You are on page 1of 34

Câu hỏi 1: Phân tích vai trò của thị trường? Ý nghĩa của việc nghiên cứu?

Khái niệm thị trường

Thị trường là tổng hòa những quan hệ kinh tế, trong đó nhu cầu của các chủ thể được
đáp ứng thông qua việc trao đổi, mua bán với sự xác định giá cả và số lượng hàng
hóa, dịch vụ tương ứng với trình độ phát triển nhất định của nền sản xuất xã hội.

Như vậy, thị trường có thể được nhận diện ở cấp độ cụ thể quan sát được như chợ, cửa
hàng, quầy hàng lưu động, phòng giao dịch hay siêu thị và nhiều hình thức tổ chức
giao dịch, mua bán khác.

Ở cấp độ trừu tượng hơn, thị trường cũng có thể được nhận diện thông qua các mối
quan hệ liên quan đến trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ trong xã hội, được hình
thành do những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội nhất định. Theo nghĩa này, thị trường
là tổng thể các mối quan hệ kinh tế gồm cung, cầu, giá cả; quan hệ hàng - tiền; quan
hệ giá trị, giá trị sử dụng; quan hệ hợp tác, cạnh tranh; quan hệ trong nước, ngoài
nước... Đây cũng là các yếu tố của thị trường.

Một quan niệm khác về thị trường

Thị trường là sự biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các quyết định của
các gia đình về tiêu dùng các mặt hàng nào; các quyết định của các công ty về sản
xuất cái gì, sản xuất như thế nào và các quyết định của người công nhân về việc làm
bao lâu cho ai đều được dung hòa bằng sự điều chỉnh giá cả.

* Vai trò của thị trường

Sự hình thành và phát triển tất yếu của thị trường không những là kết quả mà còn trở t
thành điều kiện để phát triển nhanh và hiệu quả kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường.
Xét trong mối quan hệ với thúc đẩy sản xuất và trao đổi hàng hóa (dịch vụ) cũng như
thúc đẩy tiến bộ xã hội, vai trò chủ yếu của thị trường có thể được khái quát như sau:

Một là, thị trường thực hiện giá trị hàng hóa, là điều kiện, môi trường cho sản xuất
phát triển. Giá trị hàng hóa được thực hiện thông qua trao đổi. Việc trao đổi phải được
diễn ra ở thị trường. Thị trường là môi trường để các chủ thể thực hiện giá trị hàng
hóa. Sản xuất hàng hóa càng phát triển, sản xuất ra càng nhiều hàng hóa, dịch vụ thì
càng đòi hỏi thị trường tiêu thụ phải rộng lớn hơn. Sự mở rộng thị trường đến lượt nó
lại thúc đẩy sản xuất phát triển. Vì vậy, thị trường là môi trường, là điều kiện không
thể thiếu của quá trình sản xuất kinh doanh. Thị trường là cầu nối giữa sản xuất với
tiêu dùng. Thị trường đặt ra các nhu cầu cho sản xuất cũng như nhu cầu cho tiêu dùng.
Vì vậy, thị trường có vai trò thông tin, định hướng cho mọi nhu cầu sản xuất kinh
doanh.

Hai là, thị trưởng kích thích sự sáng tạo của mọi thành viên trong xã hội, tạo ra cách
thức phân bố nguồn lực hiệu quả trong nền kinh tế. Thị trường thúc đẩy các quan hệ
kinh tế không ngừng phát triển. Do đó, đòi hỏi các thành viên trong xã hội phải không
ngừng nỗ lực, sáng tạo để thích ứng với sự phát triển của thị trường. Khi sự sáng tạo
được thị trường chấp nhận, chủ thể sáng tạo sẽ được thụ hưởng lợi ích tương xứng.
Khi lợi ích được đáp ứng, động lực cho sự sáng tạo được thúc đẩy. Cứ như vậy sẽ
kích thích sự sáng tạo của mọi thành viên trong xã hội. Thông qua thị trường, các
nguồn lực cho sản xuất được điều tiết, phân bổ tới các chủ thể sử dụng hiệu quả, thị
trường tạo ra cơ chế để lựa chọn các chủ thể có năng lực sử dụng nguồn lực hiệu quả
trong nền sản xuất.

Ba là, thị trường gắn kết nền kinh tế thành một chỉnh thể, gắn kết nền kinh tế quốc gia
với nền kinh tế thế giới. Xét trong phạm vi quốc gia, thị trường làm cho các quan hệ
sản xuất lưu thông, phân phối, tiêu dùng trở thành một thế thống nhất. Thị trường
không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Thị trường gắn kết mọi chủ thế giữa các
khâu, giữa các vùng, miền vào một chính thể thống nhất. Xét trong quan hệ với nền
kinh tế thế giới, thị trường tạo ra sự gắn kết nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế
giới. Các quan hệ sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng không chỉ bó hẹp trong
phạm vi nội bộ quốc gia, mà thông qua thị trường, các quan hệ đó có sự kết nối, liên
thông với các quan hệ trên phạm vi thế giới. Với vai trò này, thị trường góp phần thúc
đẩy sự gắn kết nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới.

* Ý nghĩa của việc nghiên cứu

Tri thức về vai trò của thị trường góp phần củng cố và nâng cao nhận thức về logic
phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trưởng dưới tác động của các quy luật kinh tế
khách quan. Vai trò của thị trường luôn không tách rời với cơ chế thị trường. Thị
trường trở nên sống động bởi có sự vận hành của cơ chế thị trường với tư cách là tổng
thể hoạt động và tác động của các quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Nắm
vững vai trò của thị trường là căn cứ khoa học để nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn
về sự phát triển của kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường, là cơ sở quan trọng để nhận
thức và giải quyết hiệu quả các vấn đề thực tiễn khi tham gia vào sản xuất, kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường.
Câu 2: Trình bày vai trò tích cực của chủ nghĩa tư bản đối với sự phát triển của thế giới? câu hỏi
62

Câu hỏi 63: Trình bày những giới hạn phát triển của chủ nghĩa tư bản ngày nay?

-Tư bản: là quan hệ sản xuất của xã hội hay một giá trị để tạo ra giá trị thặng dư bằng cách bóc
lột công nhân làm thuê. Trong đó nhà tư bản với những nắm giữ trong khả năng chi phối thị
trường cùng với các giá trị thặng dư.

Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã có sự đóng góp tích cực lớn đối với sự phát triển của thế
giới, thể hiện trên các mặt sau đây:

* Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng

Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ với
trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao: chuyển từ kỹ thuật lao động thủ công lên kỹ thuật
cơ khí, sang tự động hóa, tin học hóa,… Cùng với sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ là quá
trình giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả khám phá và chinh phục tự nhiên của con
người. Chủ nghĩa tư bản có công lớn trong phát triển các cuộc cách mạng công nghiệp và hiện
nay là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư xuất hiện vào đầu thế kỷ XXI, chuyển nền kinh tế
của nhân loại bước vào một thời đại mới - thời đại của kinh tế tri thức.

* Chuyển nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất lớn hiện đại

Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy chuyển kinh tế hàng hóa giản đơn lên kinh tế hàng
hóa tư bản chủ nghĩa phát triển, chuyển nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất tập trung quy mô
lớn, hiện đại, năng suất cao. Dưới tác động của quy luật của nền kinh tế thị trường, chủ nghĩa tư
bản đã kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa
khổng lồ, phong phú.

* Thực hiện xã hội hóa sản xuất

Chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh và đạt tới mức điển hình
nhất trong lịch sử, cùng với nó là quá trình xã hội hóa sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu. Đó
là sự phát triển của phân công lao động xã hội; sản xuất tập trung với quy mô lớn, hợp lý; chuyên
môn hóa sản xuất và hợp tác lao động sâu sắc; mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị, các ngành,
các lĩnh vực, giữa các quốc gia ngày càng chặt chẽ... làm cho các quá trình sản xuất phân tán
được liên kết với nhau và phụ thuộc lẫn nhau thành một hệ thống, một quá trình sản xuất xã hội
thống nhất. Đây cũng là một trong những điều kiện kinh tế thuận lợi thúc đẩy tiến sản xuất xã hội
phát triển ngày càng cao hơn.

Câu hỏi 63: Trình bày những giới hạn phát triển của chủ nghĩa tư bản ngày nay?

Trả lời:
Bên cạnh những mặt tích cực, trong quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản cũng có giới hạn lịch
sử:

* Mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn tập trung chủ yếu vì lợi ích của thiểu số giai
cấp tư sản

Mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải vì lợi ích của đông đảo quần chúng nhân
dân lao động, mà chủ yếu vì lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản, của bọn tư bản độc quyền, nhất
là tư bản tài chính. Mục đích này không phù hợp với thời đại phát triển của cách mạng công
nghiệp hiện đại, không phù hợp với

yêu cầu của trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất, với quy luật phát triển của xã hội loài
người. Đó là do cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất, trong đó giai cấp công nhân là những người lao động không có hoặc về
cơ bản không có tư liệu sản xuất, họ phải bán sức lao động cho các nhà tư bản và bị bóc lột giá
trị thặng dư.

Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, tư liệu sản xuất vẫn tập trung trong tay các nhà tư bản, đặc biệt
nằm trong tay các tập đoàn tư bản độc quyền, do đó họ là người chi phối việc phân phối sản
phẩm xã hội sản xuất ra vì lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản, của một nhóm nhỏ tư bản độc
quyền. Vì mục đích lợi nhuận độc quyền cao, các tập đoàn độc quyền không giảm giá cả hàng
hóa sản xuất ra, mà họ luôn áp đặt giá bán cao và giá mua thấp, hạn chế sản lượng hàng hóa; các
hoạt động nghiên cứu, phát minh, sáng chế chỉ được thực hiện khi vị thế độc quyền của họ được
đảm bảo, không có nguy cơ bị lung lay. Do vậy, độc quyền cũng góp phần làm kìm hãm cơ hội
có thể phát triển tốt hơn cho nhân loại, mặc dù nền kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa hiện
nay vẫn đang phát triển ở những mức độ nhất định. Xu thế phát triển nhanh của nền kinh tế biểu
hiện ở chỗ: Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới đã xuất hiện thời kỳ tăng trưởng với tốc
độ cao hiếm thấy. Xu thế trì trệ của nền kinh tế hay xu thế kim hãm là do sự thống trị của độc
quyền đã tạo ra những nhân tố ngăn cản sự tiến bộ kỹ thuật và phát triển sản xuất.

*Chủ nghĩa tư bản đã và đang tiếp tục tham gia gây ra chiến tranh và xung đột ở nhiều nơi trên
thế giới

Vì sự tồn tại, phát triển, các cường quốc tư bản ra sức chiếm lĩnh thuộc địa, chiếm lĩnh thị
trường, các cường quốc tư bản đã tiến hành phân chia lãnh thổ, thị trường thế giới. Nhưng do sự
phân chia lãnh thổ và thị trường thế giới dựa vào sức mạnh của các cường quốc tư bản, hơn nữa
do sự phát triển không đều về kinh tế và chính trị của các nước tư bản, tất yếu dẫn đến cuộc đấu
tranh đòi phân chia lại thị trường thế giới sau khi đã chia xong. Đó là nguyên nhân chính diễn ra
hai cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) và thứ hai (1939 - 1945) cùng với hàng trăm
cuộc chiến tranh khác trên thế giới và là nguyên nhân của các cuộc chạy đua vũ trang. Chiến
tranh lạnh đã kéo tụt lùi kinh tế thế giới hơn chục năm. Sang đầu thế kỷ XXI, Chiến tranh lạnh
đã tạm thời kết thúc nguy cơ chiến tranh thế giới cũng đã bị đẩy bài, nhưng điều đó không có
nghĩa là chiến tranh đã bị hại trừ hoàn toàn. Hiện nay, trên thế giới hàng chục các cuộc thiếu
tranh cục bộ, chiến tranh khu vực, chiến tranh sắc tộc vì chiến tranh thương mại vẫn liên tiếp xảy
ra, trong đó hoặc đứng bên trong hay đằng sau, hoặc trực tiếp hay gián tiếp, hoặc ngấm ngầm
hay công khai đều có bàn tay" của các Đường quốc tư bản.
*Sự phân hóa giàu nghèo trong lòng các nước tư bản và có xu hướng ngày càng sâu sắc

Sự phân hóa, chênh lệch giàu nghèo trong các nước tư bản đã tồn tại ngay từ khi chủ nghĩa tư
bản ra đời bằng quá trình tích này nguyên thủy của tư bản giai cấp tư sản dùng bạo lực để tước
đoạt những người sản xuất nhỏ đặc biệt là những người nông dân cá thể. Chủ nghĩa tư bản càng
phát triển, tích lũy, tích tụ và tập trung tư bản càng cao, giá trị thặng dư mà các tập đoàn tư bản
độc quyền thu được càng lớn, làm cho thu nhập của giai cấp công nhân ngày càng giảm tương
đối, còn thu nhập của giai cấp tư sản thì ngược lại.

Vì mục đích giá trị thặng dư, mục đích làm giàu và thống trị thế giới, trước đây các tập đoàn tư
bản độc quyền và các cường quốc tư bản đã không ngừng tăng cường xâm chiếm thuộc địa.
Nhưng đến nửa cuối thế kỷ XX, hệ thống thuộc địa kiểu cũ tan rã làm cho chủ nghĩa thực dân cũ
bị sụp đổ hoàn toàn. Các cường quốc tư bản chuyển sang thi hành chính sách thực dân mới, mà
nội dung chủ yếu là dùng viện trợ kinh tế, kỹ thuật, quân sự, thực hiện “chiến lược biên giới
mềm", để duy trì sự lệ thuộc của các nước đang phát triển. Đây chính là một trong những nguyên
nhân chủ yếu làm cho sự phân cực giàu - nghèo giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng cao.
Một nhóm nhỏ các cường quốc tư bản ngày càng giàu lên nhanh chóng, còn đại bộ phận các
quốc gia còn lại, nhất là các nước chậm phát triển, vẫn chìm sâu trong nạn đói nghèo và bệnh tật
của hàng trăm triệu người.

Những hạn chế trên đây của chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư
bản, đó là mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với quan hệ
sản xuất dựa trên quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Trong chủ
nghĩa tư bản, vì mục đích lợi nhuận, các nhà tư bản ra sức cải tiến kỹ thuật, ứng dụng những
thành tựu công nghệ hiện đại phương pháp sản xuất tiên tiến, hợp lý hóa sản xuất, hàng năng suất
lao động để hạ giá trị cá biệt của hàng hóa. Do đó, chủ nghĩa tư bản càng phát triển, trình độ xã
hội hóa của lực lượng sản xuất ngày càng cao.

Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa tư bản vẫn không tự giải quyết được mâu thuẫn cơ bản của
mình. Vì vậy, chủ nghĩa tư bản càng phát triển, mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày
càng gay gắt và chủ nghĩa tư bản phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa sẽ bị thay bằng một quan hệ sản xuất khác dựa trên sở hữu xã hội về tư liệu sản
xuất để phù hợp với trình độ xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất. Đó là do yêu cầu
của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy
định. Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: chủ nghĩa tư bản không tồn tại vĩnh viễn, mà
phát triển đến một trình độ nhất định sẽ bị thay thế bởi một hình thái kinh tế - xã hội mới tiến bộ
hơn.
Câu 3: Phân tích nguồn gốc của giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa? Ý
nghĩa của việc nghiên cứu? câu hỏi 32

giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra, là kết
quả của lao động không công của công nhân cho nhà tư bản. Ký hiệu giá trị thăng dư là m.

Sở dĩ được gọi là dôi ra vì người lao động chỉ cần một phần thời gian lao động đã được thỏa
thuận khi bán sức lao động theo nguyên tắc ngang giá là đã đủ để tạo ra một lượng giá trị mới
ngang bằng giá trị hàng hóa sức lao động của mình. Thỏa thuận này được phản ánh ở một bản
hợp đồng lao động giữa người mua và người bán hàng hóa sức lao động. Tất nhiên, trên thực tế
trong nền kinh tế thị trường, thái thuận này rất khó đạt được mức ngang giá, nghĩa là tiền công
của người bán sức lao động rất khó phản ánh lượng giá trị đầy đủ theo ba yếu tố cấu thành giá trị.

Trả lời:

* Nguồn gốc của giá trị thặng dư

Giá trị thặng dư là giá trị do đó, về nguyên tắc phải được tạo ra bởi lao động trong quá trình sản
xuất hàng hóa, từ đó quá trình sản xuất giá trị thặng dư phải là sự thống nhất của quá trình lao
động và làm tăng giá trị. Với tư cách là quá trình lao động sản xuất giá trị thặng dư là sự kết hợp
giữa các yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất và kết quả là tạo ra giá trị sử dụng. Tuy nhiên, do
sức lao động là hàng hóa được mua, nên với tư cách là quá trình làm tăng giá trị, so với sản xuất
hàng hóa giản đơn thì sản xuất giá trị thặng dư có đặc điểm: người công nhân làm việc dưới sự
kiểm soát của nhà tư bản; sản phẩm làm ra thuộc nhà tư bản. Để có được giá trị thặng dư, nền
sản xuất xã hội phải đạt đến một trình độ nhất định về năng suất lao động. Trình độ đó phản ảnh
việc người lao động chỉ cần sử dụng một phần thời gian của ngày lao động là đã tạo ra được một
lượng giá trị mới ngang bằng với giá trị hàng hóa sức lao động, bộ phận này là thời gian lao động
tất yếu. Phần ngày lao động còn lại người lao động vẫn phải làm việc trong sự quản lý của người
mua hàng hóa sức lao động, vẫn tiếp tục tạo ra giá trị mới thời gian đó là thời gian lao động
thặng dư

Vi du: Giả sử sản xuất giá trị thặng dư được thực hiện dưới hình thái sản xuất cụ thể là sản xuất
sợi và trong quá trình sản xuất này, nhà tư bản thuần túy chỉ đóng vai trò là chủ sở hữu và chỉ có
người công nhận là người lao động trực tiếp. Để tiến hành sản xuất sợi, nhà tư bản phải ứng ra số
tiền như sau:

- 50 USD để mua 50 kg bông,

- 3 USD hao mòn máy móc để kéo 50 kg bông thành sợi

- 15 USD mua hàng hóa sức lao động để sử dụng trong 1 ngày làm việc 8 giờ và điều này được
người công nhân thỏa thuận chấp nhận.

Như vậy, nhà tư bản ứng ra tổng là 68 USD. Trong quá trình sản xuất sợi, bằng lao động cụ thể,
người công nhân biến bằng thành sợi. Giá trị của bông và hao mòn móc được chuyển vào giá trị
của sợi. Bằng lao động trừu tượng người công nhân tạo ra giá trị mới, giả định trong giờ lao động
công nhân đã chuyển toàn bộ 50 kg bằng thành

Giá trị 50 kg bông chuyển vào 50 USD

Hao mòn máy móc: 3 USD.

Giá trị mới bằng giá trị sức lao động 15USD.

