You are on page 1of 14

Kinh tế hàng hóa

Mục lục :

I. Kinh tế hàng hóa là gì

II. Điều kiện ra đời kthh

III. Sơ lược về sự phát triển của kthh

IV. Đặc trưng và ưu thế của kthh


1. Đặc trưng của nền kthh
2. Ưu thế của nền kthh

V. Liên hệ với xã hội Việt Nam


1. Lịch sử phát triển nền kthh tại VN
2. Đặc điểm của nền nền kthh tại VN
3. Đánh giá nền kthh tại VN
a. Thị trường VN
b. Lức lượng sản xuất của VN
c. Cơ chế thị trường của VN
4. Những thành tựu đạt được với nền kthh

1
Lời mở đầu

Như chúng ta đã biết, lịch sử của nền sản xuất xã hội đã và đang
trả qua 2 kiểu tổ chức kinh tế, đó là kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng
hóa. Và người ta cho rằng việc sản xuất hàng hóa là một bươc ngoặt
quan trọng và căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội loài người,
đưa loài người thoát khỏi tình trạng mông muội , xóa bỏ nền kinh tế tự
nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả
kinh tế của xã hội.

Và đất nước ta, một đất nước đi lên từ nông nghiệp, sau khi đã tìm
cho mình một con đường đi đúng đắn, đó là xây dựng nền kinh tế
nước ta thành một nền kinh tế hàng hóa, đã có được những bước phát
triển đáng kể . Nhìn lại nền kinh tế nước ta, chỉ 30 năm trước đây ,
nhân dân ta còn sống trong cảnh đói nghèo, thóc gạo không đủ ăn dù
la một nước nông nghiệp, quần áo không đủ mặc, nền kinh tế vô cùng
khó khăn và lạc hậu. Nhưng giờ đây, nước ta đã trở thành nước xuất
khẩu gạo lớn thứ hai thế giới, đời sống nhân dân được nâng cao một
cách rõ rệt, không chỉ dừng lại ở mức đủ ăn đủ tiêu mà đã bát đầu có
tích lũy, dư thừa. Đó là những minh chứng sinh động và chân thực cho
tính hiệu quả của nền kthh mà Việt Nam ta đã và đang xây dựng, phát
triển.

2
I. Kinh tế hàng hóa là gì:

Kinh tế hàng hoá là mô hình kinh tế trong đó hầu hết các quan hệ kinh tế
được thực hiện trên thị trường dưới hình thái hàng hoá và dịch vụ, vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước

Và kinh tế hang hóa cũng chính là sản xuất hàng hóa được hiểu theo nghĩa
rộng ( bao gồm cả quá trình sản xuất và trao đổi)

Từ thời cổ đại, các nhà kinh tế học đã có những quan điểm, nhìn nhận khác
nhau về kinh tế. . Theo Xenophon ( 430 _ 345 tcn), các hoạy động kinh tế là
quá trìnhtạo ra những vật phẩm có ích , tạo ra các giá trị sử dụng. ông là người
đầu tiên trong lịch sử chú ý đến phân công lao động xã hội. hay theo Aristoteles
(384- 322) thì tất cả các họat động gắn liền với việc tạo ra giá trị sử dụng là họat
động kinh tế.....

Nhưng khái niệm về kinh tế hàng hóa được nêu ra trong chủ nghia Mac Lênin
được đánh giá là khái niệm đầy đủ và chính xác nhất.

II. Điều kiện ra đời kinh tế hàng hóa


Kinh tế hàng hoá ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội gắn liền
với hai điều kiện tiền đề:
* Một là: Có sự phân công lao động xã hội.
+Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá sản xuất, mỗi ngươì chỉ
sản xuất một h ay một số loại sản phẩm nhất định. Những nhu cầu cuộc sống đòi
hỏi phải có nhiều loại sản phẩm. Vì vậy người sản xuất này phải dựa vào người
sản xuất khác phải trao đổi sản phẩm cho nhau.

+Hai là: Có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.
Sự tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất , mà
khởi thủy là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định nguời sản xuất tư
liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm lao động. C Mac viết: “ Chỉ có sán phẩm

3
của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới có đối
diện với nhau như là những hàng hóa”.

