You are on page 1of 20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

BÀI BÁO CÁO THẢO LUẬN


HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN

ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ


VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN VIỆT NAM
GIẢNG VIÊN: VÕ TÁ TRI
NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN: NHÓM 6
LỚP 2130RLCP1211
Phần mở đầu……………………………….……………………………………….1

Phần 1: Cơ sở lý thuyết…………………………..………………………………....2

1.1> Sản xuất hàng hóa……………………………….…………………………..2


1.1.1> Sản xuất hàng hóa và tính tất yếu…………………….…………...2
1.1.2> Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa………………….………..3
1.1.3> Đặc trưng của sản xuất hàng hóa………………………….………4
1.1.4> Ưu thế của sản xuất hàng hóa………………………………….….4
1.2> Nền kinh tế sản xuất hàng hóa………………………………………………4
1.2.1> Khái niệm……………………………………………………………4
1.2.2> Đặc trưng, tính ưu việt của kinh tế hàng hóa………………………..5
1.2.3> Các nhân tố và quy luật vận động kinh tế hàng hóa……………..….5

Phần 2: Liên hệ thực tế Việt Nam……………………………………..…………..8

2.1> Thực trạng kinh tế Việt Nam để chúng ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng
hóa là tất yêu khách quan………………………………………..…………………8

2.2> Tiềm năng và hạn chế của kinh tế hàng hóa ở nước ta……………………..10

2.3> Những thành tựu kinh tế mà nước ta đạt được từ những năm đổi mới đến
nay……………………………………………………………...…………………11

2.4> Điều kiện và giải pháp phát triển nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam….…….15

TÀI LIỆU THAM KHẢO


Lời mở đầu
Trong thời kì đầu của xã hội loài người do sự lạc hậu của lực lượng sản xuất nên
sản xuất của xã hội mang tính tự cung tự cấp khiến nhu cầu của con người bị bó
hẹp trong một phạm vi, giới hạn nhất định. Khi lực lượng sản xuất phát triển và có
nhiều thành tựu mới, con người dần thoát khỏi nền kinh tế tự nhiên và chuyển sang
nền kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế hàng hóa phát triển càng mạnh mẽ và đến đỉnh
cao của nó là nền kinh tế thị trường. Sản xuất hàng hóa là một bộ phận của kinh tế
quốc tế, là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ được thực
hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực
lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, sản xuất hàng hóa được ví như một mắt xích quan trọng
trong guồng máy của nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng, nhất là trong xu thế hội
nhập và phát triển hiện nay, không những góp phần đắc lực vào quá trình thúc đẩy
toàn bộ nền kinh tế phát triển mà còn mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác quốc tế cả
về các lĩnh vực khác. Sản xuất hàng hóa là một quá trình tạo ra sản phẩm hàng hóa
nhằm đáp ứng và làm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Trong thời đại nền
kinh tế mở và cạnh tranh như hiện nay, mỗi quốc gia phải nghiên cứu tìm ra hướng
đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp
với khu vực thế giới và thời đại. Chính vì vậy việc nghiên cứu về điều kiện ra đời,
đặc trưng, ưu thế của sản xuất hàng hóa là vô cùng quan trọng, từ đó ta có thể liên
hệ với nước ta và làm cho quá trình sản xuất hàng hóa của nước ta ngày càng phát
triển với chất lượng cao hơn. Bài tiểu luận của chúng em sẽ trình bày những lý
luận của Mác-Lenin về sản xuất hàng hóa và liên hệ thực tiễn Việt Nam.Do những
hạn chế cả về mặt kiến thức và mặt thời gian bài thảo luận này sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót, chúng em rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

