You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN


HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN

ĐỀ TÀI: TRÌNH BÀY LÝ LUẬN CỦA CN MÁC LÊNIN VỀ SẢN


XUẤT HÀNG HÓA VÀ LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN Ở VIỆT
NAM.

Họ và tên sinh viên:


Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lớp:
Kinh tế nông nghiệp 62

HàNội,tháng 6/năm 2021


MỤC LỤC :
Lời mở đầu………………………………………………………………………...1
A.LÍ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA……………………..3
1.Khái niệm và điều kiện của sản xuất hàng hóa………………………………….3
1.1.Sơ lược về sản xuất hàng hóa………………………………………………….3
1.2.Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa………………………………………..3
2.Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa……………………………………4
3.Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa……………………………………....6
3.1.Đặc trưng của sản xuất hàng hóa……………………………………………….6
3.2.Tính ưu việt của sản xuất hàng hóa…………………………………………….7
B.VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA QUA LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở
NƯỚC TA………………………………………………………………………….9
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kì đầu của xã hội loài người do sự lạc hậu của lực lượng sản
xuất nên sản xuất của xã hội mang tính tự cung tự cấp khiến nhu cầu của con người
bị bó hẹp trong một phạm vi, giới hạn nhất định. Khi lực lượng sản xuất phát triển
và có nhiều thành tựu mới, con người dần thoát khỏi nền kinh tế tự nhiên và
chuyển sang nền kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế hàng hóa phát triển càng mạnh mẽ
và đến đỉnh cao của nó là nền kinh tế thị trường. Sản xuất hàng hóa là một bộ phận
của kinh tế quốc tế, là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ
được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển
của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sản xuất hàng hóa được ví như một mắt xích
quan trọng trong guồng máy của nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng, nhất là trong
xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, không những góp phần đắc lực vào quá
trình thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển mà còn mở rộng quan hệ giao lưu, hợp
tác quốc tế cả về các lĩnh vực khác. Sản xuất hàng hóa là một quá trình tạo ra sản
phẩm hàng hóa nhằm đáp ứng và làm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
Trong thời đại nền kinh tế mở và cạnh tranh như hiện nay, mỗi quốc gia phải
nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh đất nước, phù hợp với khu vực thế giới và thời đại. Chính vì vậy việc nghiên
cứu về điều kiện ra đời, đặc trưng, ưu thế của sản xuất hàng hóa là vô cùng quan
trọng, từ đó ta có thể liên hệ với nước ta và làm cho quá trình sản xuất hàng hóa
của nước ta ngày càng phát triển với chất lượng cao hơn. Bài tiểu luận của em sẽ
trình bày những lý luận của Mác-Lenin về sản xuất hàng hóa, được nghiên cứu
bằng phương pháp đánh giá sự vật hiện tượng trong mối liên hệ và phát triển
không ngừng (dựa trên quan điểm duy vật biện chứng) – phương pháp trừu tượng

1
hóa khoa học đặc thù của kinh tế chính trị. Do những hạn chế cả về mặt kiến thức
và mặt thời gian bài tiểu luận này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em rất
mong nhận được sự góp ý của cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn.

2
A.LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA.
1. Khái niệm và điều kiện của sản xuất hàng hóa.
1.1.Sơ lược về sản xuất hàng hóa.
Theo C.Mác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó,
những người sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi, mua bán. Đây cũng là
hình thức tổ chức sản xuất phổ biến trên thế giới và là cơ sở cho tồn tại và phát
triển của xã hội loài người.
Sản xuất hàng hóa đã từng tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế - xã hội .
Trong các hình thái xã hội trước Chủ nghĩa tư bản, sản xuất hàng hoá chưa phát
triển. Đầu tiên nền kinh tế tự cung tự cấp xuất hiện, gắn liền với nền kinh tế tự
nhiên sau đó xuất hiện sự chuyên môn hóa. Đến thời kỳ Tư bản chủ nghĩa, nó đã
phát triển tới đỉnh cao nhất, trở thành quan hệ thống trị, phổ biển trong xã hội. Cho
đến xã hội xã hội chủ nghĩa, sản xuất hàng hoá vẫn còn quy luật giá trị - quy luật
kinh tế của sản xuất hàng hoá vẫn còn hoạt động, mặc dù mục đích của sản xuất xã
hội chủ nghĩa là nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và văn hoá của mọi thành viên
trong xã hội, chứ không phải để buôn bán nhằm thu lợi nhuận
1.2.Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa.
Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của loài người .
Nền kinh tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển khi có các điều kiện:
Một là, phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các
ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa những người
sản xuất thành những ngành nghề khác nhau. Khi đó, mỗi người thực hiện sản xuất
một hoặc một số loại sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của họ lại yêu cầu nhiều

