You are on page 1of 17

(LỜI MỞ ĐẦU)

I. ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

- Nêu lý do chọn đề tài:

Đây là đề tài cho thấy nền kinh tế thị trường cũng trải qua quá trình phát triển ở các
trình độ khác nhau từ sơ khai cho đến hiện đại, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao
đổi đều được thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị
trường.

- Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài:

Trong nền kinh tế thị trường, mọi quan hệ sản xuất và trao đổi, các hoạt động của
các chủ thể đều chịu sự tác động bởi các quy luật kinh tế khách quan của thị
trường; đồng thời chịu sự điều tiết, can thiệp của nhà nước qua việc thực hiện hệ
thống pháp luật và các chính sách kinh tế. Mô hình kinh tế thị trường có sự điều
tiết của nhà nước ở từng nước, từng giai đoạn có thể khác nhau tuỳ thuộc vào mức
độ can thiệp của chính phủ đối với thị trường, song tất cả các mô hình đều có điểm
chung là không thể thiếu vai trò của kinh tế nhà nước.

II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Sử dụng phương pháp phân tích. Phân tích nền kinh tế của thị trường làm rõ khái
niệm, sự hình thành, những đặc trưng phổ biến của nền kinh tế từ đó đưa ra những
ưu thế và khuyết tật. Phân tích một số quy luật kinh tế như quy luật cung – cầu,
quy luật lưu thông tiền tệ để cho thấy sự ảnh hưởng đối với nền kinh tế.

III NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1. Nền kinh tế thị trường