Tổng cộng: 68 USD

Nhà tư bản ứng ra 68 USD, giả định sợi được bán hết, thu và 68 USD. Nếu quá trình lao động
dừng lại tại điểm này thì không có giá trị thặng dư, tiền ứng ra chưa trở thành tư bản. Để có giá
trị thặng dư, thời gian lao động phải vượt quá các điểm bù lại giá trị sức lao động. Lưu ý là nhà
tư bản mua sức lao động của công nhân để sử dụng trong 8 giờ (với 15 USD như đã thỏa thuận),
không phải là 4 giờ.

Công nhận phải tiếp tục làm việc trong 4 giờ nữa. Trong 4 giờ này, nhà tư bản chỉ phải bỏ thêm
50 USD để mua 50 kg bông và 3 USD hao mòn máy móc.

Quá trình lao động 4 giờ sau diễn ra như quá trình đầu. Số sợi được tạo ra trong 4 giờ lao động
sau cũng có giá trị 68. USD. Con số này bao gồm:

Giá trị của bông chuyển vào 50 USD

Hao mòn máy móc 3 USD

Giá trị mới tạo thêm: 15 USD

Tổng cộng: 68 USD

Sau khi sợi được bán hết, giá trị thu về sau 8 giờ lao động của công nhân là: 68 USD +68 USD =
136 USD

Tổng cộng, nhà tư bản ứng ra 100 USD + 6 USD +15USD= 121 USD, trong khi đó số lại sản
xuất ra có giá trị 136 USD. Do đó, nhà tự bản thu được lượng giá trị thặng dư là 136 USD-121
USD = 15 USD. Phần chênh lệch này là giá trị thăng dư. Đây là giá trị mới do người lao động
tạo ra ngoài giá trị sức lao động. Phần giá trị mới này nhà tư bản nằm lấy do địa vị là người thì
sở hữu. Trong ví dụ nêu trên đã giả định người mua sức lao động là nhà tư bản với tư cách là chủ
sở hữu thuần túy để phân biệt với người lao động làm thuê. Trong trường hợp việc quản lý doanh
nghiệp cùng do người lao động được thuê thì giá trị mới thuần túy do lao động làm thuê tạo ra.

Còn trong trường hợp người mua hàng hóa sức lao động cũng phải hao phí sức lao động dưới
dạng quản lý thì giá trị mới đó cũng có sự đóng góp một phần từ lao động quản lí với tư cách là
lao động phức tạp. Trên thực tế, đa số người mua sức lao động cũng phải tham gia quản lý và
hao phí sức lao động.
Như vậy, đến đây có thể khái quát: tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư, giá trị thặng dư là lao
động không được trả công của công nhân làm thuê, Quá trình sản xuất giá trị thặng dư chẳng qua
là quá trình sản xuất giá trị song phải kéo dài quá một điểm, mà nếu dừng lại ở điểm đó thì lao
động trừu tượng của người công nhân làm thuê mới chỉ tạo ra được một lượng giá trị mới ngang
bằng giá trị sức lao động.

* Ý nghĩa của việc nghiên cứu

Nắm vững nguồn gốc giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa góp phần
củng cố và làm sâu sắc thêm tri thức về phạm trù giá trị trong nền kinh tế thị trường; giúp cho
nhận thức sâu sắc bản chất của tư bản với tư cách là quan hệ sản xuất thống trị trong nền kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa, đồng thời là cơ sở để nghiên cứu những phạm trù, quy luật kinh tế
của nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa nói riêng.

Nhận thức đầy đủ, sâu sắc về nguồn gốc giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa góp phần củng cố và nâng cao kỹ năng vận dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế
chính trị vào nghiên cứu làm rõ bản chất của các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường;
trên cơ sở đó nhận diện và phê phán những quan điểm sai trái về giá trị thặng dư trong nền kinh
tế thị trường; nhận thức đúng đắn cơ sở kinh tế của mâu thuẫn giai cấp trong mối quan hệ giữa
các chủ thể sử dụng lao động và những người lao động làm thuê trong nền kinh tế thị trường để
lựa chọn phương án giải quyết cụ thể, phù hợp.
Câu hỏi 87( câu 4) : Phân tích tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam? Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam có những đặc điểm chủ
yếu nào?

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ,
phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và
tiến bộ khoa học - công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.

* Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

Một là, lý luận và thực tiễn cho thấy, công nghiệp hóa là quy luật phổ biến của sự phát
triển lực lượng sản xuất xã hội mà mọi quốc gia đều trải qua dù ở các quốc gia phát
triển sớm hay các quốc gia đi sau.

Công nghiệp hóa là quá trình tạo ra động lực mạnh mẽ cho nền kinh tế, là đòn bẫy
quan trọng tạo sự phát triển đột biến trong các lĩnh vực hoạt động của con người.
Thông qua công nghiệp hóa, các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân được
trang bị những tư liệu sản xuất, kỹ thuật - công nghệ ngày càng hiện đại, từ đó nâng
cao năng suất lao động tạo ra nhiều của cải vật chất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
và đa dạng của con người.

Mỗi phương thức sản xuất có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất -
kỹ thuật của một phương thức sản xuất là hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng
sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật mà lực lượng lao động xã hội sử dụng
để tiến hành quá trình lao động sản xuất. Cơ sở vật chất - kỹ thuật được xem là tiêu
chuẩn để đánh giá mức độ hiện đại của một nền kinh tế, nó cũng là điều kiện quyết
định để xã hội có thể đạt được một năng suất lao động nào đó. Bất kỳ quốc gia nào đi
lên chủ nghĩa xã hội đều phải thực hiện nhiệm vụ hàng đầu là xây dựng cơ sở vật chất
- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội phải là
nền kinh tế hiện đại: có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình
độ khoa học và công nghệ hiện đại.

Hai là, đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội như
nước ta, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ đầu
thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là một bước tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó từng bước nâng dần trình độ văn minh của xã hội.
Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, trước hết là nhằm xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật cho nền kinh tế dựa trên những thành tựu khoa học - công nghệ
tiên tiến hiện đại. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa là một
bước tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời củng cố và
hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, làm cho nền sản xuất xã hội không
ngừng phát triển, đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của người dân không ngừng
được nâng cao.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển lực lượng sản xuất, nhằm khai thác, phát
huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước, nâng cao dần tính độc
lập, tự chủ của nền kinh tế. Đồng thời, thúc đẩy sự liên kết, hợp tác giữa các ngành,
các vùng trong nước và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, tham gia vào quá trình phân
công lao động và hợp tác quốc tế ngày càng hiệu quả.

Quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm cho khối liên minh công nhân,
nông dân và trí thức ngày càng được tăng cường, củng cố; đồng thời nâng cao vai trò
lãnh đạo của giai cấp công nhân

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thực hiện cũng sẽ tăng cường tiềm lực cho an
ninh, quốc phòng, góp phần nâng cao sức mạnh của an ninh, quốc phòng, đồng thời
tạo điều kiện vật chất và tinh thần để xây dựng nền văn hóa mới và con người mới xã
hội chủ nghĩa. Như vậy, có thể khẳng định công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhân tố
quyết định sự thắng lợi của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Nhân dân
ta đã lựa chọn.

* Những đặc điểm chủ yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hưởng xã hội. chủ nghĩa, thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.

- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.

-Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và Việt Nam đang
tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Câu 5 Câu hỏi 22: Trình bày nội dung, tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường? Ý nghĩa của việc
nghiên cứu

Nội dung của quy luật giá trị

Nội dung chính của quy luật này đó là sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần
thiết. Cụ thể hơn, khi sản xuất hàng hóa sẽ cần phải có hao phí sức lao động xã hội cần thiết.

Tuy nhiên, doanh nghiệp sản xuất cần phải tiết kiệm lao động để sản xuất ra hàng hóa. Với một hàng hóa, giá trị của
sản phẩm phải nhỏ hơn hoặc bằng thời gian cần thiết để sản xuất hay còn gọi là giá cả thị trường của hàng hóa. Khi
đó, việc sản xuất hàng hóa mới có thể mang lại lợi thế cạnh tranh cao.

Ngoài ra, trong trao đổi hàng hóa giữa các doanh nghiệp trong thị trường cần tuân theo nguyên tắc ngang giá. Nghĩa
là khi trao đổi hàng hóa, doanh nghiệp phải đảm bảo bù đắp được chi phí sản xuất và đảm bảo rằng hoạt động sản
xuất kinh doanh có lãi. Khi đó, doanh nghiệp mới có thể có chi phí để tiếp tục sản xuất kinh doanh.

Tác động của quy luật giá trị

Quy luật giá trị có tác động rất lớn đến việc sản xuất và lưu thông hàng hóa trên thị trường. Đồng thời, quy luật này
còn ảnh hưởng đến phân hóa xã hội, dẫn đến sự hình thành người giàu và người nghèo.

Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa

Một tác động rõ ràng nhất của quy luật giá trị đó chính là điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa. Điều này có
nghĩa là quy luật này ảnh hưởng đến sự phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành kinh tế, các lĩnh vực khác nhau.

Tác động điều tiết này của quy luật giá trị phụ thuộc vào sự biến đổi cung cầu cùng giá cả hàng hóa ở thị trường.
Khi đó, sự biến động giá cả không chỉ ảnh hưởng đến kinh tế mà còn ảnh hưởng đến sản xuất, lưu thông hàng hóa.

Trường hợp nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả hàng hóa lớn hơn giá trị và hàng hóa sẽ bán chạy, doanh nghiệp có lãi.
Khi giá cả cao hơn giá trị, các hoạt động kinh doanh sẽ được đẩy mạnh để cung cấp sản phẩm cho thị trường.

Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả hàng hóa thấp hơn giá trị. Khi đó, hàng hóa sẽ khó bán và doanh nghiệp phải dừng
việc sản xuất, kinh doanh. Khi cung và cầu bằng nhau thì giá cả sẽ trùng với giá trị và thị trường sẽ rơi vào giai đoạn
“bão hòa”.

Thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi chủ thể sản xuất là một cá thể độc
lập với mức hao tổn lao động trong sản xuất khác nhau. Những doanh nghiệp có mức hao tổn lao động ít nhưng tạo
ra được giá trị hàng hóa lớn thì có thể đạt được lợi nhuận, doanh thu cao và có lãi.

Để tạo được ưu thế trong cạnh tranh của mình, những nhà sản xuất buộc phải tìm cách để hạ thấp chi phí lao động cá
biệt sao cho thấp hơn hoặc bằng chi phí lao động xã hội cần thiết. Khi đó, những nhà sản xuất sẽ cải tiến kỹ thuật và
hợp lý hóa quá trình sản xuất của mình. Do vậy, một tác động của quy luật giá trị đó chính là làm cho quá trình sản
xuất được hiện đại, chuyên nghiệp hơn.

Làm phân hóa người sản xuất thành người giàu, người nghèo

Trong quá trình thực hiện sản xuất, những người đạt được việc kinh doanh thuận lợi, có trình độ, kiến thức thì hao
tổn lao động cá biệt thấp hơn hao tổn lao động xã hội cần thiết. Khi đó, những người này nhanh chóng đạt được lợi
nhuận và kiếm được nhiều tiền, trở thành người giàu có. Ngược lại, những người không có lợi thế cạnh tranh sẽ
nhanh chóng bị thua lỗ và trở thành người nghèo.
Câu 5 Câu hỏi 22: Phân tích nội dung, tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường?
Ý nghĩa của việc nghiên cứu

Nội dung của quy luật giá trị

Trong quá trình hình thành và phát triển của kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường, giá trị của hàng
hóa với tư cách là hình thái xã hội của quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa đã từng
bước trở thành quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và
trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự hay động của quy luật giá trị

Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến hành trên cơ sở của
hao phí lao động xã hội cần thiết. Theo yêu cầu của quy luật giá trị người sản xuất muốn bán
được hàng hóa trên thị trường, muốn được xã hội thừa nhận sản phẩm thì ngoài việc phải tạo ra
sản phẩm hàng hóa có giá trị sử dụng phù hợp với nhu cầu thị trường còn phải nỗ lực thực hiện
các biện pháp giảm thời gian bên động cá biệt xuống mức thấp hơn hoặc bằng với thời gian lao
động xã hội cần thiết. Nếu thời gian lao động cá biệt lớn hơn thời gian lao động xã hội cần thiết,
thì phần chênh lệch đó sẽ là lao động mà người sản xuất đã thực hiện không được thừa nhận, hay
vô ích. Nếu thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội cần thiết, thì phần chênh
lệch đó sẽ là lao động mà người sản xuất không cần thực hiện, nhưng được xã hội trao cho.

Trong lĩnh vực trao đổi, quy luật giá trị đòi hỏi phải tiến hành mua bán theo nguyên tắc ngang
giá, lấy giá trị xã hội làm cơ sở, không dựa trên giá trị cá biệt. Giá cả thị trường được điều tiết
bởi giá trị do đó, trong trao đổi cả người mua và người bán đều lấy giá trị làm căn cứ xác định
giá cả và mọi quyết định lựa chọn mua, bán.

* Tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường.

Quy luật giá trị hoạt động và phát huy tác dụng thông qua sự vận động của giá cả xoay quanh giá
trị, dưới sự tác động của quy luật cung- cầu, cạnh tranh, lưu thông tiền tệ và chính sách của chính
phủ. Giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị hàng hóa trở thành cơ chế tác động của quy
luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật
giá trị. Những người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân theo mệnh lệnh của giá cả thị
trường. Trong nền kinh tế hàng hóa, quy luật giá trị có những tác động cơ bản sau:

Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.Trong sản xuất, thông qua sự biến động của
giá cả, người sản xuất sẽ biết được tình hình cung - cầu về hàng hóa đó và quyết định phương án
sản xuất. Nếu giá cả hàng hóa bằng hoặc lớn hơn giá trị thì việc sản xuất nên được tiếp tục, mở
rộng. Tư liệu sản xuất, sức lao động sẽ được tự phát dịch chuyển vào ngành đang có giá cả cao.

Trong lưu thông, quy luật giá trị điều tiết nguồn hàng từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao,
từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu. Thông qua mệnh lệnh của giá cả thị trường,
hàng hóa ở nơi có giá cả thấp được thu hút, chảy đến nơi có giá cả cao hơn, góp phần làm cho
cung - cầu hàng hóa giữa các vùng được cân bằng, phân phối lại thu nhập giữa các vùng, miền,
điều chỉnh sức mua của thị trường (nếu giá cao thì mua ít, giá thấp thì mua nhiều)...
Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng suất lao động. Trên thị
trường, hàng hóa được trao đổi theo giá trị xã hội. Người sản xuất có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá
trị xã hội, khi bán theo giá trị xã hội sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. Ngược lại, người sản xuất
có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội sẽ gặp bất lợi hoặc thua lỗ. Để đứng vững trong cạnh tranh
và tránh không bị phá sản, người sản xuất phải luôn tìm cách làm cho giá trị cá biệt hàng hóa của
mình nhỏ hơn hoặc bằng giá trị xã hội. Muốn vậy, phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới
đổi mới phương pháp quản lý, thực hiện tiết kiệm… Kết quả, lực lượng sản xuất ngày càng phát
triển, năng suất lao động xã hội tăng lên, chi phí sản xuất hàng hóa giảm xuống. Trong lưu
thông, để bán được nhiều hàng hóa, người sản xuất phải không ngừng tăng chất lượng phục vụ
quảng cáo, tổ chức tốt khâu bán hàng làm cho quá trình lưu thông được hiệu quả cao hơn, nhanh
chóng, thuận tiện sử chi phí thấp nhất.

Thứ ba, phân hóa những người sản xuất thành những người giàu, người nghèo một cách tự nhiên.
Trong quá trình cạnh tranh, những người sản xuất nhạy bén với thị trường trình độ năng lực giỏi,
sản xuất với hao phí cá biệt thấp hơn mức hao phí chung của xã hội sẽ trở nên giàu có. Ngược lại
những người do hạn chế về vấn, kinh nghiệm sản xuất thấp kém, trình độ công nghệ lạc hậu... thì
giá trị cá biệt sẽ cao hơn giá trị xã hội và dễ lâm vào tình trạng thua lỗ, dẫn đến phá sản, thậm chí
phải đi làm thuê. Trong nền kinh tế thị trường thuần túy, chạy theo lợi ích cá nhân, đầu cơ, gian
lận khủng hoảng kinh tế... là những yếu tố có thể làm tăng thêm tác động phân hóa sản xuất cùng
những tiêu cực về kinh tế - xã hội khác.

* Ý nghĩa của việc nghiên cứu

Tri thức về quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường góp phần củng cố và nâng cao nhận thức
về hoạt động, biểu hiện và tác động của quy luật khách quan trong nền kinh tế thị trường. (quy
luật giá trị vừa có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích thích sự tiến bộ làm cho lực lượng
sản xuất phát triển mạnh mẽ; vừa có tác dụng lựa chọn, đánh giá người sản xuất, bảo đảm sự
binh đẳng đối với người sản xuất vừa có cả những tác động tích cực lẫn tiêu cực. Các tác động
đó diễn ra một cách khách quan trên thị trường. Nắm vững yêu cầu, biểu hiện và tác động khách
quan của quy luật giá trị là cơ sở nhận thức về hoạt động của quy luật kinh tế căn bản của kinh tế
hàng hóa, kinh tế thị trường, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Nhận thức đầy đủ, sâu sắc về
quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường giúp cho sinh viên đại học, cao đẳng hiểu sâu sắc
thêm về cơ sở khách quan của vai trò kinh tế - xã hội, những cơ hội, thách thức đối với hoạt động
kinh tế trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để có những quyết định lựa chọn
hành động đúng đắn, hiệu quả trong thực tiễn.
Câu 6 Nước ta vận dụng quy luật giá trị như thế nào để vận hành, phát triển nền kinh
tế thị trường hiện nay ( giáo trình trang67)

Nền kinh tế thị trường được hiểu như thế nào?

Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh một trình độ phát triển nhất
định của mỗi quốc gia. Nắm bắt được xu thế vận động khách quan của nền kinh tế thi
trường trong thời đại ngày nay, Đảng và nhà nước ta trên cơ sở nhận thức tính quy
luật phát triển của thời đại và sự khái quát, rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị
trường ở các quốc gia phát triển khác, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam để đưa ra chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.

* Quy luật giá trị

Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và
trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị.

Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến hành trên cơ
sở của hao phí lao động xã hội cần thiết. Theo yêu cầu của quy luật giá trị, người sản
xuất muốn bán được hàng hóa trên thị trường, muốn được xã hội thừa nhận sản phẩm
thì lượng giá trị của một hàng hóa cá biệt phải phù hợp với thời gian lao động xã hội
cần thiết. Vì vậy, họ phải luôn luôn tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống
nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong lĩnh vực trao đổi, phải
tiến hành theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị xã hội làm cơ sở, không dựa trên giá
trị cá biệt.

Quy luật giá trị hoạt động và phát huy tác dụng thông qua sự vận động của giá cả
xung quanh giá trị, dưới sự tác động của quan hệ cung - cầu. Giá cả thị trường lên
xuống xoay quanh giá trị hàng hóa trở thành cơ chế tác động của quy luật giá trị.
Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật
giá trị Những người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân theo mệnh lệnh của giá cả
thị trường.

Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.

Trong sản xuất thông qua sự biến động của giá cả. người sản xuất sẽ biết được tình
hình cung - cầu về hàng hóa đó và quyết định phương án sản xuất. Nếu gia có hàng
hóa bằng hoặc lớn hơn giá trị thì việc sản xuất nên được tiếp tục, mở rộng. Tư liệu sản
xuất, sức lao động số được tự phát dịch chuyển vào ngành đang có giá cả cao.
Trong lưu thông, quy luật giá trị điều tiết hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá
cả cao, từ nơi cung lớn hơn cấu đến nơi cung nhỏ hơn cầu. Thông qua mệnh lệnh của
giá cả thị trường, hàng hóa ở nơi có giá cả thấp được thu hút, chảy đến nơi có giá cả
cao hơn, góp phần làm cho cung - cầu hàng hóa giữa các vùng được cân bằng phân
phối lại thu nhập giữa các vùng, miền, điều chỉnh sức mua của thị trường (nếu giá cao
thì mua ít, giá thấp thì mua nhiều)...

Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng suất lao
động.

Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi theo giá trị xã hội. Người sản xuất có giá trị
cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội, khi bán theo giá trị xã hội sẽ thu được nhiều lợi nhuận
hơn. Ngược lại, người sản xuất có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội sẽ gặp bất lợi
hoặc thua lỗ. Để đứng vững trong cạnh tranh và tránh không bị pha sản, nguoi san
xuất phải luôn tìm cách làm cho giá trị cá biệt hang hóa của mình nhỏ hơn hoặc bằng
giá trị xã hội. Muốn vay phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới, đổi mới
phương pháp quản lý, thực hiện tiết kiệm... Kết quả, lực lượng sản xuất ngày càng
phát triển, năng suất lao động xã hội tăng lên, chi phí sản xuất hàng hóa giảm xuống.
Trong lưu thông, để bán được nhiều hàng hóa, người sản xuất phải không ngừng tăng
chất lượng phục vụ, quảng cáo, tổ chức tốt khâu bán hàng... làm cho quá trình lưu
thông được hiệu quả cao hơn, nhanh chóng, thuận tiện với chi phí thấp nhất.

Thứ ba, phân hóa những người sản xuất thành những người giàu, người nghèo một
cách tự nhiên. Trong quá trình cạnh tranh, những người sản xuất nhạy bén với thị
trường, trình độ năng lực giỏi, sản xuất với hao phí cá biệt thấp hơn mức hao phí
chung của xã hội sẽ trở nên giàu có. Ngược lại, những người do hạn chế về vốn, kinh
nghiệm sản xuất thấp kém, trình độ công nghệ lạc hậu... thì giá trị cá biệt sẽ cao hơn
giá trị xã hội và dễ làm vào tình trạng thua lỗ, dẫn đến phá sản, thậm chí phải đi làm
thuê. Trong nền kinh tế thị trường thuần túy, chạy theo lợi ích cá nhân, đầu cơ, gian
lận, khủng hoảng kinh tế... là những yếu tố có thể làm tăng thêm tác động phân hóa
sản xuất cùng những tiêu cực về kinh tế - xã hội khác.

Ví dụ:
Khi đại dịch Covid-19 bùng nổ, nhu cầu về các thiết bị y tế, đặc biệt là khẩu trang của
người dân trên cả nước tăng cao, khi mới bùng phát dịch nhu cầu đột nhiên tăng cao
khiến sản phẩm hiên cung cấp trên thị trường không đủ phục vụ nhu cầu của người
dân dẫn đến tình trang cung nhỏ hơn cầu nên các cơ sở sản xuất khẩu trang y tế đã
đồng loạt tăng giá sản phẩm. Khi đại dịch kết thúc, nhu cầu sử dụng khẩu trang không
manh mẽ như trước nên giá cả đã trở về bình ổn, tức cung bằng cầu.
2.2 Thúc đẩy cải tiến kỹ thuật

Chẳng hạn như ở các nhà máy chế biến sản phẩm đóng hộp, nhân công chỉ việc làm
một số công việc ban đầu như bỏ nguyên liệu vào máy móc, sau đó quy trình nấu,
đóng gói sẽ do máy móc hoàn toàn thực hiện theo dây truyền có sẵn. Từ đây, tiến độ
sản xuất được đẩy mạnh, tiết kiêm được nhiều thời gian và chi phí thuê nhân công.

2.3 Quy luật giá trị phân hoá xã hội

Cũng giống như ví dụ đã nêu trên, khi một phần máy móc đã thay thế con người làm
việc, những người lao động có năng xuất thấp hơn sẽ tự động bị đào thải, không có
việc làm khiến nạn thất nghiệp tăng cao, nghèo vẫn hoàn nghèo.

Đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, thông qua
hệ thống giá cả quy luật giá trị có ảnh hưởng nhất định đến việc lưu thông của một
hàng hóa nào đó. Giá mua cao sẽ khơi thêm nguồn hàng, giá bán hạ sẽ thúc đẩy mạnh
việc tiêu thụ và ngược lại. Do đó mà Nhà nước ta đã vận dụng vào việc định giá cả sát
giá trị, xoay quanh giá trị để kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng cường quản lý. Không
những thế Nhà nước ta còn chủ động tách giá cả khỏi giá trị với từng loại hàng hóa
trong từng thời kỳ nhất định, lợi dụng sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị để điều tiết
một phần sản xuất và lưu thông, điều chỉnh cung cầu và phân phối. Giá cả được coi là
một công cụ kinh tế quan trọng để kế hoạch hóa sự tiêu dùng của xã hội.
Câu 6 Nước ta vận dụng quy luật giá trị như thế nào để vận hành, phát triển nền
kinh tế thị trường hiện nay

Vận dụng quy luật giá trị ở Việt Nam hiện nay

Hiện nay nước ta đang hội nhập theo nền kinh tế thế giới với chính sách mở cửa hợp
tác với các nước. Một trong những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế nước
ta đó là quy luật giá trị. Việc vân dụng quy luật giá trị được thể hiện trên những lĩnh
vực như sau:

– Vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vực sản xuất.

Thứ nhất: Đối với việc hoạch toán kinh tế của các doanh nghiệp

Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, mỗi doanh nghiệp là người sản xuất hàng hóa
cạnh tranh gay gắt với nhau, để đứng vững được trên thị trường, chiến thắng đối thủ
cạnh tranh thì họ phải tính đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua các hình thức
giá trị, giá cả, lợi nhuận, chi phí… Để có lợi nhuận, các doanh nghiệp phải tìm cách
hạ thấp chi phí sản xuất bằng cách hợp lý hóa sản xuất, tiết kiệm chi phí vật chất, tăng
năng suất lao động… Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải nắm vững và vận dụng
tốt quy luật giá trị trong hoạch toán kinh tế. Thời gian qua ta thấy có rất nhiều doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả, điều đó cho thấy các doanh nghiệp đã vận dụng khá tốt
quy luật giá trị vào hoạch toán kinh tế.

Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, Nhà nước
ta đã quyết định cổ phần hóa phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước, và Nhà nước chỉ
giữ lại một số ngành có tính chất an ninh quốc gia. Các doanh nghiệp rồi sẽ dần
chuyển thành các công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu và mỗi cổ đông sẽ vì lợi ích
của mình để đầu tư vào sản xuất, hoạch toán kinh tế sao cho lợi nhuận càng nhiều
càng tốt.

Thứ hai: Đối với việc hình thành giá cả sản xuất

Tuy nhiên, trên thực tế giá cả hàng hóa chịu tác động của nhiều yếu tố như cung –
cầu, cạnh tranh, sức mua đồng tiền, giá các mặt hàng liên quan…

– Vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vực lưu thông hàng hóa.

Trong lĩnh vực lưu thông, quy luật giá trị yêu cầu trao đổi phải theo nguyên tắc ngang
giá, tức giá cả bằng giá trị. Dưới tác động quy luật giá trị, hàng hóa trong nền kinh tế
sẽ được đưa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, từ nơi cung nhiều đến nơi cầu
nhiều. Thông qua sự biến động về giá cả trên thị trường, luồng hàng hóa sẽ lưu thông
từ đó tạo sự cân đối về nguồn hàng giữa các vùng miền.

Tóm lại, quy luật giá trị vừa có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích thích sự
tiến bộ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ vừa có tác dụng lựa chọn.
đánh giá người sản xuất, bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất; vừa có cả
những tác động tích cực lẫn tiêu cực. Các tác động đó diễn ra một cách khách quan
trên thị trường.

2 Ý nghĩa của quy luật giá trị trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam?

Phát triển kinh tế là nhu cầu tất yếu của mỗi người, mỗi tổ chức, mỗi quốc gia. Nhu
cầu tất yếu và thành tựu to lớn của việc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường phù
hợp với điều kiện của mỗi quốc gia trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước.

Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường là một quá trình tất yếu phù hợp với
quy luật phát triển của thời đại và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước Viêt Nam
ta. Mà để phát triển toàn diện nền kinh tế thị trường cần thiết phải áp dụng quy luật
giá trị.

Trong trao đổi hàng hoá phải tuân thủ nguyên tắc ngang giá, nghĩa là phải đảm bảo bù
đắp được chi phí của người sản xuất và đảm bảo có lãi để tiếp tục tái sản xuất. Giá trị
là tiền đề của giá cả, giá cả là sự thể hiện bằng tiền của giá trị vậy nên sự tác động,
vận hành của quy luật giá trị được thể hiện thông qua sự vận động của giá cả hàng
hoá.

