You are on page 1of 11

Tên: Nguyễn Việt Hiếu

Mã sinh viên: 11219058


Lớp: EBBA 13.3

Câu 1:
Những đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường

- Về chủ thể kinh tế: Các chủ thể kinh tế được tự do sản xuất kinh doanh theo luật
pháp và được bình đẳng không phân biệt đối xử. Các chủ thể kinh tế đều có cơ
hội để tiếp cận các nguồn lực phát triển có hiệu quả.

- Về thị trường:
Thực hiện các giải pháp để tạo lập và phát triển các yếu tố thị trường cơ bản như
thị trường hàng hóa và dịch vụ; thị trường vốn, tiền tệ; thị trường khoa học, công
nghệ; thị trường lao động, thị trường bất động sản và lành mạnh hóa các yếu tố thị
trường đó nhằm tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định, bền
vững và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Về cơ chế vận hành: Tôn trọng tính khách quan của các quy luật kinh tế thị
trường; tính năng động của cơ chế thị trường.

- Về vai trò của Nhà nước: Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường trên cơ sở
vận dụng các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường vào điều kiện Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế để định hướng phát triển nền kinh tế, tạo
lập môi trường cho nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững và hạn chế mặt trái
của cơ chế thị trường.

Những đặc trưng riêng của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam

- Về hệ thống mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rỏ: phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện: “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Để thực hiện được mục tiêu đó trong phát triển nền
kinh tế thị trường, phải tạo điều kiện để giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất và
không ngừng phát triển lực lượng sản xuất; phát triển lực lượng sản xuất hiện đại
gắn với xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu,
quản lý và phân phối; phát triển kinh tế thị trường để từng bước xây dựng hạ tầng
kinh tế cho chủ nghĩa xã hội; cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.

Mục tiêu kinh tế - xã hội - văn hóa mà nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta phải đạt là:

Làm cho dân giàu: Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP đầu
người tăng nhanh trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu, nghèo trong xã
hội ngày càng được thu hẹp.

Làm cho nước mạnh: Thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị trường
cho ngân sách quốc gia; ở sự gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở sự sử dụng tiết
kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên quốc gia; ở sự bảo vệ môi trường sinh
thái, bảo vệ các bí mật quốc gia về tiềm lực kinh tế, khoa học, công nghệ và an
ninh, quốc phòng.

Làm cho xã hội công bằng, văn minh: Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi ích
ngay trong nội bộ nền kinh tế thị trường, ở đó việc góp phần to lớn vào giải quyết
các vấn đề xã hội, ở việc cung ứng các hàng hóa và dịch vụ có giá trị không chỉ
về kinh tế mà còn có giá trị cao về văn hóa, xã hội.

-Về mục tiêu chính trị: Làm cho xã hội dân chủ, biểu hiện ở chỗ dân chủ hóa
nền kinh tế, mọi người, mọi thành phần kinh tế có quyền tham gia vào hoạt động
kinh tế, vào sản xuất kinh doanh, có quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của mình;
quyền của người sản xuất và người tiêu dùng được bảo vệ trên cơ sở pháp luật
của nhà nước.

- Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế: Nền kinh tế có nhiều thành
phần, với nhiều hình thức sở hữu. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với nhau trên cơ sở pháp luật
của nhà nước, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân; chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, từng bước được xác lập và
sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội về cơ bản được xây dựng xong.

- Về chế độ phân phối: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là
chủ yếu; đồng thời có các hình thức phân phối khác nữa (phân phối theo vốn, theo
tài năng cùng các nguồn lực khác đóng góp vào sản xuất kinh doanh), vừa khuyến
khích lao động, vừa bảo đảm phúc lợi xã hội cơ bản, bảo đảm sự phân phối công
bằng, hợp lý và hạn chế sự bất bình đẳng trong xã hội.

- Về vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, sự quản lý và điều tiết nền kinh tế của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vì vậy, sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường phải định hướng cho
nền kinh tế phát triển có hiệu quả trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc gia, lợi ích của
nhân dân lao động thông qua hệ thống pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời, có sử dụng cơ chế thị
trường (vận dụng các quy luật kinh tế thị trường để đưa ra những công cụ tác
động vào thị trường) kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt
tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.

Sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường nhằm
giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội,
cải thiện đời sống nhân dân. Nhà nước thực hiện chính sách xã hội, một mặt,
khuyến khích làm giàu hợp pháp, mặt khác phải thực hiện xóa đói, giảm nghèo.