Như vậy : Phân công lao động xã hội làm người sản xuất phụ thuộc vào nhau
còn chế độ tư hữu lại chia rẽ họ làm họ độc lập với nhau đây là một mâu thuẫn.
Mâu thuẫn này chỉ được giải quyết thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm của
nhau. Sản xuất hàng hoá ra đời bắt nguồn từ yêu cầu của cuộc sống.

III.Sơ lược về lịch sử phát triển sản xuất hàng hoá:


Sản xuất hàng hoá ra đời từ sản xuất tự cấp tự túc và thay thế nó trong quá
trình lịch sử lâu dài.
Ở các xã hội trước chủ nghĩa tư bản, sản xuất hàng hoá là sản xuất giản đơn
chỉ giữ vai trò phụ thuộc. Tuy nhiên chính sản xuất hàng hoá giản đơn đã tạo
khả năng phát triển lực lượng sản xuất thiết lập các mối liên hệ kinh tế giữa các
đơn vị kinh tế trước đó vốn tách biệt nhau.
Quan hệ hàng hoá phát triển nhanh chóng ở thời kỳ chế độ phong kiến tan rã và
góp phần thúc đẩy quá trình đó diễn ra mạnh mẽ hơn.
Hình thức điển hình nhất, cao nhất, phổ biến nhất của sản xuất hàng hoá là sản
xuất hàng hoá TBCN. Dưới CNTB quan hệ hàng hoá thâm nhập vào mọi lĩnh
vực, mọi chức năng của nền sản xuất xã hội, hàng hoá trở thành tế bào của nền
sản xuất xã hội . Nó mang đặc điểm: Dựa trên sự tách rời tư liệu sản xuất với
sức lao động trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê dưới hình thức chiếm đoạt giá
trị thặng dư.
Sản xuất hàng hoá tiếp tục tồn tại và phát triển dưới CNXH. Đặc điểm của sản
xuất hàng hoá XHCN là nó không dựa trên cơ sở chế độ người bóc lột người và
nó nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của mọi thành viên xã
hội trên cơ sở sản xuất kinh doanh .

IV. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hang hóa


1. Đặc trưng của sản kinh tế hàng hóa hàng hóa
Trong nền kinh tế hàng hóa, người chủ tư liệu sản xuất có quyền quyết định
việc sử dụng tư liệu san xuất và nhưng sản phẩm họ sản xuất ra. Như vậy, người
sản xuất này muốn sử dụng sản phẩm của người sản xuất khác thì phải trao đổi
sản phẩm lao động cho nhau. Sản phẩm lao động trở thanh hàng hóa.

4
Khi sản phẩm lao động trở thành hàng hóa thì người sản xuất trở thành người
sản hàng hóa, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa có tính chất xã hội, vừa
có tinhd chất tư nhân, cá biệt. Tính chất xã hội của lđsxhh thể hiện ở chỗ do
phân công lao động xã hội nên sản phẩm lao động của người này trở nên cần
thiết với người khác, với xã hội. Còn tính chất tư nhân cá biệt thể hiện ở chỗ sản
xuất ra cái gì, bằng công cụ nào, phân phối cho ai là công việc của chủ sở hữu
tư liệu sản xuất, do họ định đoạt. Tính chất xa hội của lao động sxhh chỉ được
thừa nhận khi họ tìm được người mua trên thị trường và bán được hàng hóa do
họ sản xuất ra.
Vì vậy, lao động của người sản xuất hàng hóa bao hàm sự thống nhất giữa 2
mặt đối lập là tính chất xã hội và tính chất cá biệt tư nhân của lao đông. Mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội và tính chất tư nhân cá biệt của lao động sản xuất là
mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa
2. Ưu thế của kinh tế hàng hóa
- Thúc đẩy lực lượng sx phát triển
- Kích thích tính năng động của chủ thể hàng hóa
- Tự phát thúc đẩy llsx
- Mở rộng giao lưu ktế, làm xh hóa nền ktế
V.Liên hệ với xã hội Việt Nam:
1. Lịch sử phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam
Việt Nam đi lên từ một nước phong kiến thuộc địa lạc hậu, tiếp đó là chiến
tranh kéo dài. Khi kết thúc chiến tranh, thông nhất đất nước, VN có thời gian
nhìn lại mình thì đã tụt hậu về kinh tế quá xa so với thế giới. Sự hỗ trợ to lớn của
các nước XHCN là hậu thuẫn mạnh mẽ cho cuộc kháng chiến nhưng lại hầu như
không hiệu quả trong thời kì hòa bình, xây dưng lại đất nước. Cỳng với sự sụp
đổ của hệ thống XHCN ở Đông Âu, nước ta đứng trên bờ khủng hoảng kinh tế
xã hội. Thu nhập bình quân đầu người được đánh giá vào nóm các nước nghèo
nhất thế giới. Trước đây, việc thực hiện chính sách và cơ chế quản lý kế hoạch
hóa tập trung quan liêu bao cấp khiến cho sự phân hóa giàu nghèo giữa các
vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh, đời
sống một bộ phận dân cư, nhất là một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến
cũ, đồng bào dân tộc còn khó khăn vất vả. Chất lượng đào tạo, y tế nhiều nơi rất
thấp...Xuất phát từ nhu cầu thực tế của đời sống xã hội, để ổn định kinh tế trong