3. Tác động của quy luật giá trị trong phát triền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã vân dụng quy luật giá trị để phát triển kinh tế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và đem lại nhiều thành tựu nổi bật. Từ một nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nước ta đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ
tầng kinh tế - xã hội và thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo công ăn
việc làm cho người lao động. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thuộc mức cao so với
nhiều nước trong khu vực

Nền sản xuất xã hội chủ nghĩa không chịu sự điều tiết của quy luật giá trị mà chịu sự
chi phối của quy luật kinh tế. Tuy nhiên, quy luật giá trị vẫn có ảnh hưởng đến sản
xuất, kinh doanh như đã phân tích ở trên. Những vật phẩm tiêu dùng cần thiết để bù
vào sức lao động hao phí trong quá trình sản xuất được tiêu thụ dưới hình thức hàng
hoá và chịu sự tác động của quy luật giá trị. Trong những thành phần kinh tế khác
nhau, tác động của quy luật giá trị có xu hướng khác nhau. Việt Nam ta đã chủ động
vận dụng quy luật giá trị vào sản xuất hàng hoá.
Câu 7 Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa là gì?câu4

* Công nghiệp hóa

1.1. Công nghiệp hóa là gì?

Sự tồn tại của loài người luôn gắn liền với nhiều cuộc cách mạng. Công nghiệp hóa chính là một
trong những cuộc cách mạng về kinh tế về kỹ thuật vĩ đại mà loài người đã và đang trải qua.

Công nghiệp hóa được coi là xu hướng phát triển tất yếu của tất cả các quốc gia, hay nói cách
khác, để cải biến tình trạng lạc hậu và tăng năng suất lao động, thì nhất định phải Công nghiệp
hóa. Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi cơ bản toàn diện hầu hết các hoạt động sản xuất từ
việc sử dụng lao động thủ công sang sử dụng phổ biến sức lao động phổ thông dựa trên sự phát
triển của ngành công nghiệp cơ khí.

Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi nền sản xuất xã hội từ dựa trên lao động thủ công là
chính sang nền sản xuất xã hội dựa chủ yếu trên lao động bằng máy móc nhằm tạo ra năng suất
lao động xã hội cao.

1.2. Hiện đại hóa là gì?

Hiện đại hoá là quá trình ứng dụng và trang bị những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến
hiện đại vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lí kinh tế xã hội.

Công nghiệp hóa là một phần của quá trình hiện đại hóa. Sự chuyển biến kinh tế - xã hội này đi
đôi với sự phát triển và tiến bộ công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của sản xuất năng lượng và
luyện kim quy mô lớn. Công nghiệp hóa còn gắn liền với thay đổi các hình thái triết học hoặc sự
thay đổi thái độ trong nhận thức tự nhiên. Dầu vậy, những thay đổi về mặt triết học là nguyên
nhân của công nghiệp hóa hay ngược lại thì vẫn còn tranh cãi.

1.3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế
và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động chân tay, sức lao động thủ công là phổ biến sang
sử dụng sức lao động cùng với máy móc, công nghệ hiện đại, phương tiện, phương pháp tiên
tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa bao hàm cả các hoạt động sản xuất, kinh doanh với cả dịch vụ và
quản lý kinh tế - xã hội. Tất cả đều được sử dụng trên những phương tiện hiện đại cùng với kỹ
thuật và công nghệ cao.

Ví dụ về công nghiệp hóa, hiện đại hóa:


Một số ví dụ về công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà chúng ta có thể đã
biết:
Trong lĩnh vực chăn nuôi: áp dụng công nghiệp hóa hiện đại hoá
trong mô hình chăn nuôi khép kín, hệ thống làm mát chuồng hay sử
dụng vòi uống nước, máng ăn tự động,… để chăn nuôi gia súc, gia
cầm một cách dễ dàng hơn.
Trong lĩnh vực nông nghiệp: nhờ hiện đại hoá kỹ thuật mà người
nông dân có nhiều giống lúa mới năng suất. Bên cạnh đó, nhiều khu
vực còn ứng dụng công nghệ hiện đại như phun mưa, tưới nước nhỏ
giọt kết hợp bón phân… vào trong sản xuất nông nghiệp, từ đó giúp
cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân.
Trong đời sống: nhiều thiết bị hiện đại được phát minh và được sử
dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày như máy hút ẩm, điều hoà, tủ
lạnh, máy giặt,…
Trong y tế: nhiều thiết bị y tế hiện đại được ứng dụng trong y tế dùng
để chẩn đoán, điều trị bệnh,…. Từ khi ứng dụng, nhiều căn bệnh nguy
hiểm dễ dàng phát hiện và điều trị với mức chi phí không quá cao.
Câu8 Vì sao ở Việt Nam phải thực hiện quá trình CNH,HĐH

( tham khảo câu 4)

* Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

Một là, lý luận và thực tiễn cho thấy, công nghiệp hóa là quy luật phổ biến của sự phát
triển lực lượng sản xuất xã hội mà mọi quốc gia đều trải qua dù ở các quốc gia phát
triển sớm hay các quốc gia đi sau.

Hai là, đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội như
nước ta, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ đầu
thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là một bước tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó từng bước nâng dần trình độ văn minh của xã hội.

* Những đặc điểm chủ yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hưởng xã hội. chủ nghĩa, thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.

- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.

-Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và Việt Nam đang
tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Câu8 Vì sao ở Việt Nam phải thực hiện quá trình CNH,HĐH

b) Tính tất yếu khách quan và tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
- Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
+ Do yêu cầu phải xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
+ Do yêu cầu phải rút ngắn khoảng cách tụt hậu xa về kinh tế, kỹ thuật và công
nghệ giữa Việt Nam và thế giới.
+ Do yêu cầu phải tạo ra năng suất lao động xã hội cao, đảm bảo cho sự tồn tại
và phát triển của xã hội.
- Tác dụng to lớn và toàn diện của công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
+ Tạo điều kiện để phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao năng suất lao động
xã hội, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đồng thời giải quyết việc
làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống của nhân dân.
+ Tạo ra lực lượng sản xuất mới, tạo tiền đề cho việc củng cố quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa, tăng cường vai trò của Nhà nước và mối quan hệ giữa công
nhân, nông dân, trí thức.
+ Tạo tiền đề cho việc hình thành và phát triển nền văn hóa mới xã hội chủ
nghĩa và phát triển nền văn hóa tiên tiến, cao đẹp, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, kết hợp
với việc chủ động hội nhập nền kinh tế quốc tế, nền kinh tế siêu quốc gia; củng
cố, tăng cường quốc phòng và an ninh quốc gia.
- Nước ta phải tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa. Vì:

+ Yêu cầu phải xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng - kỹ thuật của công nghiệp chủ
nghĩa xã hội.
+ Do yêu cầu phải rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế, kỹ thuật - công nghệ
giữa nước ta với các nước trong khu vực và thế giới.
+ Do yêu cầu phải tạo ra năng suất lao động xã hội Cao đảm bảo cho sự tồn tại
và phát triển của chủ nghĩa xã hội.
=> Đó là nội dung của tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa hiện đại
hóa: bắt buộc phải xảy ra, không phụ thuộc vào ý thức con người muốn hay
không muốn.

