế hoạch. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp kìm hãm sự phát triển của
nền sản xuất hàng hóa. Biến hình thức tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực
sản xuất, thủ tiêu cạnh tranh và lưu thông thị trường. Sự nhận thức sai lầm của nước ta
thời kỳ này đã khiến nền kinh tế suy sụp, sức sản xuất hàng hóa xuống dốc không phanh.
Từ năm 1976 đến năm 1980, thu nhập quốc dân tăng rất chậm và sau đó giảm dần sau
một vài năm: tăng 2,8% năm 1997, tăng 2,3% năm 1978, giảm 2% năm 1979, giảm 1,4%
năm 1980. Bình quân giai đoạn 1997 – 1980, chỉ tăng 0,4%/năm, thấp xa so với tốc độ
tăng trưởng dân số, thu nhập quốc dân bình quân đầu người bị sụt giảm 14%.”

1.2. Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế hàng hóa
“Xuất phát từ thực trạng có thể nói là tiêu điều của nền kinh tế nước ta sau nhiều
năm chiến tranh khiến lượng hàng hóa trên thị trường thay đổi rất chậm chạp, khả năng
cạnh tranh thấp. Từ sự thật không mấy sáng sủa, kinh tế thị trường là điều kiện vô cùng
quan trọng để đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảng, phục hồi sản xuất, đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp thời đại.”

9
Sau khi kháng chiến thắng lợi, nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hóa tập
trung trên cơ sở sở hữu chung về tư liệu sản xuất. Dựa trên kinh nghiệm sản xuất của các
nước xã hội chủ nghĩa, nhờ sự nỗ lực của nhân dân ta cùng sự ủng hộ tận tình của các
nước xã hội chủ nghĩa khác, mô hình kế hoạch hoá đã hiện thực hoá những ưu việt của
nó. Bằng việc kế hoạch hoá thoát khỏi nền kinh tế hàng hoá lạc hậu và phi tập trung hoá,
nhà nước đã tập trung vào tay một lực lượng quan trọng về tài sản, đất đai và tiền bạc để
ổn định và phát triển kinh tế.
Từ tháng 8 năm 1979, nhà nước ta đã đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hoá. Chỉ
thị 1000 của Ban Bí thư Trung ương và Quyết định số 25 / CP năm 1981 của Chính phủ
đã trao quyền tự chủ cho các hợp tác xã trong sản xuất kinh doanh.
Đại hội Đảng lần thứ VI, diễn ra vào tháng 12/1986, đã khẳng định quá trình từ
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển từ nền kinh tế tự cấp tự túc
sang nền kinh tế hàng hoá. Điều quan trọng nhất, chúng ta không chỉ thừa nhận từng
khâu, từng bộ phận của sản phẩm là sản xuất hàng hóa mà coi toàn bộ đều là nền kinh tế
hàng hóa, coi đó là một quá trình có tính quy luật đi lên sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước
ta. Tại hội nghị Trung ương lần thứ VI (khóa VI, tháng 3 năm 1989) và Đại hội lần thứ
VII (tháng 6 năm 1991), trên cơ sở nhận thức sâu sắc hơn về tình hình đất nước, Đảng ta
đã nêu rõ: “Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước là hoàn toàn cần thiết để giải phóng, phát huy được các tiềm
năng sản xuất của xã hội.”
Đại hội lần thứ VIII (tháng 6 năm 1996), dựa trên cơ sở kế thừa những chủ trương,
đường lối, chính sách đúng đắn về việc sử dụng nền kinh tế hàng hoá đã được đề ra trong
các đại hội trước đây, Đảng ta đã xác định rõ hơn vai trò của kinh tế hàng hóa – mà phát
triển cao hơn chính là kinh tế thị trường: “ Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích
cực to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một
nhân tố khách quan cần thiết của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa”. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc đổi mới tư duy kinh
tế của Đảng ta. Quan điểm này xuất phát từ tình hình kinh tế-xã hội ở nước ta và từ
nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta. Trên cơ sở vận dụng mô hình chủ nghĩa xã hội
có nền kinh tế hàng hoá theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nó phù hợp với thực tiễn, quy luật
và xu thế của thời đại:
Thứ nhất, nếu chúng ta duy trì cơ chế kinh tế cũ mà không thay đổi cơ chế kinh tế
mới phù hợp, sẽ xảy ra tình trạng không có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa nói đến
việc tích lũy vốn để mở rộng sản xuất. Trong những năm cuối của thập kỷ 80, mặc dù