5
nước và hội nhập quốc tế ta phải xây dựng một nền kinh tế mở, một nền kinh tế
nhiều thành phần, đa dạng hóa các hình thức sở hữu.
Sự thành công của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN không chỉ
biểu hiện ở tốc đọ tăng trương cao, mà con ở chỗ mưac sống thực tế của mọi
tầng lớp dân cư đều được nâng lên, y tế, giáo dục đều phát triển, khoảng cách
giữa giàu nghèo được thu hẹp, đạo đức, truyền thống bản sắc văn hóa được giữ
vững, môi trường được bảo vệ.

2. Tình hình nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

Nền kinh tế hàng hóa mới xuất hiện tại VN được một thời gian chưa phải là lâu
nhưng nhìn lai quá trình phát triển nền kinh tế hàng hóa trong từng ấy năm thì
chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì mức độ phát triển và lớn manh của nó . Điều
đó chứng tỏ tính ứng dụng cũng như nhưng những ưu thế của nến kinh tế hàng
hóa đối với xh thế giới nói chung, và đối với nền kinh tế nói riêng.
Ở Việt Nam hiện nay phổ biến quan điểm về nền kinh tế hàng hoá về nền kinh
tế hàng hoá được đưa ra trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Theo
văn kiện này thì nền kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà
trong đó hình thái phổ biến là sản xuất ra hàng hoá để bán, để trao đổi trên thị
trường. Nền kinh tế hàng hoá rõ ràng đối lập với nền kinh tế tự nhiên ở mục đích
sản xuất của nền kinh tế. Nếu trong nền kinh tế tự nhiên sản phẩm được sản xuất
để phục vụ cho nhu cầu của chính người sản xuất thì trong nền kinh tế hàng hoá
người sản xuất sản xuất hàng hoá để đem trao đổi trên thị trường. Cũng từ đó mà
phương thức trao đổi trong nền kinh tế tự nhiên là trao đổi hàng đổi hàng còn
trong nền kinh tế hàng hoá là trao đổi T-H-T.
Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại nền kinh tế tự nhiên ở một số
vùng sâu, vùng xa, vùng núi phía Tây Bắc, Tây Nguyên< đòng bào dân tọc thiểu
số.
Nền kinh tế hàng hóa rõ ràng đối lập với nền kinh tế tự nhiên ở mục đích sản
xuất.
Nền kinh tế sản xuất tự nhiên chỉ phục vụ cho nhu cầu cả bản thân người sản
xuất, nhưng nền kinh tế hàng hóa thì như đã nói ở trên, dặc trưng của nó là sản
xuất ra những sản phẩm sản phẩm phục vụ cho xã hội, sản phẩm được trao đổi
theo cơ chế T – H – T. Thực tế nền kinh tế nước ta đã cho thấy sự yếu kém trong