1
I.Cơ sở lý thuyết
1.1. Sản xuất hàng hóa 

1.1.1 Sản xuất hàng hóa và tính tất yếu 

   Sản xuất hàng hóa là một khái niệm được sử dụng trong kinh tế chính trị Mác-
Lênin dùng để chỉ về kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra
không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra
nó mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi,
mua bán trên thị trường. 
Nói cách khác, toàn bộ quá trình sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng; các câu
hỏi sản xuất cái gì, như thế nào, và cho ai đều thông qua hệ thống thị trường và do
thị trường quyết định. Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế phân biệt với sản
xuất tự cung tự cấp ở thời kì đầu của lịch sử loài người. 
Ở thời kỳ đó, sản phẩm của sự lao động được tạo ra chỉ để phục vụ trực tiếp cho
nhu cầu của chính người sản xuất ra chúng.
Sản xuất tự cung tự cấp Sản xuất hàng hóa ( kinh tế hàng hóa)
( kinh tế tự nhiên)
Là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do Là kiểu tổ chức mà ở đó sản phẩm được
lao động tạo ra nhằm để thỏa mãn nhu sản xuất ra nhằm mục đích trao đổi hoặc
cầu của chính bản thân người sản xuất mua bán trên thị trường, không nhằm
mục đích đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
chính người trực tiếp sản xuất ra nó
Người sản xuất cũng là người tiêu dùng Người sản xuất không phải người tiêu
dùng
Lực lượng sản xuất kém phát triển Lực lượng sản xuất phát triển
Gồm 2 giai đoạn: sản xuất - tiêu dùng Gồm 3 giai đoạn: sản xuất - trao
đổi(phân phối) – tiêu dùng

- Sản xuất tư cung tự cấp: Đây là kiểu tổ chức sản xuất tự nhiên khép kín
trong phạm vi từng đơn vị nhỏ, không cho phép mở rộng quan hệ với các
đơn vị khác. Vì vậy nó có tích chất bảo thủ, trì trệ, bị giới hạn ở nhu cầu hạn
hẹp.

 Sản xuất tự cung tự cấp thích ứng với thời kỳ lực lượng sản xuất còn chưa
phát triển, khi mà lao động thủ công chiếm địa vị thống trị. Nó có trong thời kỳ
2
công xã nguyên thủy và tồn tại chủ yếu trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Trong
thời kỳ phong kiến, sản xuất tự cung tự cấp tồn tại dưới hình thái điền trang,
thái ấp của địa chủ và kinh tế nông dân gia trưởng. Khi lực lượng sản xuất phát
triển cao, phân công lao động được mở rộng thì dần dần xuất hiện trao đổi hàng
hóa. Khi trao đổi hàng hóa trở thành mục đích thường xuyên của sản xuất thì
sản xuất hàng hóa ra đời theo đúng quy luật tất yếu của nó.

1.1.2 Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa

 Sản xuất hàng hóa là một phạm trù lịch sử, chỉ xuất hiện và tồn tại trong xã hội khi
có những điều kiện nhất định. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác thì sự ra đời và
tồn tại của sản xuất hàng hóa phụ thuộc vào hai điều kiện cơ bản sau: 

Phân công lao động xã hội: là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động xã
hội ra thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau của nền sản xuất xã hội.
Tuy nhiên, bản thân con người lại có nhiều nhu cầu khác nhau, bởi vậy đòi hỏi họ
phải đi trao đổi sản phẩm của mình để thỏa mãn các nhu cầu đó.
 Phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hóa. Theo C.Mác:
“Sự phân công lao động xã hội là điều kiện tồn tại của nền sản xuất hàng hóa, mặc
dầu ngược lại, sản xuất hàng hóa không phải là điều kiện tồn tại của sự phân công
lao động xã hội". Phân công lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao
đổi hàng hóa càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.

Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất: là những
người sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với nhau, có sự
tách biệt về mặt lợi ích. Do đó sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ
thể kinh tế, người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải
thông qua trao đổi, mua bán hàng hóa. 
Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư hữu tư liệu sản xuất
quy định. Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc
sở hữu của mỗi cá nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu
của họ.
Như vậy: Phân công lao động xã hội làm người sản xuất phụ thuộc vào nhau còn
chế độ tư hữu lại chia rẽ làm họ độc lập với nhau. Đây là một mâu thuẫn và mâu
thuẫn này chỉ được giải quyết thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm của nhau.

Chính vì thế, sản xuất hàng hóa bắt nguồn từ yêu cầu của cuộc sống. 