10
chúng ta đã không ngừng cải tiến và hoàn thiện cơ chế quản lí kinh tế cũ, nhưng việc vẫn
tiếp tục đi theo cơ chế cũ, cho thấy hiệu quả của hệ thống kinh tế - xã hội đã đạt đến mức
rất thấp. Sản xuất không thể thoả mãn được tiêu dùng xã hội, hầu như không có tích luỹ,
có khi còn phải ăn lạm cả vào vốn vay nợ nước ngoài.
Thứ hai, do nền kinh tế đặc thù của kinh tế tập trung vô cùng cứng nhắc, chỉ thúc
đẩy tăng trưởng trong ngắn hạn và thúc đẩy nền kinh tế theo chiều rộng cộng thêm việc
nền kinh tế chỉ huy đã tồn tại ở nước ta quá lâu. Điều đó không những ảnh hưởng nhiều
đến việc tăng tốc sản xuất phát triển mà còn gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm
năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Thứ ba, từ góc độ kinh tế đối ngoại, chúng ta có thể thấy nền kinh tế Việt Nam
đang hội nhập vào nền kinh tế thị trường thế giới. Nước ta vẫn tồn tại kinh tế đối ngoại và
tham gia các nhiệm vụ hợp tác quốc tế. Mặt khác, nếu nền kinh tế Việt Nam hội nhập vào
nền kinh tế thị trường thế giới, việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ và đầu tư trực tiếp nước
ngoài sẽ đưa sự vận động của nền kinh tế Việt Nam và nền kinh tế thị trường thế giới
xích lại gần nhau hơn; đồng nghĩa với việc sẽ kéo tương quan giá cả của hàng hóa trong
nước và tương quan giá cả hàng hóa quốc tế lại nhau hơn.
Thứ tư, xu thế chung của phát triển kinh tế thế giới là phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia không thể tách rời phát triển và hội nhập quốc tế. Cạnh tranh giữa các quốc gia
đã thay đổi hẳn về chất. Không còn là cuộc chạy đua về dân số đông, số lượng vũ khí
nhiều hay một đội quân hùng hậu mà là tiềm lực kinh tế. Việc tạo ra nhiều của cải vật
chất trên đất nước là mục tiêu hàng đầu của chính sách mỗi quốc gia. Điều này đồng
nghĩa với sự phát triển kinh tế cao, mức sống của người dân ổn định và tỷ lệ thất nghiệp
thấp. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu là vai trò và sức mạnh của một quốc
gia, là phương tiện chủ yếu để bảo toàn uy tín và duy trì quyền lực của Đảng cầm quyền.

2. Tiềm năng và hạn chế của Kinh tế hàng hóa ở Việt Nam
2.1. Tiềm năng
Có vị trí địa lý thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng. Với nguồn
nhân lực dồi dào có trình độ chuyên môn cũng như trình độ văn hóa tạm ổn, nước ta ở
mức trung bình so với nhiều nước đang phát triển, ta đã có những chính sách, những chủ
trương đổi mới phù hợp của Đảng và Nhà nước.