3
loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu của mình, tất yếu những người sản
xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau.
Hai là, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất.
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa những
người sản xuất độc lập với nhau, có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó,
người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua
bán, tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hóa. C.Mác viết: “chỉ có sản phẩm
của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với
nhau như là những hàng hóa”. Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản
xuất là điều kiện đủ đẻ nền sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển.
Trong lịch sử, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất hiện khách
quan dựa trên sự tách biệt về sở hữu. Xã hội loài người càng phát triển, sự tách biệt
về sở hữu càng sâu sắc, hàng hóa được sản xuất ra càng phong phú.
Khi còn sự tồn tại của cả hai điều kiện nêu trên, con người không thể dùng ý
chí chủ quan mà xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa được. Việc cố tình xóa bỏ nền sản
xuất hàng hóa sẽ làm cho xã hội đi tới chỗ khan hiếm và khủng hoảng. Với ý nghĩa
đó, cần khẳng định, nền sản xuất hàng hóa có ưu thế tích cực vượt trội so với nền
sản xuất tự cấp, tự túc.

=> Kết luận: Như vậy, đây chính là hai điều kiện cần và đủ để sản xuất hàng hóa ra
đời, tồn tại và phát triển, nếu thiếu một trong hai điều kiện ấy sản xuất hàng hóa sẽ
không tồn tại.
2.Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa.
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa với lao động sản
xuất hàng hóa, C.Mác phát hiện ra rằng, sở dĩ hàng hóa có hai loại thuộc tính là do

4
lao động của người sản xuất hàng hóa có tính hai mặt: mặt cụ thể và mặt trừu
tượng của lao động.
-Lao động cụ thể:
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề
nghiệp chuyên môn nhất định.
Mỗi lao động cụ thể có mục đích, đối tượng lao động, công cụ, phương pháp
lao động riêng và kết quả riêng. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng
hóa.
Các loại lao động cụ thể khác nhau tạo ra những sản phẩm có giá trị sử dụng
khác nhau. Phân công lao động xã hội càng phát triển, xã hội càng nhiều ngành
nghề khác nhau, các hình thức lao động cụ thể càng phong phú, đa dạng , càng có
nhiều giá trị sử dụng khác nhau.
-Lao động trừu tượng:
Lao động trừu tượng là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá không kể
đến hình thức cụ thể của nó; đó là sự hao phí sức lao động nói chung của người sản
xuất hàng hóa về cơ bắp, thần kinh, trí óc.
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa.
Đến đây, có thể nêu, giá trị hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản
xuất kết tinh trong hàng hóa. Lao động trừu tượng là cơ sở để so sánh, trao đổi các
giá trị trừu tượng khác nhau
Trước C.Mác, D.Ricardo cũng đã thấy được các thuộc tính của hàng hóa.
Nhưng D.Ricardo lại không thể lí giải được vì sao lại có hai thuộc tính đó. Vượt
lên so với lí luận của D.Ricardo, C.Mac phát hiện, cùng một hoạt động lao động
nhưng hoạt động lao động đó có tính hai mặt. C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra
tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Phát hiện này là cơ sở để C.Mác

5
phân tích một cách khoa học sự sản xuất giá trị thặng dư.
Lao động cụ thể phản ánh tính chất tư nhân của lao động sản xuất hàng hóa
bởi việc sản xuất cái gì, như thế nào là việc riêng của mỗi chủ thể sản xuất.