- Về nguyên tắc giải quyết các mối quan hệ chủ yếu: Kết hợp ngay từ đầu
giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, bảo đảm giải phóng sức sản xuất;
xây dựng lực lượng sản xuất kết hợp với củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất
mới XHCN, nhằm phục vụ cho phát triển sản xuất và công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; giữa phát triển sản xuất với từng bước cải thiện và nâng cao đời
sống nhân dân; giải quyết tốt các vấn đề xã hội và công bằng xã hội, ngăn chặn
các tệ nạn xã hội; giải quyết tốt các nhiệm vụ chính trị, xã hội, văn hóa, môi
trường và an ninh, quốc phòng.

- Về tính cộng đồng và tính dân tộc: Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta mang tính cộng đồng cao theo truyền thống của xã hội Việt
Nam, phát triển kinh tế thị trường có sự tham gia của cộng đồng và vì lợi ích của
cộng đồng, hướng tới xây dựng một cộng đồng xã hội Việt Nam giàu có, đầy đủ
về vật chất, phong phú về tinh thần, dân chủ, công bằng, văn minh, đảm bảo cuộc
sống ấm no và hạnh phúc cho nhân dân.

- Về quan hệ quốc tế:


Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta dựa vào sự phát huy tối đa
nguồn lực trong nước và triệt để tranh thủ nguồn lực nước ngoài theo phương
châm “Kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại” và sử dụng các
nguồn lực đó một cách hợp lý, đạt hiệu quả cao, để phát triển nền kinh tế đất nước
với tốc độ nhanh, hiện đại và bền vững.
Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa mang
tính phổ biến (đặc trưng chung) của mọi nền kinh tế thị trường; vừa có đặc trưng
riêng của tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa mang
tính phổ biến (đặc trưng chung) của mọi nền kinh tế thị trường; vừa có đặc trưng
riêng của tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai nhóm nhân tố này cùng tồn tại,
kết hợp và bổ sung cho nhau. Trong đó, nhóm đặc trưng chung đóng vai trò là
động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nhóm đặc trưng riêng đóng vai trò
hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ưu thế của nền kinh tế thị trường
Một là, nền kinh tế thị trường luôn tạo động lực cho sự sáng tạo các chủ thể
kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể luôn có cơ hội để tìm động lực
cho sự sáng tạo của mình. Thông qua vai trò của thị trường mà nền kinh tế thị
trường trở thành phương thức hữu hiệu kích thích sự sáng tạo trong hoạt động của
các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho họ để tăng năng suất lao động,
tăng hiệu quả sản xuất, làm cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả.
Hai là, nền kinh tế thị trường luôn phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ
thể cũng như lợi thế quốc gia. Trong nền kinh tế thị trường, mọi tiềm năng, lợi thế
đều có thể được phát huy và trở thành lợi ích đóng góp cho xã hội. Thông qua vai
trò gắn kết của thị trường mà nền kinh tế thị trường trở thành phương thức hiệu
quả hơn so với nền kinh tế tự cấp tự túc hay nền kinh tế kế hoạch hóa để phát huy
tiềm năng, lợi thế của từng thành viên, từng vùng miền trong quốc gia trong quan
hệ kinh tế với phần còn lại của thế giới.
Ba là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa
nhu cầu của con người, từ đó thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội. Trong nền kinh tế
thị trường, các thành viên của xã hội luôn có thể tìm thấy cơ hội tối đa để thỏa
mãn nhu cầu của mình. Nền kinh tế thị trường với sự tác động của các quy luật thị
trường luôn tạo ra sự phù hợp giữa khối lượng, cơ cấu sản xuất với khối lượng, cơ
cấu nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Nhờ đó, nhu cầu tiêu dùng về các loại hàng
hóa, dịch vụ khác nhau được đáp ứng kịp thời; người tiêu dùng được thỏa mãn
nhu cầu.

Khuyết tật của nền kinh tế thị trường


Một là, trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những rủi ro khủng
hoảng. Sự vận động của cơ chế thị trường không phải khi nào cũng tạo được
những cân đối, do đó, luôn tiềm ẩn những nguy cơ khủng hoảng. Khủng hoảng có
thể diễn ra cục bộ cũng như trên phạm vi tổng thể. Khủng hoảng có thể xảy ra với
mọi loại hình thị trường. Sự khó khăn đối với các nền kinh tế thị trường thể hiện
ở chỗ, các quốc gia rất khó dự báo chính xác thời điểm xảy ra khủng hoảng.
Hai là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt
tài nguyên không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
Do các chủ thể sản xuất trong nền kinh tế thị trường luôn đặt mục tiêu lợi nhuận
tối đa nên luôn tạo ra ảnh hưởng tiềm ẩn đối với nguồn lực tài nguyên, suy thoái
môi trường. Cũng vì động cơ lợi nhuận, các chủ thể sản xuất kinh doanh có thể vi
phạm cả nguyên tắc đạo đức để chạy theo mục tiêu làm giàu thậm chí phi pháp,
góp phần gây ra sự xói mòn đạo đức kinh doanh, thậm chí cả đạo đức xã hội.
Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa
sâu sắc trong xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng phân hóa xã hội về
thu nhập, về cơ hội là tất yếu. Bản thân nền kinh tế thị trường không thể tự khắc
phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc. Các quy luật thị trường luôn phân bổ lợi
ích theo mức độ và loại hình hoạt động tham gia thị trường, cộng với tác động của
cạnh tranh mà dẫn đến sự phân hóa như một tất yếu.