1.1.3 Đặc trưng của sản xuất hàng hóa 

3
Sản xuất hàng hóa có hai đặc trưng cơ bản sau:
 Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán. Sản xuất hàng hóa là
kiểu tổ chức kinh tế đối lập với sản xuất tự cung tự cấp trong thời kì đầu của
lịch sử loài người. Cụ thể, trong sản xuất hàng hóa sản phẩm được tạo ra để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua
bán.
 Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang
tính xã hội. Tính chất tư nhân thể hiện ở đặc tính của sản phẩm được quyết
định bởi cá nhân người làm ra nó hoặc người trực tiếp sở hữu tư liệu sản
xuất trên danh nghĩa. Tính chất xã hội thể hiện qua việc sản phẩm tạo ra đáp
ứng cho nhu cầu của những người khác trong xã hội. Tính chất tư nhân đó
có thể phù hợp hoặc không phù hợp với tính chất xã hội. Đó chính là mâu
thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa.

1.1.4 Ưu thế của sản xuất hàng hóa  


 Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở
của phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất vì thế, nó khai thác
được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở
sản xuất. Bên cạnh đó, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại tác động trở
lại, thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên
môn hóa lao động ngày càng tăng. 

 Đẩy mạnh quá trình xã hội hóa sản xuất. Sản xuất hàng hóa phá vỡ tính tự
cung tự cấp, bảo thủ, lạc hậu của nền sản xuất tự cấp tự túc. Khai thác được
lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở, từng vùng,
từng địa phương, kích thích sự phát triển về kinh tế của cả quốc gia. 

Đáp ứng nhu cầu đa dạng cho xã hội. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu
của con người ngày càng gia tăng cả về lượng và chất, sản xuất hàng hóa
giúp cho họ có nhiều sự lựa chọn hơn để đáp ứng nhu cầu của mình. Góp
phần cải thiện đời sống xã hội đồng thời làm tăng khả năng lao động của xã
hội. 

1.2. Nền kinh tế sản xuất hàng hóa

 1.2.1 Khái niệm :


Kinh tế hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của
sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán, trao đổi trên thị trường.
 Ở giai đoạn sơ khai, trao đổi hàng hóa mang hình thức trực tiếp, gọi là hàng đổi
hàng. Khi tiền xuất hiện, các cá nhân có thể sử dụng tiền làm phương tiện trao đổi.
4
Lúc này, nền kinh tế hàng hóa đồng thời là kinh tế tiền tệ. Khi cơ chế trao đổi dựa
trên giá cả thị trường, kinh tế hàng hóa cũng là kinh tế thị trường. Khi cơ chế trao
đổi dựa trên những sắp xếp quy hoạch từ một trung tâm, kinh tế hàng hóa đồng
thời là kinh tế kế hoạch. 
Kinh tế hàng hóa là một giai đoạn phát triển nhất định trong lịch sử phát triển của
xã hội theo trình tự: kinh tế tự nhiên- kinh tế hàng hóa- kinh tế sản phẩm. Trong
bất kì chế độ xã hội nào, sự tồn tại hình thái giá trị và thị trường luôn là đặc trưng
chung của kinh tế hàng hóa.

1.2.2: Đặc trưng và tính ưu việt của kinh tế hàng hóa

a) Đặc trưng:
Đặc trưng chung của KTHH trong bất kì chế độ xã hội nào là sự tồn tại hình thái
giá trị và thị trường, trong đó giá trị của hàng hoá – lượng lao động xã hội cần thiết
để sản xuất ra hàng hoá đó, được đo bằng tiền tệ và mang hình thái giá cả; quy luật
đặc trưng của sản xuất hàng hoá là quy luật giá trị, và những quy luật liên quan như
quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật hàng hoá được trao đổi theo
nguyên tắc ngang giá.

b) Tính ưu việt:
- Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
- Kích thích tính năng động của chủ thể hàng hoá
- Tự phát thúc đẩy lực lượng sản xuất
- Mở rộng giao lưu kinh tế, làm xã hội hoá nền kinh tế
 Bước chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn sang kinh tế thị trường
Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường chỉ khác nhau về trình độ phát triển. Kinh tế
thị trường là hình thức phát triển cao nhất của kinh tế hàng hóa. Kinh tế hàng hóa
phát triển, điều đó có nghĩa là phạm trù hàng hóa,tiền tệ và thị trường được phát
triển, mở rộng. Hàng hóa không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất
mà còn bao hàm các yếu tố đầu vào của sản xuất. Dung lượng thị trường và cơ cấu
thị trường được hoàn thiện và mở rộng. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được
tiền tệ hóa. Khi đó người ta gọi kinh tế hàng hóa là kinh tế thị trường.
1.2.3 Các nhân tố và quy luật vận động của nền kinh tế hàng hóa