Ở nước ta, công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa bởi vì:
– Đây là quá trình biến một nước nông nghiệp lúa nước thành nước
công nghiệp với những rang bị kĩ thuật – công nghệ hiện đại, có khí
hóa lên tự động hóa.
– Do yêu cầu phải rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế so với các
nước trong khi vực và trên thế giới. Nước ta bước vào công nghiệp
hóa với điểm xuất phát thấp. Ở nước ta công nghiệp hóa phải gắn liền
với hiện đại hóa vì nước ta thực hiện công nghiệp hóa muộn so với
các nước khác. Vì vậy muốn rút ngắn khoảng cách lạc hậu so với các
nước phát triển thì công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa.
Sau hơn 30 năm đổi mới (1986 đến nay), cơ sở vật chất – kĩ thuật
bước đầu được tăng cường.
– Xu hướng toàn cầu hóa mở ra cơ hội cho nước ta thực hiện mô
hình công nghiệp hóa rút ngắn thời gian. Vì là thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) nên cần kết hợp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nhằm tạo chất lượng tăng trưởng, chất lượng cạnh tranh và
chất lượng hội nhập kinh tế quốc tế.
Vai trò công nghiệp hóa, hiện đại hóa là gì?
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa có tác dụng to lớn và toàn diện đối với
sự phát triển của nền kinh tế – xã hội của toàn thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng
– Tạo điều kiện và giúp đảm bảo phát triển lực lượng sản xuất và
nâng cao năng suất lao động xã hội, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế
– Giúp cho nền khoa học và công nghệ có điều kiện được phát triển
nhanh chóng và đạt tới trình độ hiện đại, tiên tiến vượt bậc.
– Tạo điều kiện bổ sung lực lượng, cơ sở vật chất và kỹ thuật cho hệ
thống quốc phòng, an ninh, giúp đảm bảo về đời sống kinh tế độc lập,
tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, làm cho chính
trị và xã hội trong đất nước ngày càng ổn định, phát triển hơn.
– Tạo cơ hội giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống
của nhân dân. Nhờ đó con người sẽ được phát triển một cách toàn
diện nhất trong mọi hoạt động kinh tế và xã hội. Một phần quyết định
tới sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
– Tạo ra lực lượng sản xuất mới, tạo tiền đề cho việc củng cố quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và củng cố, tăng cường mối quan hệ
giữa công nhân, nông dân và trí thức.
– Tạo tiền đề cho việc hình thành và phát triển nền văn hóa mới xã
hội chủ nghĩa và phát triển nền văn hóa tiên tiến, cao đẹp, đậm đà
bản sắc dân tộc.
=> Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được coi là một nhiệm vụ trọng
điểm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên xã hội chủ nghĩa.
Câu 9 nội dung CNH,HĐH ở VN hiện nay là gì?
c) Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
*Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản
xuất
+ Thực hiện cơ khí hóa nền sản xuất xã hội nhờ chuyển nền kinh tế kỹ thuật thủ
công sang nền kinh tế kỹ thuật cơ khí thủ công. Đồng thời chuyển nền văn minh
nông nghiệp sang nền văn minh công nghiệp.
+ Áp dụng những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại vào các ngành kinh
tế.
+ Nâng cao chất lượng nguồn nhân lựckhi đất nước thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
*Xây dựng cơ cấu kinh tế một cách hợp lý, hiện đại và đạt hiệu quả cao
+ Cơ cấu kinh tế chính là tổng thể hữu cơ giữa các thành phần kinh tế. Có hai
loại cơ cấu kinh tế là cơ cấu vùng kinh tế và cơ cấu thành phần kinh tế. Trong
khi đó cơ cấu của ngành kinh tế sẽ đóng vai trò trung tâm, quan trọng và cốt lõi
nhất.
+ Tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế có nghĩa là chuyển dịch cơ
cấu, cấu trúc của nền kinh tế kém hiệu quả, bị tụt hậu theo hướng nền kinh tế
hiện đại và hiệu quả hơn.
+ Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
liền với phát triển tri thức.
*Củng cố và làm tăng cường các địa vị lãnh đạo trong quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa.
+ Hướng tới việc xác lập địa vị thống trị trong các mối quan hệ sản xuất xã hội
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Một cơ cấu kinh tế phù hợp với điều kiện hiện nay là tỷ lệ công nghiệp, dịch vụ tăng lên,
nông nghiệp giảm xuống trong GDP; tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm xuống, lao
động công nghiệp dịch vụ tăng lên; Lao động chân tay giảm, lao động trí óc tăng lên.
Thứ ba là củng cố và tăng cường địa vị chủ đạo của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
và tiến tới xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất, xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Quan hệ này sẽ quyết định tính chất xã hội chủ nghĩa của lực
lượng sản xuất, của công nghệ hóa- hiện đại hóa.
=> Cần nhận thức đúng đắn về tính tất yếu khách quan và tác dụng to lớn của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và lựa chọn ngành, sản phẩm có khả năng cạnh
tranh cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Tiếp thu và
ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại vào sản xuất. Học tập,
nâng cao trình độ học vấn, kinh nghiệm và nghiệp vụ, đáp ứng nguồn lao động
có kĩ thuật cho nền kinh tế, cho doanh nghiệp.
+ Công nghiệp hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá
trình phát triển vì nó đưa cả nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa - xã hội
của đất nước lên trình độ mới. Đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
công nghiệp hóa có vai trò tạo điều kiện, tiền đề vật chất - kỹ thuật cho chế độ
xã hội chủ nghĩa. Đối với Việt Nam, khi chính thức bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Đảng chủ trương tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa,
và từ cuối thế kỷ XX đến nay, quá trình này được xác định đầy đủ là công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đó là một quá trình kinh tế, kỹ thuật - công nghệ và kinh tế -
xã hội toàn diện, sâu rộng nhằm chuyển đổi nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ
trình độ nông nghiệp lạc hậu lên trình độ công nghiệp với các trình độ công
nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại, văn minh.
d) Trách nhiệm của công dân đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước
- Nhận thức đúng đắn về tính tất yếu khách quan và tác dụng to lớn của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Lựa chọn ngành, mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao, phù hợp với nhu cầu
của thị trường.
- Ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại vào sản xuất.
- Học tập, nâng cao trình độ văn hóa, khoa học - công nghệ hiện đại.

2. Tại sao ở nước ta công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa?
Nước ta thực hiện công nghiệp hóa muộn so với các nước khác.
Giải thích: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động kinh tế và quản lí kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công
nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao
động xã hội cao.
Công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa vì công nghiệp hóa biến đổi cơ
bản lao động thủ công thành lao động sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại, còn
quá trình ứng dụng và trang bị những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến
hiện đại vào quá trình sản xuất. Nếu dừng lại ở biến đổi phương tiện lao dộng
thì công nghiệp hóa không có giá trị mà cần phải vận dụng sự biến đổi vào các
ngành sản xuất, lưu thông, dịch vụ, quản lý thì sự công nghiệp hóa đó mới thật
sự đúng nghĩa và đem lại lợi ích cho đất nước. Việc áp dụng công nghiệp hóa
vào các mặt của đất nước ta gọi đó là hiện đại hóa, do đó công nghiệp hóa phải
gắn liền với hiện đại hóa.
Ở nước ta, công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa bởi vì:
- Là quá trình biến một nước nông nghiệp lúa nước thành nước công nghiệp;
trang bị kĩ thuật - công nghệ hiện đại, có khí hóa lên tự động hóa.
- Do yêu cầu phải rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế so với các nước trong
khi vực và trên thế giới. Nước ta bước vào công nghiệp hóa với điểm xuất phát
thấp. Ở nước ta công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa vì nước ta thực
hiện công nghiệp hóa muộn so với các nước khác. Vì vậy muốn rút ngắn khoảng
cách lạc hậu so với các nước phát triển thì công nghiệp hóa phải gắn liền với
hiện đại hóa. Sau hơn 30 năm đổi mới (1986 đến nay), cơ sở vật chất - kĩ thuật
bước đầu được tăng cường.
- Xu hướng toàn cầu hóa mở ra cơ hội cho nước ta thực hiện mô hình công
nghiệp hóa rút ngắn thời gian. Vì là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) nên cần kết hợp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm tạo chất lượng tăng
trưởng, chất lượng cạnh tranh và chất lượng hội nhập kinh tế quốc tế.
Do đó đáp án đúng cho câu hỏi ở nước ta công nghiệp hóa phải gắn liền với
hiện đại hóa vì sao là đáp án D: ở nước ta công nghiệp hóa phải gắn liền với
hiện đại hóa vì nước ta thực hiện công nghiệp hóa muộn so với các nước khác.
Câu 9 nội dung CNH,HĐH ở VN hiện nay là gì
Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay
Đối với Việt Nam, từ cuối thế kỷ XX đến nay, quá trình công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được xác định đầy đủ là công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là một quá trình kinh tế, kỹ thuật -
công nghệ và kinh tế - xã hội toàn diện, sâu rộng nhằm chuyển
đổi nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ trình độ nông nghiệp lạc
hậu lên trình độ công nghiệp với các trình độ công nghệ ngày
càng tiên tiến, hiện đại, văn minh.
Dưới đây là một số nội dung cơ bản của công nghiệp hóa tại Việt
Nam:
3.1 Công nghiệp hóa trong sự phát triển của lực lượng sản
xuất
Công nghiệp hóa trong sự phát triển của lực lượng sản xuất
được biểu hiện ở chỗ cơ khí hóa nền sản xuất xã hội bằng cách
chuyển nền kinh tế từ chỗ dựa trên kĩ thuật thủ công sang dựa
trên kĩ thuật cơ khí, chuyển nền văn minh nông nghiệp sang nền
văn minh công nghiệp.
Cùng với đó, tiến hành áp dụng những thành tựu khoa học và
công nghệ hiện đại vào các ngành của nền kinh tế quốc dân.
Thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại gắn với “hiện đại
hóa”, gắn với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, gắn
với bước chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh hậu
công nghiệp.
Ngoài ra, tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện bằng
cách gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri
thức.
3.2 Xây dựng cơ cấu kinh tế một cách hợp lý, hiện đại
Cơ cấu kinh tế được hiểu là tổng thể hữu cơ giữa cơ cấu kinh tế,
vùng kinh tế và cơ cấu thành phần kinh tế, trong đó, cơ cấu
ngành kinh tế là quan trọng nhất. Nội dung này được thực hiện
thông qua quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Theo đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự chuyển đổi
từ cơ cấu kinh tế lạc hậu, kém hiệu quả và bất hợp lí sang một cơ
cấu kinh tế hợp kí, hiện đại, hiệu quả. Mục tiêu của sự chuyển
dịch này là đi từ cơ cấu kinh tế nông nghiệp lên cơ cấu kinh tế
nông, công nghiệp và phát triển lên thành cơ cấu kinh tế công,
nông nghiệp và dịch vụ hiện đại.
Đi cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự chuyển dịch cơ cấu
lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển kinh
tế tri thức là tiền đề chi phối xu hướng dịch chuyển cơ cấu lao
động trong từng thời kì ở nước ta.
Ngoài các nội dung nêu trên, nội dung quá trình công nghiệp hóa
tại Việt Nam còn bao gồm:
- Củng cố, tăng cường vai trò lãnh đạo trong quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa;
- Xây dựng cơ cấu kinh tế một cách hợp lý, hiện đại
Nội dung của công nghiệp hóa hiện đại hóa là:
1, Trong sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất
Thực hiện cơ khí hóa nền sản xuất xã hội nhờ chuyển nền kinh tế từ
chỗ dựa trên kỹ
thuật thủ công sang nền kinh tế dựa vào kỹ thuật cơ khí thủ công. Đồng
thời chuyển
nền văn minh nông nghiệp sang nền văn minh công nghiệp.
Nếu áp dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ vào những
ngành trong nền
kinh tế quốc dân thì những thành tựu này được kết nối, gắn liền với
quá trình hiện đại
hóa và cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
Nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực khi đất nước thực hiện công
nghiệp hóa,
hiện
đại hóa đất nước.
2, Xây dựng cơ cấu kinh tế một cách hợp lý, hiện đại và đạt hiệu quả
cao
Cơ cấu kinh tế chính là tổng thể hữu cơ giữa các thành phần kinh tế. Có
hai loại cơ
cấu kinh tế là cơ cấu vùng kinh tế và cơ cấu thành phần kinh tế. Trong
khi đó cơ cấu
của ngành kinh tế sẽ đóng vai trò trung tâm, quan trọng và cốt lõi nhất.
Tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế có nghĩa là chuyển
dịch cơ cấu, cấu
trúc của nền kinh tế kém hiệu quả, bị tụt hậu theo hướng nền kinh tế
hiện đại và hiệu
quả hơn. Xu hướng của sự chuyển dịch, thay đổi này là hướng từ một
nền cơ cấu kinh
tế nông nghiệp san g cơ cấu kinh tế nông nghiệp, công nghiệp và sau đó
phát triển
thành cơ cấu kinh tế công, nông nghiệp và dịch vụ.
Cơ cấu lao động cũng sẽ được chuyển dịch theo hướng gắn với phát
triển kinh tế tri
thức. Đây là một trong những tiền đề làm chi phối theo xu hướng
chuyển dịch cơ cấu
lao động từng thời kỳ ở nước ta.
3, Củng cố và làm tăng cường các địa vị lãnh đạo trong quan hệ sản
xuất xã hội
chủ nghĩa.
Đồng thời, hướng tới việc xác lập địa vị thống trị trong các mối quan hệ
sản xuất xã
hội trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Từ đó nên chúng ta cần nhận thức đúng đắn về tính tất yếu khách quan
và tác dụng to
lớn của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. và lựa chọn ngành, sản phẩm có
khả năng cạnh
tranh cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Tiếp
thu và ứng
dụng các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại vào sản xuất. Học
tập, nâng cao
trình độ học vấn, kinh nghiệm và nghiệp vụ, đáp ứng nguồn lao động
có kĩ thuật cho
nền kinh tế, cho doanh nghiệp.và đạt hiệu quả cao.
Công nghiệp hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
của quá trình phát
triển vì nó đưa cả nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa – xã hội
của đất nước lên
trình độ mới. Đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, công
nghiệp hóa có vai
trò tạo điều kiện, tiền đề vật chất – kỹ thuật cho chế độ xã hội chủ
nghĩa. Ở mỗi thời
kỳ lịch sử, căn cứ vào tình hình kinh tế – xã hội, công nghiệp hóa có nội
dung và bước
đi cụ thể, phù hợp. Đối với Việt Nam, khi chính thức bước vào thời kỳ
quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng chủ trương tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa, và từ cuối
thế kỷ XX đến nay, quá trình này được xác định đầy đủ là công nghiệp
hóa, hiện đại
hóa. Đó là một quá trình kinh tế, kỹ thuật – công nghệ và kinh tế – xã
hội toàn diện,
sâu rộng nhằm chuyển đổi nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ trình độ
nông nghiệp
lạc hậu lên trình độ công nghiệp với các trình độ công nghệ ngày càng
tiên tiến, hiện
đại, văn minh.
g cơ cấu kinh tế nông nghiệp, công nghiệp và sau đó phát triển
thành cơ cấu kinh tế công, nông nghiệp và dịch vụ.
Cơ cấu lao động cũng sẽ được chuyển dịch theo hướng gắn với phát
triển kinh tế tri
thức. Đây là một trong những tiền đề làm chi phối theo xu hướng
chuyển dịch cơ cấu
lao động từng thời kỳ ở nước ta.
3, Củng cố và làm tăng cường các địa vị lãnh đạo trong quan hệ sản
xuất xã hội
chủ nghĩa.
Đồng thời, hướng tới việc xác lập địa vị thống trị trong các mối quan hệ
sản xuất xã
hội trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Từ đó nên chúng ta cần nhận thức đúng đắn về tính tất yếu khách quan
và tác dụng to
lớn của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. và lựa chọn ngành, sản phẩm có
khả năng cạnh
tranh cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Tiếp
thu và ứng
dụng các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại vào sản xuất. Học
tập, nâng cao
trình độ học vấn, kinh nghiệm và nghiệp vụ, đáp ứng nguồn lao động
có kĩ thuật cho
nền kinh tế, cho doanh nghiệp.