Câu 2:
Nền kinh tế Việt Nam trước năm 1986
Lịch sử kinh tế Việt Nam giai đoạn 1976-1986 hay còn gọi là “Thời kỳ bao
cấp” là giai đoạn áp dụng mô hình kinh tế cũ ở miền Bắc cho cả nước sau khi thống
nhất và là giai đoạn của những tìm tòi nhằm thoát khỏi mô hình này. Thời bao cấp
là tên gọi để chỉ một giai đoạn mà hầu hết sinh hoạt kinh tế đều được nhà nước bao
cấp, diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa. Theo đó thì kinh tế tư nhân dần bị xóa
bỏ, nhường chỗ cho kinh tế do nhà nước chỉ huy. Trong nền kinh tế kế hoạch, hàng
hóa được phân phối theo chế độ tem phiếu do nhà nước nắm toàn quyền điều hành,
hạn chế đến tối đa việc mua bán trên thị trường hoặc vận chuyển tự do hàng hoá
từ địa phương này sang địa phương khác.
Bản thân cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung còn mang rất nhiều hạn chế,
khuyết tật kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta và nó chỉ thực sự bộc lộ
những khuyết điểm sau năm 1975 khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây
dựng và phát triển kinh tế.
Đầu tiên, cơ chế này thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm sự phát triển của tiến bộ
khoa học kỹ thuật, triệt tiêu động lực kinh tế cũng như không kích thích tính năng
động sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Nhà nước chỉ huy nền kinh tế làm cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
trở nên quan liêu, lộng quyền. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát
triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ
thì cơ chế kinh tế kế hoạch hóa càng bộc lộ những hạn chế của nó, làm cho nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa của nước ta lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng nghiêm
trọng.
Nền kinh tế Việt Nam từ năm 1986 đến nay
Nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành, nhà nước bắt đầu có
một số thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế. Trong thời kỳ này, nước ta đã
thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao
cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với chủ trương này, đất nước ta đã đạt được một số thành tựu nhất định.
Một trong những thành tựu kinh tế to lớn của thời kỳ đổi mới là phát triển sản xuất
nông nghiệp, mà nội dung cơ bản là thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự
chủ ở nông thôn, đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông nghiệp và
nông thôn nước ta. Ngành nông nghiệp đã giải quyết vững chắc vấn đề lương thực,
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở
thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới.
Sản xuất công nghiệp đi dần vào thế phát triển ổn định, những sản phẩm
công nghiệp quan trọng phục vụ sản xuất và tiêu dùng của dân cư đều tăng cả về
số lượng và chất lượng. Do sản xuất, kinh doanh hồi phục và có bước phát triển
nên siêu lạm phát bước đầu đã được kiềm chế và đẩy lùi.
Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác được củng cố
và tăng cường. Sau mười năm nỗ lực phấn đấu, đến giữa năm 2000, cả nước
hoàn thành chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.
Chính sách cải cách tiền lương trong thời kỳ này đã thúc đẩy phát triển sản xuất
làm cho đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển toàn diện và sâu rộng, đưa nước ta
hội nhập ngày càng đầy đủ với kinh tế khu vực và thế giới. Đặc biệt, hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Gia nhập ASEAN, APEC,
ASEM và WTO đã làm cho vị thế của Việt Nam thay đổi đáng kể trên thế giới.
Với việc mở rộng thị trường và quan hệ hợp tác như vậy, ta đã ngày càng tham gia
sâu rộng vào các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế, ngày càng có tiếng nói quan
trọng với ý thức trách nhiệm cao trong các diễn đàn khu vực và thế giới góp phần
mở rộng thị trường, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, tạo điều
kiện cho mô hình kinh tế hướng về xuất khẩu của ta, mở rộng thị trường hàng nhập
khẩu, góp phần phục vụ chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời từng
bước khẳng định được hình ảnh và vị thế của một quốc gia thành công trong quá
trình đổi mới. Hệ thống luật pháp trong nước cũng không ngừng được sửa đổi theo
hướng phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thông
thoáng, minh bạch hơn, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa
doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, nền kinh tế thị trường cũng có
những hạn chế riêng của nó. Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho
phân công lao động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Một số
cơ sở kinh tế đã được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, tuy nhiên trong
nhiều ngành kinh tế vẫn sử dụng máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu.
Lao động thủ công vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do
đó, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất của nước ta còn rất thấp so với khu
vực và thế giới. Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ
thống thông tin liên lạc... còn lạc hậu, kém phát triển nên chưa kết nối được tất cả
các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hoá thống nhất.
Doanh nghiệp chạy theo mục tiêu lợi nhuận, hạn chế chi phí sản xuất đến
mức tối đa nên xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực trên thị trường hàng hóa, dịch
vụ như hàng giả, hàng nhái và thực phẩm bẩn. Mục đích hoạt động của các doanh
nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ còn có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội,
gây ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế - xã hội không
được bảo đảm.