Thị trường bước đầu hình thành hệ thống thị trường hàng hóa ở các cấp độ khác nhau, đã
được thống nhất trong cả nước. Quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị trường về cơ bản đã

11
chuyển từ khan hiếm hàng hóa sang dồi dào hàng hóa thậm chí là dư thừa. Có một số
lượng lớn các thương nhân với các hình thức sở hữu khác nhau, có đầy đủ các thành phần
kinh tế trên thị trường. Thị trường trong nước thông thương với thị trường quốc tế cho
thấy thị trường quốc tế của Việt Nam đang trong đà phát triển cả về lượng và chất.
2.2. Hạn chế
Diện tích đất canh tác bình quân đầu người thấp mặc dù là một nước nông nghiệp.
Nền kinh tế kém phát triển, vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, mang nặng dấu ấn của nền kinh tế tự nhiên, thu nhập quốc dân thấp và sức mua
còn hạn chế, thị trường chưa phát triển và chưa đồng bộ.
Cơ sở hạ tầng kém phát triển, khoa học, hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, công nghệ
chưa tân tiến,...
3. Thành tựu kinh tế
3.1. Những thành tựu kinh tế vô cùng quan trọng và ấn tượng
Đất nước thoát khỏi khủng hoảng và nền kinh tế phát triển nhanh chóng.
1986 -1990: Giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Với những chính sách phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nền kinh tế đang từng bước khắc phục những yếu kém và từng bước phát triển.
Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986-1990), công cuộc đổi mới đã đạt được những thành công
ban đầu rất đáng kể:
Thứ nhất, GDP tăng 4,4% / năm.
Thứ hai, tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8-4% / năm.
Thứ ba, giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28% / năm.
Thứ tư, công nghiệp tăng trưởng bình quân hàng năm 7,4%, trong đó sản xuất
hàng tiêu dùng tăng 13 - 14% hàng năm.

(1). Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển lương thực, thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã khôi phục sản xuất, tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm
phát và hơn thế nữa. Đây được coi là thành công trong bước đầu cụ thể hóa nội dung của
công nghiệp hóa Xã hội Chủ nghĩa. Quan trọng nhất, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản
cơ chế quản lí cũ sang cơ chế quản lí mới, thực hiện một bước của quá trình đổi mới đời

12
sống kinh tế, xã hội và giải phóng bước đầu lực lượng sản xuất, tạo ra động lực phát triển
mới.
Giai đoạn 1991-1995: Đất nước dần thoát khỏi tình trạng trì trệ và suy thoái. Nền kinh tế
tiếp tục đạt được những kết quả quan trọng. Khắc phục tình trạng trì trệ, suy thoái, tăng
trưởng tương đối cao, duy trì toàn diện, vượt trội so với hầu hết các chỉ tiêu đề ra:
Thứ nhất, GDP bình quân tăng 8,2% / năm.
Thứ hai, giá trị sản lượng công nghiệp tăng 13,3% / năm.
Thứ ba, nông nghiệp tăng 4,5% so với năm trước.
Thứ tư khu vực dịch vụ tăng 12% so với năm trước.
Thứ năm, trong 5 năm (1991-1995), tổng sản lượng lương thực đạt 125,4 triệu tấn,
tăng 27% so với 1986-1990.

(2). Hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế đều đạt mức tăng trưởng khá. “Nước ta thoát
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng kéo dài hơn 15 năm, tuy có những
bất trắc, nhưng đã tạo điều kiện cần thiết, để chuyển sang giai đoạn phát triển mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
(3).“Giai đoạn 1996-2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước chuyển mình quan trọng
trong phát triển kinh tế thời kì mới và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bất chấp những tác động cùng lúc của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực
(1997-1999) và thiên tai khắc nghiệt xảy ra liên tiếp đã đặt ra những thách thức lớn đối
với nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá:”
Một là, GDP bình quân cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%.
Hai là, dịch vụ tăng 5,2%
Ba là, nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,1%.
Bốn là, tăng 10,5% đối với lĩnh vực công nghiệp và xây dựng.

(4). “Nếu tính cả giai đoạn 1991-2000, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,5%. So
với năm 1990, GDP năm 2000 đã tăng hơn gấp đôi”.