1.2.3.1 Nhân tố của nền kinh tế sản xuất hàng hóa:

a) hàng hóa
I. Khái niệm hàng hóa

5
 Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người thông qua trao đổi, mua bán.
 Hàng hóa có thể ở dạng vật thể (hữu hình) hoặc ở dạng phi vật thể (dịch vụ
vô hình)
 Hai thuộc tính của hàng hóa
II. Thuộc tính hàng hóa

 Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, sản xuất hàng hóa có bản chất
khác nhau, nhưng một vật phẩm sản xuất ra khi đã mang hình thái là hàng hóa thì
đều có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị.

 Giá trị sử dụng


Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào
đócủa con người thể hiện ở việc sử dụng và tiêu dùng. Giá trị sử dụng
haycông dụng của hàng hóa trước hết là do thuộc tính tự nhiên của vật thể
hàng hóa quyết định. Như vậy, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn.
Một sản phẩm đã là hàng hóa thì nhất thiết phải có giá trị sử dụng. Nhưng
không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng là hàng hóa (vì hàng hóa
phải là sản phẩm lao động của con người). Trong kinh tế hàng hóa, giá trịsử
dụng là vật mang giá trị trao đổi.
 Giá trị
Theo Các Mác muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Có
thể nói trao đổi hàng hóa phải căn cứ vào giá trị, có nghĩa là: hai hàng hóa
trao đổi với nhau phải ngang nhau về mặt giá trị.
Vậy giá trị của hàng hóa là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra hàng
hóa đó. Hay nói cách khác giá trị là lao động xã hội của người sản xuất
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Khi giá trị thay đổi thì giá trị trao đổi
cũng thay đổi, giá trị trao đổi chính là hình thức biểu hiện của giá trị. Nếu
giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên, thì giá trị là thuộc tính xã hội của
hàng hóa.

 Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nhưng
đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập.

b) Tiền tệ
* Nguồn gốc, lịch sử ra đời của tiền tệ:
6
Giá trị của hàng hóa rất trừu tượng, nó chỉ được bộc lộ qua giá trị trao đổi, giá
trị hàng hóa được biểu hiện bằng tiền thì được gọi là giá cả của nó.Tiền tệ xuất
hiện là kết quả của quá trình lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa, của các
hình thức giá trị hàng hóa.Đó là: Hình thái giá trị đơn giản hay ngẫu nhiên ->
Hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng -> Hình thái giá trị chung -> Tiền tệ ra
đời.
* Bản chất của tiền tệ chính là vật ngang giá chung, là một hàng hóa đặc biệt thể
hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa;
* Chức năng của tiền tệ: - Là thước đo giá trị.
- Phương tiện lưu thông.
- Phương tiện cất trữ.
- Phương tiện thanh toán.
- Tiền tệ thế giới.
I.2.3.2. Quy luật vận động của hàng hóa là quy luật giá trị và quy luật
cạnh tranh
a) Quy luật giá trị
 Nội dung:
Sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên thời gian lao động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao
cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí lao động
xã hội cần thiết có như vậy họ mới có thể tồn tại được.
Trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá: Hai
hàng hóa được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao động như nhau
hoặc trao đổi, mua bán hàng hoá phải thực hiện với giá cả bằng giá trị.

 Tác động
- Điều tiết sản xuất, lưu thông
- Kích thích cải tiến: kích thích sự phát triển tự phát khoa học công nghệ, lực
lượng sản xuất, hiệu quả và năng suất lao động xã hội, làm cho giá trị cá biệt thấp
hơn giá trị xã hội.
-Phân hóa sản xuất: phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo.
b) Quy luật cạnh tranh
7
 Nội dung :
 Trong nền sản xuất hàng hóa, sự cạnh tranh giữa những người sản xuất
hàng hóa, giữa người sản xuất và người tiêu dùng là một tất yếu khách
quan, là yêu cầu thường xuyên đối với những người sản xuất hàng hóa.
 Quy luật cạnh tranh xuất phát từ bản chất của nền sản xuất hàng hóa, của
quy luật giá trị.