6
giai đoạn 1975-1986 và giai đoạn 1986 kể từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
đến nay đã cho thấy sự yếu kém của nền kinh tế kế hoạch so với nến kinh tế
hàng hóa so với nền kih tế hàng hóa. Do đó, việc Đảng và nhà nước ta quyết tâm
xây dựng nền kinh tế nước ta thành nền kinh tế hàng hóa là môtj điều dẽ hiểu.
Thị trường là nơi để người sản xuất bán sản phẩm mà họ làm ra, và cũng là nơi
để người mua mua những sản phẩm mà họ có nhu cầu tiêu dùn. Vì thế, thị
trường có vai trò quyết định trong sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa.
Theo quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa, đinhj nghĩa thị trường ngày
càng được mở rộng và hoàn thiện. Và ngày nay, các hà kinh tế đã thống nhất với
nhau về địh nghĩa của thị trường, đó là : “ thị trường là một quá trình mà trong
đó người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và sản
lượng”. Và họ vhia thị trường thành Thị trường hàng hóa tiêu dùng, dịch vụ và
thị trườg các yếu tố đầu vào, thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
Nền kinh tế hàng hóa của Việt Nam ta có một đặc trrưng rất riêng, đó là nước
ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chúng ta đã bỏ qua giai đoạn
phát triên tư bản chủ nghĩa nên cơ sở vật chất kĩ thuật còn yếu kém, lạc hậu,
khả năng cạnh tranh còn hạn chế. Trong khi đó, thị trường thế giới và khu vực
đã được phân chia bởi các nhà sản xuất và phân phối lớn.

3.Đánh giá về nền kinh tế hàng hóa taị Việt Nam


a. Thị trường Việt Nam

Việt Nam là một nước đang phát tiển, và thị trương Vệt Nam hiện nay được
xem là thị trường sơ khai hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư, theo danh sách
xếp hạng mới được hãng tin tài chính Bloomberg công bố.
Báo cáo chia các nước được xếp hạng thành hai nhóm gồm các nền kinh tế mới
nổi và các nền kinh tế sơ khai có tiềm năng nhất trên thế giới, dựa trên các thước
đo khác nhau về môi trường đầu tư như tăng trưởng GDP, nợ công, và sự thuận
lợi trong lĩnh vực làm ăn thương mại.
Bất chấp tỷ lệ lạm phát của Việt Nam mà Quỹ Tiền tệ Quốc tế dự đoán sẽ là
một trong những mức cao nhất trong số các nước được xếp hạng trong giai đoạn
từ nay đến năm 2016, Việt Nam đứng nhất trong bảng xếp hạng 15 thị trường sơ
khai đầy hứa hẹn đối với giới đầu tư do Bloomberg thực hiện, với 71,4 điểm,
nhờ sự phát triển kinh tế nhanh chóng.