13
(5). Giai đoạn 2001 - 2005: Ở giai đoạn này, sự nghiệp đổi mới ngày càng đi vào chiều
sâu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001-2010) và Kế hoạch 5 năm (2001 – 2005)
được thông qua tại Đại hội IX của Đảng, việc thực hiện kế hoạch đã đạt được những kết
quả nhất định.
Thứ nhất, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá, chuyển dịch theo hướng tích cực,
năm sau cao hơn năm trước.
Thứ hai, GDP tăng bình quân hàng năm 7,5%, riêng năm 2005 đạt 8,4%.
Thứ ba, nông nghiệp tăng 3,8%.
Thứ tư, công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%.
Thứ năm, dịch vụ tăng 7%.
Thứ sáu, quy mô tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 837,8
nghìn tỷ đồng, gấp đôi so với năm 1995.
Thứ bảy, GDP bình quân đầu người khoảng 10 triệu đồng (tương đương 640
USD), vượt mức bình quân của các nước đang phát triển có thu nhập thấp (500 USD)

(6). Từ một nước thiếu lương thực, phải nhập khẩu 500.000 đến 1 triệu tấn lương thực
mỗi năm, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế
giới. Năm 2005, Việt Nam đứng đầu thế giới về xuất khẩu hồ tiêu, đứng thứ hai về xuất
khẩu gạo, cà phê và hạt điều, đứng thứ tư về xuất khẩu cao su,...
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được giữ vững, sự ổn định chính
trị, xã hội, quốc phòng, an ninh được đảm bảo, trước hết đã phát huy nhiều lợi thế của
quốc gia, của từng khu vực và từng ngành. Cải cách thể chế kinh tế, từng bước hoàn thiện
cơ chế, chính sách hệ thống quản lí và điều hành. Cải cách và nâng cao hiệu quả hoạt
động của hệ thống tài chính, tiền tệ. Phát triển nguồn lao động và chất lượng, khoa học và
công nghệ,…
Giai đoạn 2006-2010:
“Một là, nền kinh tế vẫn duy trì mức tăng trưởng khá, tiềm năng và quy mô nền
kinh tế tăng lên, nước ta chuyển từ nhóm nước có thu nhập thấp sang nhóm nước có thu
nhập trung bình (thấp). GDP bình quân 5 năm đạt 7%.

14
Hai là, mặc dù chịu tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu (từ cuối năm 2008), nhưng việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn ở
mức cao. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện đạt khoảng 45 tỷ USD,
vượt 77% so với kế hoạch đã đặt ra.
Ba là, tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD, gấp hơn 2,7
lần kế hoạch và gấp hơn 7 lần mục tiêu đề ra cho giai đoạn 2001-2005.
Bốn là, tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục
tiêu đã đề ra
Năm là, các khoản thanh toán ước tính đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16%.
Sáu là, GDP thực tế năm 2010 đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần năm 2000.”

(7). Năm 2011, sự phục hồi kinh tế sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu còn rất
chậm, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân dù thấp hơn kế hoạch (7,5% - 8%)
nhưng vẫn đạt 7% / năm, vẫn được đánh giá cao hơn so với mức bình quân của các nước
khác trong khu vực.

(8). Như vậy, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 7,34% / năm trong vòng 20 năm
(1991-2011), đặc biệt cao trong khu vực Đông Nam Á, châu Á và thậm chí là toàn thế
giới. Nền kinh tế năm 2011 lớn hơn 4,4 lần so với năm 1990 và hơn 2,1 lần so với năm
2000 (bình quân 2001-2011 là 7,14% / năm).