 Tác động:

 Buộc người sản xuất phải thường xuyên năng động, nhạy bén, thường xuyên
cải tiến kĩ thuật, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, nâng cao tay nghề,
hoàn thiện tổ chức quản lí để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả
kinh tế...
 Thực tế cho thấy, ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì ở
đó thường trì trệ, bảo thủ, kém phát triển.
 Bên cạnh mặt tích cực, cạnh tranh cũng có những mặt tiêu cực, thể hiện ở
cạnh tranh không lành mạnh như dùng những thủ đoạn vi phạm đạo đức
hoặc vi phạm pháp luật nhằm thu được nhiều lợi ích nhất cho mình, gây tổn
hại đến lợi ích của tập thể, xã hội, cộng đồng( làm hàng giả, buôn lậu, trốn
thuế, ăn cắp bản quyền, tung tin phá hoại uy tín đối thủ, hoặc cạnh tranh làm
tăng sự phân hóa giàu nghèo hoặc tổn hại đối với môi trường sinh thái v.v..)

II> Liên hệ thực tế Việt Nam


Theo quan điểm của Các Mác kinh tế hàng hóa không phải là một phương thức sản
xuất độc lập mà là một hình thức tổ chức kinh tế tồn tại trong các phương thức xã
hội. Với phạm vi và mức độ khác nhau, tuy cùnglà nền kinh tế hàng hóa nhưng bản
chất của xã hội quy định đặc điểm của kinh tế hàng hóa xã hội đó. Nhà nước ta là
nhà nước xã hội chủ nghĩa nên vai trò quản lý của nhà nước định hướng nền kinh
tế hàng hóa theo chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2.1>Thực trạng nền kinh tế Việt Nam và việc chuyển sang phát triển nền kinh
tế hàng hóa là tất yêu khách quan
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm sản xuất của các nước XHCN,
đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hóa tập trung dựa trên hình thức sở
hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nỗ lực của nhân dân ta cộng thêm sự
giúp đỡ tận tình của các nước XHCN khác, mô hình kế hoạch hóa đã phát huy
được những tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế hàng hóa lạc hậu và phân tán

8
bằng công cụ kế hoạch Nhà nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng quan
trọng về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế.
Ngay từ tháng 8 năm 1979, Nhà nước ta đã chủ trương phát triển sản xuất hàng
hóa. Chỉ thị 1000 của ban Bí thư trung ương và quyết định số 25/CP của Chính phủ
năm 1981 đã để cho các hợp tác xã tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
Đại hội Đảng VI, tháng 12 năm 1986 đã khẳng định quá trình từ sản xuất nhỏ lên
sản xuất lởn nước ta là quá trình chuyển từ nền inh tế tự cung tự cấp sang nền kinh
tế hàng hóa. Điều quan trọng là ở đây chúng ta không chỉ thừa nhận từng khâu,
từng phần sản phẩm là sản xuất hàng hóa mà là cả một nền kinh tế hàng hóa, coi đó
là một quá trình có tính quy luật đi lên sản xuất XHCN ở nước ta. Tại hội nghị TW
6 (khóa VI, 3/1989) và Đại hội VII (6/1991) trên cơ sở nhận thức sâu hơn về tình
hình đất nước, Đảng ta mới có điều kiện nói rõ và nhấn mạnh “ Nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
là hoàn toàn cần thiết để giải phóng và phát huy được các tiềm năng sản xuất của
xã hội”.

Đến đại hội lần VIII (6/1996) trên cơ sở kế thừa những đường lối, chủ trương đúng
đắn về việc sử dụng kinh tế hàng hóa do các đại hội trước đề ra, Đảng ta đã xác
định rõ hơn vai trò của kinh tế hàng hóa – mà phát triển cao hơn chính là kinh tế
thị trường “ Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát
triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách
quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN”.
Đây là bước tiến quan trọng trong việc đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta. Quan
điểm này xuất phát từ tình hình kinh tế xã hội ở nước ta, từ nguyện vọng chính
đáng của nhân dân ta, trên cơ sở vận dụng mô hình của Mác-Lênin về một chủ
nghĩa xã hội có nền kinh tế hàng hóa.Nó phù hợp với thực tế của nước ta, phù hợp
với các quy luật kinh tế và với xu thế của thời đại:

Thứ nhất: nếu chúng ta không thay đổi cơ chế kinh tế mà vẫn giữ nguyên cơ chế
kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến
tích lũy vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỉ 80 đã chỉ rõ
việc thực hiện cơ chế cũ cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế
quản lý kinh tế cũ, nhưng hiệu quả của nền kinh tế xã hội đạt đến mức rất thấp, sản
xuất không đáp ứng nổi tiêu dùng của xã hội, tích lũy hầu như không có, đôi khi
còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài.