Lao động trừu tượng phản ánh tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng
hóa, bởi lao động của mỗi người là một bộ phận của lao động xã hội, nằm trong hệ
thống phân công lao động xã hội. Do yêu cầu của mối quan hệ này, việc sản xuất
và trao đổi phải được xem là một thể thống nhất trong nền kinh tế hàng hóa. Lợi
ích của người sản xuất thống nhất với lợi ích của người tiêu dùng. Người sản xuất
phải thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người tiêu dùng, người tiêu dùng đến
lượt mình lại thúc đẩy sự phát triển sản xuất. Mâu thuẫn giữa lao động cụ thể và
lao động trừu tượng xuất hiện khi sản phẩm do những người sản xuất hàng hóa
riêng biệt tạo ra không phù hợp với nhu cầu xã hội, hoặc khi mức hao phí lao động
cá biệt cao hơn mức hao phí mà xã hội có thể chấp nhận được. Nghĩa là có một số
hao phí lao động cá biệt không được xã hội thừa nhận. Mâu thuẫn này tạo ra nguy
cơ khủng hoảng tiềm ẩn.

3/ Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa:

3.1Đặc trưng của sản xuất hàng hóa:

Sản xuất hàng hoá ra đời từ sản xuất tự cấp tự túc và thay thế nó trong quá trình
lịch sử lâu dài. Ở các xã hội trước chủ nghĩa tư bản, sản xuất hàng hoá là sản xuất
giản đơn chỉ giữ vai trò phụ thuộc. Tuy nhiên chính sản xuất hàng hoá giản đơn đã
tạo khả năng phát triển lực lượng sản xuất thiết lập các mối liên hệ kinh tế giữa các
đơn vị kinh tế trước đó vốn tách biệt nhau. Quan hệ hàng hoá phát triển nhanh
chóng ở thời kỳ chế độ phong kiến tan rã và góp phần thúc đẩy quá trình đó diễn ra

6
mạnh mẽ hơn.

Hình thức điển hình nhất, cao nhất, phổ biến nhất của sản xuất hàng hoá là
sản xuất hàng hoá TBCN. Dưới CNTB quan hệ hàng hoá thâm nhập vào mọi lĩnh
vực, mọi chức năng của nền sản xuất xã hội, hàng hoá trở thành tế bào của nền sản
xuất xã hội . Nó mang đặc điểm: Dựa trên sự tách rời tư liệu sản xuất với sức lao
động trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê dưới hình thức chiếm đoạt giá trị thặng
dư.

Sản xuất hàng hoá tiếp tục tồn tại và phát triển dưới CNXH. Đặc điểm của
sản xuất hàng hoá XHCN là nó không dựa trên cơ sở chế độ người bóc lột người
và nó nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của mọi thành viên xã
hội trên cơ sở sản xuất kinh doanh .

3.2.Tính ưu việt của sản xuất hàng hoá:

Sản xuất hàng hoá tiếp tục tồn tại và phát triển ở nhiều xã hội là sản phẩm của
lịch sử phát triển sản xuất của loài người. Bởi vậy nó có nhiều ưu thế, và là một
phương thức hoạt động kinh tế tiến bộ hơn hẳn so với sản xuất tự cấp tự túc.

Nó làm thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao
động xã hội. Nó thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất nhanh tróng làm cho sự
phân công chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu sắc, hợp tác hoá chặt chẽ hình
thành các mối liên hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau của những người sản xuất
hình thành thị trường trong nước và thế giới.

Nó thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, đó là cơ sở để thúc
đẩy quá trình dân chủ hoá, bình đẳng và tiến bộ xã hội. Do sản xuất hàng hoá dựa
trên sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất nên nó khai thác được

7
những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở cũng như từng
vùng, từng địa phương. Đồng thời, sản xuất hàng hoá cũng tác động trở lại làm cho
phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng tăng, mối quan hệ
giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc. Từ đó, làm cho năng
suất lao động tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của XH được đáp ứng đầy đủ hơn.