(9).“Năm 2012 GDP so với năm 2011 tăng 5,03%. Tuy mức tăng trưởng thấp hơn mức
5,89% của năm 2011 nhưng đây là mức tăng trưởng hợp lý trong điều kiện kinh tế toàn
cầu còn nhiều khó khăn.
Thứ nhất, sản lượng nông, lâm, thủy sản dự kiến tăng 3,4% so với năm 2011.
Thứ hai, công nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011.
Thứ ba, chỉ số giá tiêu dùng tăng 6,81% trong năm 2012.
Thứ tư, đầu tư phát triển tăng 7% so với cùng kỳ, chiếm 33,5% GDP.
Thứ năm, xuất nhập khẩu hàng hóa tăng 18,3%.”

15
(10). Kim ngạch xuất khẩu có thể vượt 100 tỷ USD, tỉ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu
trên GDP năm 2011 đạt khoảng 170%, đứng thứ năm toàn thế giới. Từ năm 1988 đến
tháng 7 năm 2012, vốn FDI đăng ký vượt 236 tỷ USD và giá trị thực hiện vượt 96,6 tỷ
USD. Kể từ năm 1993, gần 80 tỷ USD vốn ODA đã được cam kết và hơn 35 tỷ USD đã
được giải ngân.

(11).“Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực kinh tế phát triển khá:
Một là, nông nghiệp phát triển ổn định, nhất là sản xuất lương thực, đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia.
Hai là, sản phẩm công nghiệp ngày càng đa dạng, phong phú, nâng cao về chất
lượng, từng bước nâng cao về sức cạnh tranh, bảo đảm cung cầu kinh tế, giữ vững thị
trường trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Ba là, chú trọng đầu tư phát triển nhiều ngành công nghệ cao mới.
Bốn là, dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định. Sự phục hồi và tăng trưởng này tạo
nền tảng vững chắc cho việc thực hiện Kế hoạch 5 năm tiếp theo (2011-2015) đạt kết quả
vững chắc hơn.”

3.2. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn
sản xuất và thị trường:
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tỉ trọng của ngành nông nghiệp trong GDP giảm dần, đạt 46,3% năm 1986, 20,9%
năm 2005 và 20,6% năm 2010. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi chuyển dịch theo hướng tăng
dần tỉ trọng sản phẩm có năng suất, lợi nhuận và giá trị xuất khẩu cao.
Tỉ trọng của công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục với trang thiết bị và
công nghệ ngày càng hiện đại. Năm 1988, con số này là 21,6% và năm 2005 đã tăng lên
41%.
Tỉ trọng dịch vụ tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005.
Nông nghiệp đang trải qua một sự chuyển đổi đáng kể, phát triển từ một nền độc
canh năng suất thấp, khan hiếm sang một nền nông nghiệp không chỉ tự cung tự cấp mà

16
còn là nhà xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới và quốc tế; đóng góp vào an ninh lương
thực toàn cầu. Xuất khẩu hàng loạt cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu và thủy sản được ưu
tiên cao trên toàn thế giới.
Ngành dịch vụ ngày càng đa dạng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất và
sinh hoạt. Du lịch, dịch vụ bưu chính, viễn thông phát triển nhanh chóng. Các dịch vụ tài
chính, ngân hàng, tư vấn pháp lí,... phát triển theo hướng tiến bộ và hiệu quả.

3.3. Thực hiện có hiệu quả các chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, khai
thác tối đa tiềm năng của các thành phần trong nền kinh tế:
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả, tập trung
hơn vào các ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Đó là một bước quan trọng nhằm
đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước, xóa bỏ bao cấp, thực hiện mô hình doanh
nghiệp, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong cộng đồng doanh
nghiệp. Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân, huy động tốt hơn các nguồn
lực và tiềm năng trong nhân dân là những động lực rất quan trọng để tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả
nước. Kinh tế đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng khá cao và đang trở thành một bộ
phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển
giao công nghệ, vận tải quốc tế, đóng góp vào ngân sách quốc gia và giải quyết việc làm
cho nhiều người.