Phân phối thu nhập không công bằng, vì vậy sự tác động của cơ chế thị
trường sẽ dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo, sự phân cực về của cải, tác động tiêu
cực đến đạo đức và tình người. Một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần tuý
điều tiết khó tránh khỏi khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp.
Nhằm đứng vững trên con đường đổi mới và phát triển, nhà nước ta đã có
những chính sách nhất định nhằm khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị
trường ở nước ta. Nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều
tiết các hoạt động kinh tế để bảo đảm cho nền kinh tế thị trường tăng trưởng ổn
định. Các hoạt động kinh tế luôn diễn ra trong môi trường nhất định. Môi trường
vĩ mô thuận lợi không thể tự hình thành, mà phải được nhà nước thành lập. Trước
hết là bắt đầu bằng việc giữ vững ổn định chính trị. Nhà nước bảo đảm sự ổn định
chính trị, kinh tế, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo điều kiện cần thiết
cho hoạt động kinh tế, vì ổn định chính trị, xã hội là điều kiện cần thiết để phát
triển kinh tế. Nhà nước còn phải tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế
bằng cách đặt ra các điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và hoạt động thị
trường, đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn
khổ luật pháp mà nhà nước thiết lập có tác động sâu sắc tới các hành vi của các
chủ thể kinh tế, điều chỉnh hành vi kinh tế của họ. Trong những năm vừa qua, hệ
thống pháp luật của nước ta đã và đang thay đổi tích cực. Môi trường kinh tế vĩ
mô đòi hỏi nhà nước phải đưa ra những chính sách phù hợp với nhu cầu của nền
kinh tế trong từng giai đoạn. Thực tế cho thấy, các chính sách kinh tế của Việt Nam
đang từng bước đáp ứng được yêu cầu này.
Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các doanh nghiệp
vì lợi ích tối đa hóa lợi nhuận hẹp hòi của mình mà lạm dụng tài nguyên của xã
hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người. Nhà nước khuyến khích, tạo điều
kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân tham gia
hoạt động bảo vệ môi trường, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, vận động, kết hợp
áp dụng các biện pháp hành chính, kinh tế và các biện pháp khác để xây dựng ý
thức tự giác, kỷ cương trong hoạt động bảo vệ môi trường, ưu tiên giải quyết các
vấn đề môi trường bức xúc; tập trung xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng; phục hồi môi trường ở các khu vực bị ô nhiễm, suy thoái; chú trọng
bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư. Không những thế mà nhà nước còn đầu tư
bảo vệ môi trường, phát triển đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi
trường và bố trí khoản chi riêng cho sự nghiệp môi trường trong ngân sách nhà
nước hằng năm.
Về vấn đề hàng giả, hàng nhái và kém chất lượng cũng như thực phẩm bẩn,
nhà nước tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm những vi phạm
trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ thực phẩm để công tác bảo đảm chất lượng vệ
sinh an toàn thực phẩm từng bước được kiểm soát chặt chẽ và hiệu quả, tổ chức
tốt công tác truyền thông về an toàn thực phẩm cho người dân cũng như người sản
xuất kinh doanh các mặt hàng thực phẩm, xây dựng khuôn khổ luật pháp nhằm
tiến tới việc xã hội hóa trong công tác bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực
phẩm.
Nhà nước cần hạn chế, khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,
thực hiện công bằng xã hội. Nhà nước thực hiện phân phối thu nhập quốc dân một
cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân,
với tiến bộ và công bằng xã hội. Nhà nước cần thực hiện có hiệu quả các chính
sách xóa đói, giảm nghèo, khắc phục tư tưởng bao cấp, ỷ lại. Tiếp theo, nhà nước
cần có các chính sách khuyến khích người dân nghèo kinh doanh, làm giàu hợp
pháp.
Bên cạnh đó, các hoạt động bất hợp pháp như buôn lậu, lừa đảo, tham
nhũng… vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Để chống các hình thức thu nhập bất hợp
pháp trên, trước hết, phải có bộ máy nhà nước liêm chính, có hiệu lực. Trước pháp
luật, mọi người dân và cán bộ, công chức nhà nước phải thực sự bình đẳng. Thực
hiện minh bạch, công khai mọi cơ chế, chính sách và quy định của nhà nước. Nhờ
đó mà người dân, doanh nghiệp và cán bộ, công chức nhà nước hiểu rõ được quyền
lợi, trách nhiệm của mình, đồng thời, các cơ quan công quyền, cán bộ, công chức
nhà nước được giám sát, tránh được tình trạng lạm quyền, thiếu trách nhiệm, tham