9
Thứ hai: do nền kinh tế đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc do nó
chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác
dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng, nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại
quá dài do đó mó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy
sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất
chất lượng và hiệu quả sản xuất.

Thứ ba: xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hội
nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, nước ta còn tồn tại kinh tế đối ngoại, còn
tham gia vào sự phân công hiệp tác quốc tế. Mặt khác nếu nền kinh tế nước ta hội
nhập với nền kinh tế thị trường thế giới,giao lưu về hàng hóa, dịch vụ và đầu tư
trực tiếp của nước ngoài sẽ làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi
hơn với nền kinh tế thị trường thế giới, tương quan giá cả các loại hàng hóa trong
nước sẽ gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hóa quốc tế.
Thứ 4: xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế của
mỗi nước không thể tách rời phát triển và hội nhập quốc tế. Sự cạnh tranh giữa các
quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội
mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích chính sách của các quốc gia là tạo ra được
nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình, là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời
sống nhân dân được ổn định, thất nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã thành thước đo
chủ yếu, vai trò sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và
duy trì sức mạnh của Đảng cầm quyền.
2.2> Tiềm năng và hạn chế của kinh tế hàng hóa ở nước ta
a) Tiềm năng:

 Có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, vị trí địa lí thuận lợi. ;có
sức lao động dồi dào, trình độ văn hóa, trình độ về chuyên môn so với nhiều
nước đang phát triển thì nước ta ở mức trung bình;chúng ta có đường lối, chính
sách đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
 Thị trường được thống nhất trong toàn quốc và bước đầu hình thành hệ thống
thị trường hàng hóa với các cấp độ khác nhau;trên thị trường đã có đủ các thành
phần kinh tế, đông đảo thương nhân với các hình thức sở hữu khác nhau; quan
hệ cung cầu hàng hóa trên thị trường đã thay đổi một cách cơ bản từ chỗ thiếu
hụt hàng hóa sang trạng thái đủ và dư thừa; thị trường trong nước đã có sự
thông thương với thị trường quốc tế thị trường quốc tế của VN đã có bước phát
triển cả về lượng và chất.
b) Hạn chế :

10
 Tuy là nước nông nghiệp nhưng bình quân ruộng đất canh tác theo đầu
người thấp.
 Nền kinh tế kém phát triển, mang nặng dấu ấn của kinh tế tự nhiên,còn
chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thi trường chưa
phát triển và chưa đồng bộ, thu nhập quốc dân theo đầu người thấp, sức mua
còn hạn chế.
 Kết cấu hạ tầng cơ sở còn kém phát triển, trình độ khoa học kĩ thuật chưa
cao, hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập…

2.3> Những thành tựu kinh tế mà nước ta đạt được:


 Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh

Giai đoạn 1986 - 1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ
trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục
được những yếu kém và có những bước phát triển. Kết thúc kế hoạch 5
năm (1986 - 1990), công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước
đầu rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông nghiệp
tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm,
trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13 -14%/năm; giá trị kim ngạch xuất
khẩu tăng 28%/năm
(1). Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng trưởng
kinh tế, kiềm chế lạm phát,… Đây được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể
hóa nội dung của công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên. Điều quan
trọng nhất, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản
lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và bước đầu
giải phóng được lực lượng sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.
Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái. Nền
kinh tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình trạng
trì trệ, suy thoái, tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện, hầu
hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản
xuất công nghiệp tăng 13,3%/năm; nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ
tăng 12%/năm; tổng sản lượng lương thực 5 năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu tấn,
tăng 27% so với giai đoạn 1986 - 1990