Trong nền sản xuất hàng hoá, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi
nguồn lực và nhu cầu của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng mà nó được
mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực xã hội. Từ đó, tạo điều kiện cho việc
ứng dụng những thành tựu khoa học - kĩ thuật vào sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát
triển, chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn.

Trong nền sản xuất hàng hóa, để tồn tại và sản xuất có lãi, người sản xuất
phải luôn luôn năng động, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng
suất lao động, giảm chi phí sản xuất, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu
dùng. Nhờ đó, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất lao động tăng,
hiệu quả kinh tế ngày càng cao.

 Kết luận:

Sản xuất hàng hóa làm thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao
năng suất lao động xã hội, thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất nhanh tróng làm
cho sự phân công chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu sắc, hợp tác hoá chặt
chẽ hình thành các mối liên hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau của những người
sản xuất hình thành thị trường trong nước và thế giới. Như vậy, sản xuất hàng hóa
có hiệu quả hơn hẳn tự cung, tự cấp và tạo động lực phát triển sản xuất, thay đổi
diện mạo nền kinh tế.

8
B. VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA QUA LIÊN HỆ
THỰC TẾ Ở NƯỚC TA:

Theo quan điểm của C.Mác-kinh tế hàng hoá không phải là một phương
thức sản xuất độc lập mà là một hình thức tổ chức kinh tế tồn tại trong các phương
thức xã hội. Với phạm vi và mức độ khác nhau,tuy cùng là nền kinh tế hàng hoá
nhưng bản chất của xã hội quy định đặc điểm của kinh tế hàng hoá của xã hội đó.
Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa nên vai trò quản lý của nhà nước định
hướng nền kinh tế hàng hoá theo chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đất nước ta vốn là
thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội rất
thấp. Đất nước lại trải qua hàng chục năm chiến tranh để lại hậu quả nặng nề.
Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ
chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Chính vì vậy, nhà nước ta khẳng định chỉ có thể
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần mới phát triển được lực lượng sản
xuất;mới thúc đẩy sự nghiệp Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá; mới đẩy lùi được kinh
tế tự nhiên; khắc phục được hậu quả của kinh tế kế hoạch hoá tập trung; mới làm
cho kinh tế nước ta hoà nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. Đại hội VI của Đảng
năm1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành theo định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự phát triển sản xuất,
mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, các vùng, các nước... không chỉ làm
cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hoá, tinh thần cũng được nâng cao hơn,
phong phú và đa dạng hơn. Nền sản xuất hàng hóa ở nước ta thời gian qua là một
nền sản xuất vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều chỉnh của chính phủ theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. đứng trước vận hội mới của đất nước, nền sản xuất
hàng hóa ở nước ta có những thuận lợi nhất định và những khó khăn không nhỏ.

9
- Về thuận lợi:

+ Là một nền kinh tế đang lên với tốc độ phát triển cao, tạo được niềm tin với các
nhà đầu tư và bạn bè quốc tế. Việt Nam có giá nhân công rẻ, trình độ dân chí khá
cao, thị trường lớn với dân số đông, một đất nước ổn định về chính trị và một quyết
tâm đổi mới mạnh mẽ của chính phủ, về tài nguyên, về vị trí địa lý,...

+ Cho đến nay đất nước ta đã đạt một số thành tựu nổi bật sau 35 năm trong công
cuộc đổi mới đất nước như: Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990),
mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995,
GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức
tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm
2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng
GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực,
thế giới, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2020 vẫn đạt
543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2019; xuất siêu 19,1 tỷ USD - cao nhất trong
5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm 2016. Với kim ngạch xuất nhập khẩu ấn tượng
đã đưa Việt Nam xếp thứ 22 thế giới về quy mô kim ngạch và năng lực xuất khẩu,
đứng thứ 26 về quy mô thương mại quốc tế. 