7
Để phát triển kinh tế hàng hóa ở nước ta, cần đẩy mạnh chú trọng phát triển
các loại thị trường. Quá trình chuyển đổi ở nước ta cần phải từng bước hình
thành thị trường thống nhất và thông suốt cả nước. Từng bước hình thành và mở
rộng đồng bộ trường thống nhất và thông suốt cả nước , Từng bước hình thành
và mở rộng đồng bộ thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, dịch vụ, thị
trường vốn và tiền tệ.... Cần phải mở mở rộng giao lưu giao lưu hàng hóa, phát
triển thị trường trong nước, chú trọng nông thôn, miền núi , miền núi, xóa bỏ
triệt để mọi hình thức chia cắt thị trường theo ranh giới hành chính. Đồng thời
gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế, giải quyết mối quan hệ giữa
tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, có chính sách khuyến khích sản xuất nội địa
để phát triển mạnh mẽ thị trường nước ta, hội nhập với thị trường khu vực và thế
giới.
Ở nước ta, kinh tế hàng hóa mà Đảng chủ trương xây dựng và phát triển trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là “ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận động theo cơ chế thị trường có quán lí
nhà nước”
Trong suốt quá trình phát triển của kinh tế hàng hóa nước ta, đã có rât nhiều
những làng nghề truềyn thống ra đời và phát triển rực rỡ( đó là minh chứng sinh
động cho việc phân công lao động trong nền kinh tế hàng hóa). Và thực tế cho
thấy rằng việc phân công lao động như thế rất có hiệu quả, thể hiện ở chỗ sản
phẩm của các làng nghề đó có chất lượng rất tốt , ko chỉ có chỗ đứng trong thị
trường nội địa mà còn rất được ưa chuộng tại các thị trường nước ngòai. ( tuy
nhiên do sự phát triển không đồng bộ của nền kinh tế cũng như các tác động của
bên ngoai, nhiều làng nghề truyền thống đã bị mai một, Đảng và nhà nước ta
đang cố gắng phục hồi và phát triển). Bên cạnh đó, ở nước ta hiện nay ngày nay
xuất hiện ngày càng nhiều những ngành nghề mới.
b. Lực lượng sản xuất
Với dân số được đánh giá đông nhất nhì khu vực Đông Nam Á ,ực lượng sản
xuất ở nước ta rất đa dạng và dồi dào. Tuy nhiên, vì xuất phát điểm là một nước
gắn liền với nghề nông nên trình độ của lực lượng sản xuất nước ta không được
đánh giá cao, nói cách khác , trinh độ của lao động nước ta còn thấp so với mặt
bằng chung của thế giới. Một trong những tư tưởng xuyên suốt do hội nghị ban
chấp hành trương ương Đảng khóa VIII là nhằm cụ thể hóa và thực hiện thành
công những mục tiêu kinh tế xã hội mà Đại hội VIII của Đảng đè ra là “ ưu tiên
phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo
8
định nghĩa xã hội chu nghĩa”. Đây là bước phát triển mới trong tư duy lý luận
của Đảng ta. Nó bắt nguồng từ việc tất yếu phải giải phóng lực lượng sản xuất,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Theo định hướng XHCN, xét
từ quan hệ biện chứng giữa lực lượn sản xuất và lực lượng sản xuất, thì lực
lượng sx luôn là yếu tố động nhất, quyết định đối với sự phát triển của sản xuất
xã hội. Chính vì vậy, để đạt được mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp
vào năm 2020 Đảng đã xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước bằng
cách ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, thực chất là việc chuển từ sản xuất
nhỏ nên sản xuất lớn.
Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần đó là do còn nhiều hình thức
sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đại hội Đảng VIII khẳng định các thành
phần kinh tế tồn tại khách quan tương ứng với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, trong giai đoạn hiên nay, đó là kinh tế nhà nước, kinh tế
hợp tác, kinh tế cá biệt, kinh tế tư bản chủ nghĩa và kinh tế tư bản nhà nước.
c. Cơ chế thị trường ở Việt Nam
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ kinh tế kém phát triển,
mang nặng tính tự cấp tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang
nền kinh tế hàng hóa vận hàng hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa vận hành
theo cơ chế thị trường.
Đại hội Đảng VII đã khẳng định, các thành phần kinh tế đang tồn tại khách
quan tương ứng với tính chất và trình độ sản xuất. Nền kinh tế phong phú trong
việc đáp ứng nhu cầu thành phần vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc
quản lý theo định hướng XHCN. Do đó, việc “ phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần phải đi đôi với việc tăng cương quản lí nhà nước về kinh tế xã hội .
Để hạn chế và khắc phục những hậu quả của mặt trái của kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường mang lại, giữ cho công cuộc đổi
mới đúng hướng va phát huy bản chất tốt đẹpcua CNXH . Nhà nước phải thực
hiện tốt vai trò quản lý kinh tế - xã hội bằng luật pháp. kế hoạch, chính sách,
thông tin, tuyên truyền, giáo dục và các công cụ khác. Nhận thức tính chất nhiều
thành phần của kinh tế là một tất yếu khách quan, từ đó có thái độ đúng đắn
trong việc khuyến khích sự phát triển của chúng theo nguyên tắc tự nhiên của
kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp đi lên CNXH ở nước ta. Sự tồn tại của nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, cũng có nghĩa là còn có các quy luật kinh tế khác
nhau hoạt động. Sự vận động và phát triển của các thành phần kinh tế trong giai
9
đoạn này chịu sự chi phối trực tiếp của các quy luật thị trường. Thông qua hoạt
động của các quy luật thị trường mà nó đào thải những mặt, yếu tố bất hợp lý,
thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất. Sự ra đời và phát triển của kinh tế
hàng hoá đã làm phá vỡ các mối quan hệ kinh tế truyền thống của nền kinh tế
khép kín, kém phát triển, bảo thủ , trì trệ. Đặc biệt đến giai đoạn tư bản chủ
nghĩa sự phát triển của kinh tế hàng hoá đã làm cho thị trường dân tộc hoạt động
gắn bó với thị trường thế giới. Việc mở rộng quan hệ hợp tác với nước ngoài là
tất yếu vì sản xuát và trao đổi hàng hoá tất yếu vượt qua phạm vi quốc gia, mang
tính chất quốc tế, đồng thời đó cũng là tất yếu sự phát triển nhu cầu. Biệt lập
trong sự phát triển kinh tế dẫn đến đói nghèo. Do đó mở rộng quan hệ kinh tế
với nước ngoài dưới nhiều dạng khác nhau đối với nước ta như là một tất yếu
trong sự phát triển, khi trình độ khoa học kỹ thuật của thế giới cho phép đáp ứng
nhu cầu cả về sản xuất lần tiêu dùng. Thông qua mở rộng quan hệ kinh tế với
nước ngoài để biến nguồn lực bên ngoài thành nguồn lực bên trong. Điều đó tạo
điều kiện cho quá trình phát triển rút gắn ở nước ta. Mở rộng quan hệ kinh tế với
nước bằng nhiều hình thức như tăng cường hoạt động ngoại thương, hợp tác,
liên doanh, liên kết đề thu hút vốn đầu tư cho nước ta. Gia nhập vào các tổ chức
kinh tế thế giới và khu vực. Tranh thủ nắm bắt những, những mặt hàng mũi
nhọn có tương lai, gắn với công nghệ mới, tiến tới có khả năng cạnh tranh trên
thị trường thế giới., nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta hội nhập vào nhịp điệu
của nền kinh tế thế giới. Việc “mở cửa” về kinh tế phải đảm bảo nguyên tắc bình
đẳng, tôn trọng lẫn nhau, đảm bảo chủ quyền và cũng có lợi. Nước ta đang từng
bước quá độ lên CNXH không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, xu
hướng vận động và phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với các đặc điểm sau:
Một là, kinh tế thị trường bao gồm nhiều loại hình đan xen nhau :nhiều thành
phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau tham gia vào nền kinh tế thị
trường. Mỗi kiểu hàng hoá, tham gia vào nền kinh tế thị trường có những nét
đặc thù về bản chất kinh tế-xã hội và trình độ phát triển, nhưng nó đềul la các bộ
phận khác nhau của nền kinh tế quốc dân thống nhất. Bởi vậy chúng ta vừa hợp
tác, vừa cạnh tranh nhau, bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo vệ.
Nhân tố kinh tế và quan hệ kinh tế trong mỗi kiểu sản xuất hàng hoá của mỗi
thành phần kinh tế đều xuất hiện cái mới. Trong đó, sản xuất hàng hoá XHCN
giữ vai trò chủ đạo, định hướng với các kiểu sản xuất hàng hoá khác. Nhận thức
được tính chất nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan từ đó có thái