11
(2). Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá. “Nước
ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15
năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để
chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”
(3). Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng
của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù
cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 -
1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước
những thử thách khốc liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng
khá. GDP bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó, nông, lâm,
ngư nghiệp tăng 4,1%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch vụ
tăng 5,2%
(4). “Nếu tính cả giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân là
7,5%. So với năm 1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần”
(5). Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu,
việc triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5
năm 2001 - 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả
nhất định. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm
sau cao hơn năm trước. GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%;
trong đó, nông nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; các ngành
dịch vụ tăng 7%. Riêng quy mô tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm
2005 đạt 837,8 nghìn tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995. GDP bình quân đầu
người khoảng 10 triệu đồng (tương đương 640 USD), vượt mức bình quân của các
nước đang phát triển có thu nhập thấp (500 USD)
(6). Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương
thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, Việt
Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt hàng
gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;…
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, bảo đảm sự
ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy được nhiều lợi
thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế, từng bước
hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải cách và nâng
cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển nguồn và chất
lượng lao động, khoa học và công nghệ;…
Giai đoạn 2006 - 2010: Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và
quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm

12
nước thu thập thấp đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). GDP bình
quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu (từ cuối năm 2008), nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam vẫn đạt cao. Tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77% so với kế
hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD, gấp hơn
2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Tổng vốn
ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân
ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16%. GDP năm 2010 tính theo giá thực tế đạt
101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000
(7). Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn
cầu còn rất chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm, tuy
thấp hơn kế hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các
nước trong khu vực
(8). Như vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam
đạt 7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên
thế giới nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên
2,1 lần năm 2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm)
(9). Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy thấp hơn
mức tăng 5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó
khăn thì đây là mức tăng trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
ước tính tăng 3,4% so với năm 2011; công nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011. Chỉ
số giá tiêu dùng năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tư phát triển tăng 7% so với năm trước
và bằng 33,5% GDP. Xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 18,3%
(10). Kim ngạch xuất khẩu có thể vượt qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất,
nhập khẩu so với GDP năm 2011 đã đạt xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 thế giới. Vốn
FDI tính từ 1988 đến tháng 7-2012 đăng ký đạt trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên
96,6 tỷ USD. Vốn ODA từ 1993 đến nay cam kết đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt
trên 35 tỷ USD
(11). Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá,
trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương
thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển
ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng
bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững
thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển
một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng
trưởng ổn định. Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững

13
chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt
kết quả vững chắc hơn.
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn
sản xuất với thị trường:
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2005
còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch
theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế
cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng
nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%,
năm 2005 lên 41%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên
38,1% năm 2005.
Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp
và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với
khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế;
xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ
hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ
nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước phát triển
theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy
ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế:
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập
trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế.
Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo
hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách
nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy
động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động
lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực
kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển
giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc
làm cho nhiều người dân.

14
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành,
kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định:
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối
đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành
phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng. Với chủ
trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt
Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã
tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có
quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định
thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan
trọng về kinh tế đối ngoại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và
hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa
thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường
đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp
tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh.
Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước
đạt một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng hơn 2,3 lần, số
vốn tăng 7,3 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Doanh nghiệp cổ phần trở thành
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.

2.4> Điều kiện và giải pháp phát triển nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam:

Thứ nhất: đa dạng hóa các loại hình sở hữu, hình thành ra sở hữu nhà nước, sở
hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp và sở hữu cá thể phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất;
Thứ hai: đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc
đẩy phân công lao động xã hội phát triển;
Thứ ba: phát triển đồng bộ các loại thị trường như thị trường sức lao động, thị
trường tư liệu sản xuất, thị trường tiêu dùng và dịch vụ,…
Thứ tư: xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường về pháp lý;
Thứ năm: phát triển kết cấu hạ tầng về kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại;

15
Thứ sáu: đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, cải
cách thủ tục hành chính quốc gia. Đổi mới công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước,
đặc biệt là thông qua chính sách phân phối thu nhập để đạt được tiến bộ và công
bằng xã hội, chuyển dịch cơ chế nhanh sang cơ chế thị trường và đổi mới chính
sách kinh tế cho thích hợp;

16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin
Thuvien24.vn
Tailieu.vn
Tài liệu lí luận kinh tế hàng hóa của các Mác
Thực tiễn phát triển kinh tế ở Việt Nam
Những lý luận cơ bản về sản xuất hàng hóa, hàng hóa và tiền tệ của
KTCT Mác-Lênin

17

You might also like