+ Xu hướng chung của phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi
nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Với quan điểm hợp tác
hai bên cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, Việt Nam đã và đang
tạo dựng được những mối quan hệ tốt đẹp với nhiều nước trên thế giới; tham gia
vào những tổ chức kinh tế xã hội như: ASIAN, AFTA, WTO. Đặc biệt, năm 2020,
Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên không thường trực Hội đồng
Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA, trong bối cảnh vô

10
cùng khó khăn của đại dịch COVID-19 và những thiệt hại nặng nề do thiên tai bão
lũ... song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp phần nâng cao uy tín,
vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

- Về khó khăn:

+ Bên cạnh đó, nền kinh tế hàng hoá nước ta còn bộc lộ rất nhiều yếu kém như:
trình độ khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập…
Đảng và Nhà nước ta đã và đang có những chính sách, giải pháp nhằm khắc phục
những hạn chế trên. Xu hướng chung của phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển
kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Với
quan điểm hợp tác hai bên cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau,Việt
giới; tham gia vào những tổ chức kinh tế xã hội như: ASIAN, AFTA, WTO.

+ Phải khẳng định là nền kinh tế nước ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và
thách thức lớn. Đi lên từ một nền nông nghiệp nhỏ lạc hậu, nền kinh tế ta có đặc
thù là sản xuất nhỏ Nam đã và đang tạo dựng được những mối quan hệ tốt đẹp với
nhiều nước trên thế lẻ mang nặng tính tự cung tự cấp, sức cạnh tranh yếu. trình độ
công nghệ sản xuất, quản lý, cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém. Chất lượng lao
động được đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu ngày một khắt khe của nền kinh tế,
người dân nước ta chưa có được cách nghĩ năng động, chính sách dù được cải thiện
còn nhiều bất cập... bên cạnh đó, các nền kinh tế khác và đặc biệt là, Trung Quôc,
khu vực Đông Nam Á đã và đang lên mạnh mẽ và cạnh tranh gay gắt với Việt
Nam... Do mục đích của sản xuất hàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu của
bản thân người sản xuất như trong kinh tế tự nhiên mà để thoả mãn nhu cầu của
người khác, của thị trường. Sự gia tăng không hạn chế nhu cầu của thị trường là
một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.

11
+ Cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi người sản xuất hàng hoá phải năng
động trong sản xuất - kinh doanh, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá
sản xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tiêu thụ
được hàng hoá và thu được lợi nhuận ngày càng nhiều hơn. Cạnh tranh đã thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.

+ Sự phát triển của sản xuất xã hội với tính chất "mở" của các quan hệ hàng hoá
tiền tệ làm cho giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các địa phương trong nước và quốc
tế ngày càng phát triển. Từ đó tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời sống vật chất
và văn hoá của nhân dân cấp, tự túc của nền kinh tế, tất yếu phải phát triển sản xuất
hàng hoá để phát huy những ưu thế của nền kinh tế .

+  Bên cạnh đó,Việt Nam sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức về việc sản xuất
hàng hóa trong bối cảnh dịch Covid-19 đang diễn biến bất thường, kinh tế nước ta
có độ mở lớn và chịu tác động đan xen nhiều mặt bởi tình hình kinh tế quốc tế
ngày càng phức tạp, khó lường.

 Kết luận:

Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đều sử dụng cỗ xe kinh tế hàng hoá để phát
triển lực lượng sản xuất. Nhưng dưới tư bản chủ nghĩa không tránh khỏi quy luật
cá lớn nuốt cá bé, bất bình đẳng, bất công. Chúng ta phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhằm tăng trưởng kinh tế, khuyến khích làm giàu, xoá đói giảm nghèo, gia
tăng về mức sống nhưng giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Chúng ta phải chủ động

12
nắm thời cơ, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục những nguy cơ nhằm vượt lên để
phát triển nhanh, vững chắc và đúng hướng. Có như vậy, đất nước ta mới ngày
càng phồn vinh, giàu đẹp hơn.

Danh mục tài liệu tham khảo:

1. Gíao trình kinh tế chính trị Mác-Lênnin.


2. Kinh tế học phổ thông – GS Trần Phương – Trường Đại học quản lý và kinh
doanh Hà Nội.
3. Thư viện 24.com
4. Tài liệu.vn
5. Trang thông tin điện tử hội đồng lý luận trung ương.

13

You might also like