10
độ đúng đắn trong khuyến khích sự phát triển của chúng theo nguyên tắc tựn
nhiên của kinh tế, phục vụ cho việc đi lên xhcn.
Hai là, nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế
kém phát triển, mang nặng tính tự cấp tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch
hoá tập trung sang nền kinht tế hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trường. Tuy
nhiên, kinh tế thị trường ở nước ta vẫn còn ở trình độ kém phát triển. Biểu hiện
ở số lượng và chủng loại hàng hoá nghèo nàn, khối lượng hàng hoá lưu thông thị
trường và kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ, chi phí sản xuất và giá cả hàng hoá cao,
chất lượng thấp, quy mô và dung lượng thị trường hẹp, sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp và hàng hoá trên thị trường trong nước cũng như nước ngoài còn
yếu, đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp giỏi còn ít, thu nhập của người lao
động còn thấp...Trình độ phát triển thấp của hàng hoá bắt nguồn từ trình độ thấp
của lực lượng sản xuất, từ tính chất sản xuất nhỏ của nền kinh tế,từ trình độ phân
công lao động xã hội kém phát triển, từ sự kém phát triển của hệ thống kết cấu
hạ tầng, lao động thủ công còn chiếm tỷ trọng lớn, từ sự kìm hãm của nền kinh
tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp một thời gian quá lâu dài, từ sự
nhận thức giản đơn về CNXH.
Ba là, nền kinh tế phát triển theo hướng hoà nhập vào thị trường thế giới và
khu vực. Cách mạng khoa học-kỹ thuật công nghệ càng phát triển càng làm cho
lực lượng sản xuất phát triển trình độ xã hội hoá cao, dẫn đến quá trình khu vực
hoá, quốc tế hoá nền kinh tế ngày càng mở rộng. Do vậy, phát triển kinh tế thị
trường không phải chỉ dựa trên cơ sở điều kiện trong nước mà còn phải tính đến
quan hệ quốc tế, đến xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế. Nền kinh tế thị
trường của mỗi quốc gia muốn phát triển không thể không gắn với thị trường thế
giới. Bất cứ một quốc gia nào, cho dù là nước phát triển nhất cũng không thể sản
xuất tất cả các loại hàng hoá.Vì vậy mỗi nước phải tùy theo lợi thế của mình lựa
chọn mặt hàng xuất khẩu có hiệu quả và cạnh tranh được trên thị trường thế
giới. Sản xuất hàng hoá của nước ta sẽ phát triển nếu biết cách thu hút vốn đầu
tư nước ngoài và áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới để
khai thác những tiềm năng của nền kinh tế. Muốn vậy, con đường đúng đắn là
phát triển nền kinh tế mở: hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập
khẩu có hiệu quả.
Bốn là, nền kinh tế thị trường phát triển định hướng XHCN thông qua bản
chất và vai trò của nhà nước .Sự vận động của nền kinh tế hàng hoá thông qua
cơ chế thịt rường không thể nào giải quyết được những vấn đề như: lạm phát,
11
thất nghiệp, khủng hoảng, phân hoá bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường, sự bùng
nổ dân số cũng như các hiện tượng xã hội khác. Những tình trạng và hiện tượng
trên ở những mức độ khác nhau trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động ngược
trở lại, làm cản trở sự phát triển bình thường của một xã hội nói chung và của
nền kinh tế hàng hoá nói riêng. Phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với nền kinh
tế mởl à tất yếu, nhưng trong quá trình đó, bên cạnh việc tiếp thu tinh hoa văn
hoá thế giới, thì cũng có nguy cơ du nhậpn hững yếu tố văn hoá xa lạ với truyền
thống, đặc điểm của dân tộc. Muốn giữ được nền kinh tế thị trường mang bản
sắc văn hoá Việt Nam phải thực hiện có hiệu quả sự quản lý vĩ mô của nhà
nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, không chấp nhận lối sống thực dụng với sự
chi phối tất cả của đồng tiền, không chấp nhận thương mại hoá mọi hoạt động
của đời sống xã hội kết hợp sự chọn lọc tinh hoa của văn minh nhân loại với giữ
gìn những yếu tố tinh tuý của văn hoá dân tộc, xây dựng những yếu tố văn hóa
4. Những thành tựu đạt được với nền kinh tế hàng hóa
Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ
phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu
phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu được
đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của CNH XHCN trong
chặng đường đầu tiên. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ
sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống KTXH
và giải phóng sức sản xuất.
1991-1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, đạt được
tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện.GDP bình quân năm tăng
8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh CNH -
HĐH đất nước.
Từ năm 1996-2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước. Chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu
vực cùng thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh tế nước ta trước
những thử thách. Tuy nhiên, giai đoạn này, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng
trưởng tổng sản phẩm trong nước 7%/năm.