nhũng.
THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai. Đó là
do các nguyên nhân
- Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực, một số
cơ sở kinh tế đã được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, trong nhiều ngành kinh tế,
máy 213/281 móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu. Theo UNDP, Việt Nam đang ở trình độ công
nghệ lạc hậu 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 2-3 thế hệ (có lĩnh vực 4-5 thế
hệ). Lao động thủ công vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó, năng
suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất của nước ta còn rất thấp so với khu vực và thế giới
(năng suất lao động của nước ta chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới).
- Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin
liên lạc... còn lạc hậu, kém phát triển (mật độ đường giao thông/km bằng 1% với mức
trung bình của thế giới; tốc độ truyền thông trung bình cả nước chậm hơn thế giới 30
lần). Hệ thống giao thông kém phát triển làm cho các địa phương, các vùng bị chia cắt,
tách biệt nhau, do đó làm cho nhiều tiềm năng của các địa phương không thể được khai
thác, các địa phương không thể chuyên môn hoá sản xuất để phát huy thế mạnh.
- Do cơ sở vật chất- kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao động kém
phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi nền
kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ. Nông nghiệp vẫn sử dụng khoảng 70% lực lượng lao
động, nhưng chỉ sản xuất khoảng 26% GDP, các ngành kinh tế công nghệ cao chiếm tỉ
trọng thấp.
- Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước, cũng như
thị trường nước ngoài còn rất yếu. Do cơ sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, nên
năng suất lao động thấp, do đó khối lượng hàng hoá nhỏ bé, chủng loại hàng hoá còn
nghèo nàn, chất lượng hàng hoá thấp, giá cả cao vì thế khả năng cạnh tranh còn yếu.
Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa
đồng bộ
Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng trong
nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hoá thống nhất.
Thị trường hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện
tượng tiêu cực (hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu vẫn làm rối loạn thị trường).
Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, một số trung tâm giới thiệu việc làm
và xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã nảy sinh hiện tượng khủng hoảng. Nét nổi
bật của thị trường này là sức cung về lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong
khi đó cung về sức lao động giản đơn lại vượt quá xa cầu, nhiều người có sức lao động
không tìm được việc làm.
Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc
trở, như nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn nhưng không
vay được vì vướng mắc thủ tục, trong khi đó nhiều ngân hàng thương mại huy động được
tiền gửi mà không thể cho vay để ứ đọng trong két dư nợ quá hạn trong nhiều ngân hàng
thương mại đã đến mức báo động. Thị trường chứng khoán ra đời nhưng cũng chưa có
nhiều 214/281 "hàng hoá" để mua - bán và mới có rất ít doanh nghiệp đủ điều kiện tham
gia thị trường này.
Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội
nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh
tế - kỹ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các nước khác.
Toàn cầu hàng hoá và khu vực hoá về kinh tế đang đặt ra chung cho các nước
cũng như nước ta nói riêng những thách thức hết sức gay gắt. Nhưng nó là xu thế tất yếu
khách quan, nên không đặt vấn đề tham gia hay không tham gia mà chỉ có thể đặt vấn
đề: tìm cách xử sự với xu hướng đó như thế nào? Phải chủ động hội nhập, chuẩn bị tốt
để chủ động tham gia vào khu vực hoá và toàn cầu hoá, tìm ra "cái mạnh tương đối" của
nước ta, thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá kinh tế đối ngoại, tận dụng ngoại lực để
phát huy nội lực, nhằm thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân,
định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Các giải pháp cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
- Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần
- Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ;
trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội.
- Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
- Giữ vững sự ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp
- Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế
của Nhà nước

You might also like