và đạt hiệu quả cao.


Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay (Ảnh
minh họa)
4. Tác động của công nghiệp hóa thế nào?
Vừa rồi, LuatVietnam đã làm rõ công nghiệp hóa là gì và phân
loại công nghiệp hóa. Ngành công nghiệp là một bộ phận của nền
kinh tế thuộc lĩnh vực sản xuất hàng hóa vật chất, do đó sẽ có
những tác động mạnh mẽ đến các mặt của đời sống, kinh tế, gồm
cả những tác động tích cực và tác động tiêu cực.
4.1 Tác động đến đời sống gia đình
Trong giai đoạn hiện nay, quá trình công nghiệp hóa đang có
những tác động mạnh mẽ đến sự biến đổi của gia đình nói chung,
đời sống sinh hoạt nói riêng, nhất là ở các thành phố lớn.
Ở nước ta, cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa là sự
gia tăng của các tệ nạn xã hội. Cơ chế thị trường đang làm thay
đổi mạnh mẽ hệ giá trị và các chuẩn mực đạo đức truyền thống.
Trong bối cảnh đó, nhiều trường hợp quan hệ gia đình không còn
tồn tại đơn thuần là dạng quan hệ tình cảm mà còn gồm các vấn
đề phát sinh khác như: Mâu thuẫn trong phân chia tài sản trong
gia đình,…
Quá trình công nghiệp hóa đã và đang tạo ra những áp lực lớn
đối với mưu sinh và tồn tại của tầng lớp dân cư. Nhu cầu làm
giàu, nhu cầu phát triển công việc là chính đáng, song mặt trái
của quá trình này là làm thu hẹp quỹ thời gian cá nhân, cuốn con
người vào vòng xoáy của đồng tiền và lối sống thực dụng, làm
rạn nứt tình cảm gia đình.
Không thể phủ nhận rằng, sự hỗ trợ của những dịch vụ xã hội và
phát triển khoa học kĩ thuật đã đem lại cho con người cuộc sống
thoải mái và tiện nghi hơn. Tuy nhiên, sư ảnh hưởng và tác động
của nó trong việc suy giảm và tăng cường đời sống sinh hoạt gia
đình là không nhỏ. Quan hệ gia đình vốn được đặc trưng bởi
quan hệ tình cảm, trực tiếp nay đã và đang có xu hướng trở
thành quan hệ gián tiếp và lỏng lẻo hơn.
4.2 Tác động đến sự phát triển kinh tế, tri thức
Công nghiệp hóa là bước đi tất yếu của tất cả các nước trong
quá trình tiến lên hiện đại. Sự phát triển của khoa học và công
nghệ, đặc biệt là cách mạng thông tin, cách mạng tri thức, đã cho
ra đời các công nghệ cao như: Công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, công nghệ nanô, công nghệ của nền kinh tế tri thức. Hệ
thống công nghệ mới ấy đang làm biến đổi sâu sắc các quá trình
sản xuất, cách thức sản xuất, kinh doanh và mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Việt Nam đã nắm bắt và vận dụng công nghệ mới, tri thức mới
của thế giới cho sự phát triển của đất nước mình. Trí tuệ sáng
tạo, sự năng động của các chủ thể kinh tế, nhất là ở khu vực kinh
tế tư nhân, ngày càng thể hiện tiềm năng to lớn.
Hiện nay đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế phát triển dựa vào tri
thức ở nước ta. Trong đó, yếu tố cơ bản đưa đến thành công của
các mô hình này là: Đã biết nắm bắt và sử dụng tri thức mới nhất
trong hoạch định chiến lược kinh doanh, lựa chọn công nghệ, tạo
sản phẩm mới, cách tổ chức sản xuất kinh doanh mới có hiệu
quả...
Hiện, mô hình phát triển của Việt Nam là tiến hành đồng thời và
lồng ghép nhau hai quá trình: Chuyển từ kinh tế nông nghiệp
sang kinh tế công nghiệp và từ kinh tế công nghiệp lên kinh tế tri
thức.
4.3 Tác động đến môi trường
Môi trường và bảo vệ môi trường là vấn đề được đặt ra hàng đầu khi định hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bên cạnh những thành tích đạt được khi sử dụng
công nghệ để xử lý sự cố môi trường, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế đã, đang trở
thành bài toán khó. Vấn đề đặt ra là vậy làm sao để vừa phát triển công nghiệp hóa,
vừa bảo vệ được môi trường?
Thực tế cho thấy, 80 thành phần khác nhau tìm thấy từ quá trình phát thải công
nghiệp như: Amiang, dioxin, chì,… và các ngành công nghiệp đều nằm trong số
những nguồn gây ô nhiễm không khí chủ yếu.
Ô nhiễm nguồn nước cũng là trở ngại lớn đối với môi trường gây ra bởi các nhà
máy sản xuất tác động đến nguồn nước tự nhiên. Chất độc từ nước thải tồn tại ở
dạng rắn – lỏng hoặc khí là trầm trọng thêm các nguồn nước cấp, nước mặt và
nước ngầm. Bên cạnh đó, nước thải rỉ rác từ bãi chôn lấp dẫn đến ô nhiễm nghiêm
trọng hơn các nguồn tiếp nhận.
Ô nhiễm đất gắn liền với quá trình công nghiệp hóa - đô thị hóa. Các kim loại nặng,
hóa chất độc hại ngấm vào đất sẽ tác động lớn đến hệ sinh thái và đa dạng sinh
học.

You might also like