12
Năm 2000-2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, GDP
bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP
theo giá hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu
đồng, tương đương với 640 USD.
Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1 triệu tấn lương thực,
Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước ta
đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2
về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu.
2005-2010: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào nước ta đạt cao. Trong 5 năm, tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỉ
USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm
ước đạt 150 tỉ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai
đoạn 2001-2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn 1,5 lần so
với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỉ USD, vượt 16%. GDP bình
quân đầu người đạt 1.168 USD.
Những con số trên đã cho thấy tốc độ tăng trương ngoạn mục và đáng tự hào
của VN kể từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hóa.

13
Tổng kết:

Đổi mới nền kinh tế đã mang lại rất nhiều những thay đổi lớn mang
tính tích cực cho đại bộ phận nhân dân Việt Nam. Đây là một hướng
đi sáng suốt của Đảng và chính phủ Việt Nam, áp dụng một cách khoa
học, sáng tạo, linh họat mô hình nền kinh tế hàng hóa thị trương cho
nước ta, một nước với xuất phát điểm thấp và muộn hơn rất nhiều so
với mặt bằng chung của thế giới. Những lợi ích, hiệu quả mà đổi mới
mang lại không thể phủ nhận tính hiệu quả và ứng dụng cao của nền
kinh tế hàng hóa. Và với mô hình kinh tế hiệu quả như thế, chắc chắn
rằng trong tương lai, kinh tế nước ta sẽ còn có nhưng bước phát triển
nhanh và manh hơn nữa, đưa nền kinh tế nước ts sánh ngang với các
nền kinh tế phát triển trên thê giới hiện nay, nâng cao thu nhập và mức
sống của nhân dân Việt Nam.

14

You might also like