3.4. Thể chế kinh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình
thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định.
“Sau hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ.
Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và hệ thống
quản lý nhà nước có bước chuyển biến quan trọng. Với chủ trương tích cực và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, mối quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước và các tổ chức
quốc tế ngày càng được mở rộng: Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết trong Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)
và Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), duy trì quan hệ thương mại với 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, ký kết hơn 90
hiệp định thương mại song phương với các nước thể hiện một bước phát triển hoàn toàn
mới trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại.”

17
“Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được tiếp tục phát triển và
hoàn thiện. Đường lối, chủ trương đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thành luật,
cơ chế chính sách ngày càng được hoàn thiện, đồng bộ hơn. Môi trường đầu tư kinh
doanh ngày càng được cải thiện. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục hình
thành và phát triển. Nền kinh tế nhiều thành phần phát triển mạnh mẽ. Các thử nghiệm về
hợp nhất doanh nghiệp và thành lập các nhóm doanh nghiệp nhà nước đã tạo ra một số
kết quả. Từ năm 2006 đến năm 2010, số công ty tăng hơn 2,3 lần và số vốn tăng 7,3 lần
so với năm 2001-2005. Công ty cổ phần đã trở thành một hình thức tổ chức sản xuất kinh
doanh phổ biến.”

4. Điều kiện và giải pháp phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam:
Thứ nhất, sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu, hình thành sở hữu nhà nước, sở hữu tập
thể, sở hữu hỗn hợp, sở hữu cá nhân theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. “
Thứ hai, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự
phát triển của phân công lao động xã hội.
Thứ ba, phát triển đồng bộ các loại thị trường như thị trường lao động, thị trường vốn tư
liệu sản xuất, thị trường tiêu dùng và dịch vụ.
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải thiện môi trường pháp lý.
Thứ năm, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại.
Thứ sáu, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới vai trò quản lí của nhà nước,
cải cách thủ tục hành chính nhà nước. Đổi mới công cụ quản lí vĩ mô quốc gia, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, nhanh chóng chuyển cơ chế sang cơ chế thị trường, đổi mới
chính sách kinh tế, nhất là chính sách phân phối thu nhập.”

18
KẾT LUẬN
“Nước ta đã trải qua hơn hai mươi năm trên chặng đường đổi mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đất nước chúng ta chỉ mới bắt đầu phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa và vận động theo cơ chế
thị trường. Trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế
thị trường thì nước ta đã hội tụ đủ những điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa. Do đó,
nhờ áp dụng lý luận về sản xuất hàng hóa và hàng hóa của C.Mác đã tạo cơ hội cho sự
hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam cho đến ngày nay. Lý
luận này có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay vì nó đã giải thích được bản chất của các thuộc tính hàng hóa, sự phân biệt giữa
yếu tố bản chất cũng như là hiện tượng liên quan đến trao đổi và mua bán hàng hóa.
Đồng thời đó còn là nền tảng giải thích sự ngang bằng về giá trị trong trao đổi và giúp ta
phân tích đầy đủ về bản chất của nó trong quá trình trao đổi mua bán cũng như làm rõ
hơn về bản chất của “tế bào kinh tế trong chủ nghĩa tư bản”. Riêng với nền kinh tế Việt
Nam (nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa), lý luận này lại là cơ sở để đòi
hỏi đảm bảo tính cạnh tranh, tính công bằng và hoàn thiện thể chế kinh tế, cải thiện vai
trò quản lý kinh tế của Nhà nước.”

19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, PGS.TS Ngô Tuấn
Nghĩa, ngày 20 tháng 7 năm 2018.

[2] Thuvien24.vn

[3] Tailieu.vn

[4] Tài liệu lí luận kinh tế hàng hóa của các Mác 

[5] Thực tiễn phát triển kinh tế ở Việt Nam

[6] Những lý luận cơ bản về sản xuất hàng hóa, hàng hóa và tiền tệ của KTCT Mác-Lênin

20

You might also like