-khái niệm nền kinh tế thị trường:
*khái niệm
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành
theo cơ chế thị trường. Đó là nền kinh tế hàng hóa phát
triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều
được thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết
của các quy luật thị trường.
*sự hình thành nền kinh tế thị trường trong lịch sử
Sự hình thành kinh tế thị trường là khách quan trọng
lịch d sử: từ kinh tế tự nhiên, tự túc, kinh tế hàng hóa,
rồi từ kinh tế c hàng hóa phát triển thành kinh tế thị
trường. Kinh tế thị trường cũng trải qua quá trình phát
triển ở các trình độ khác nhau từ kinh tế thị trường sơ
khai đến kinh tế thị trường hiện đại như ngày nay. Kinh
tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại.
*đặc trưng phổ biến của nền kinh tế thị trường
-Kinh tế thị trường đã phát triển qua nhiều giai đoạn với
Các hãng sản nhiều mô hình khác nhau, các nền kinh
tế thị trường có những đặc trưng chung bao gồm:
+ Thứ nhất, có sự đa dạng của các chủ thể kinh tế,
nhiều hình thức sở hữu. Các chủ thể kinh tế bình đẳng
trước pháp luật.
+ Thứ hai, thị trường đóng vai trò quyết định trong
việc Nền kin phân bổ các nguồn lực xã hội thông qua
hoạt động của các thị trường bộ phận như thị trường
hàng hóa, thị trường dịch vụ, - Uu the thị trường sức lao
động, thị trường tài chính, thị trường bất Một là, động
sản, thị trường khoa học - công nghệ...
+Thứ ba, giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị
sáng tạo các trường; cạnh tranh vừa là môi trường, vừa
là động lực thúc đầy hoạt động sản xuất kinh doanh;
động lực trực tiếp của các chủ thể sản xuất kinh doanh
là lợi nhuận và lợi ích kinh tế - xã hội khác; nhà nước là
chủ thể thực hiện chức năng quản lý, chức năng kinh tế;
thực hiện khắc phục những khuyết tật của thị trường,
thúc đẩy những yếu tố tích cực, đảm bảo sự bình đẳng
xã hội và sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
+Thứ tư, là nền kinh tế mở, thị trường trong nước quan
hệ mật thiết với thị trường quốc tế.
-Các đặc trưng trên mang tính phổ biến của mọi nền
kinh 3 qua thị tế thị trường. Tuy nhiên, tùy theo điều
kiện lịch sử cụ thể, tùy trường. theo chế độ chính trị - xã
hội của mỗi quốc gia, ngoài những ong lịch đặc trưng
chung, mỗi nền kinh tế thị trường quốc gia có thể I kinh
tế có đặc trưng riêng, tạo nên tính đặc thù và các mô
hình kinh vị trường tế thị trường khác nhau.
*Ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế thị trường:
Nền kinh tế thị trường có nhiều ưu thế, tuy nhiên, cũng
có những khuyết tật. Những ưu thế và khuyết tật đó là:
- Ưu thế của nền kinh tế thị trường
+Một là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực cho
sự sáng tạo các chủ thể kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể luôn có cơ hội
để tìm ra động lực cho sự sáng tạo của mình. Thông
qua vai trò của thị trường mà nền kinh tế thị trường trở
thành phương thức hữu hiệu kích thích sự sáng tạo
trong hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động tự do của họ, qua đó, thúc đẩy
tăng năng suất lao động, tăng hiệu bộ nền quả sản xuất,
làm cho nền kinh tế hoạt động năng động, hiệu quả. Nền
kinh tế thị trường chấp nhận những ý tưởng sáng tạo
mới trong thực hiện sản xuất kinh doanh và quản lý.
Nền kinh tế thị trường tạo môi trường rộng mở cho các
mô hình kinh doanh mới theo sự phát triển của xã hội.
+Hai là, nền kinh tế thị trường luôn phát huy tốt nhất
tiềm năng của mọi chủ thể, các vùng, miền cũng như lợi
thế quốc gia.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi tiềm năng, lợi thế đều
có thể được phát huy, đều có thể trở thành lợi ích đóng
góp cho xã hội. Thông qua vai trò gắn kết của thị
trường mà nền kinh tế thị trường trở thành phương thức
hiệu quả hơn hẳn so với nền kinh tế tự cấp, tự túc hay
nền kinh tế kế hoạch hóa, bởi kinh tế thị trường phát
huy được tiềm năng, lợi thế của từng thành viên, từng
vùng, miền trong quốc gia, của từng quốc gia trong
quan hệ kinh tế với các nước còn lại của thể giới.
+Ba là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương
thức để thỏa mãn tối đa nhu cầu của con người, từ đó
thúc đẩy sự tiến bộ, văn minh của xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, các thành viên của xã hội
luôn có thể tìm thấy cơ hội tối đa để thỏa mãn nhu cầu
của mình. Với sự tác động của các quy luật thị trường
nền kinh tế thị trường luôn tạo ra sự phù hợp giữa khối
lượng, cơ cấu sản xuất với khối lượng, cơ cấu nhu cầu
tiêu dùng của xã hội. Nhờ đó, nhu cầu tiêu dùng các
loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau được đáp ứng kịp thời;
người tiêu dùng được thỏa mãn nhu cầu cũng như đáp
ứng đầy đủ mọi chủng loại hàng hóa, dịch vụ. Thông qua
đó, nền kinh tế thị trường trở thành phương thức để
thúc đẩy sự văn minh, tiến bộ của xã hội.
- Khuyết tật của nền kinh tế thị trường
Bên cạnh những ưu thế, kinh tế thị trường cũng có
những khuyết tật vốn có mà đa số trong số đó tự nó
không thể khắc phục, sửa chữa được. Những khuyết tật
chủ yếu của kinh tế thị trường bao gồm:
+ Một là, trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn
những rủi ro khủng hoảng.
Sự vận động của cơ chế thị trường không phải khi nào
cũng tạo ra được những cân đối, do đó, luôn tiềm ẩn
những nguy cơ khủng hoảng. Khủng hoảng có thể diễn
ra cục bộ hoặc trên phạm vi tổng thể. Khủng hoảng có
thể xảy ra đối với mọi loại hình thị trường, với mọi nền
kinh tế thị trường. Sự khó khăn đối với các nền kinh tế
thị trưởng thể hiện ở chỗ, các quốc gia rất khó dự báo
chính xác thời điểm xảy ra khủng hoảng. Nền kinh tế thị
trường không tự khắc phục được những rủi ro tiềm ẩn
này.
+Hai là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được
xu hướng cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo, suy
thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
Do phần lớn các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường luôn đặt mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận
tối đa nên luôn tạo ra ảnh hưởng tiềm ẩn đối với nguồn
lực tài nguyên, suy thoái môi trường. Cũng vì động cơ
lợi nhuận, các chủ thể sản xuất kinh doanh có thể vi
phạm cả nguyên tắc đạo đức để chạy theo mục tiêu làm
giàu, thậm chí phi pháp, góp phần gây ra sự xói mòn
đạo đức kinh doanh, thậm chí cả đạo đức xã hội. Đây là
những mặt trái mang tính khuyết tật của bản thân nền
kinh tế thị trường. Cũng vì mục tiêu lợi nhuận, các chủ
thể hoạt động sản xuất kinh doanh có thể không tham
gia vào các lĩnh vực thiết yếu cho nền kinh tế nhưng có
lợi nhuận kỳ vọng thấp, rủi ro cao, quy mô đầu tư lớn,
thời gian thu hồi vốn dài. Tự bản thân nền kinh tế thị
trường không thể khắc phục được các khuyết tật này.
+Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được
hiện tượng phân hóa sâu sắc trong xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng phân hóa xã
hội về thu nhập, về cơ hội là tất yếu. Bản thân nền kinh
tế thị trường không thể tự khắc phục được khía cạnh
phân hóa có xu hướng sâu sắc. Các quy luật thị trường
luôn phân bổ lợi ích theo mức độ và loại hình hoạt động
tham gia thị trường,cộng với tác động của cạnh tranh
mà dẫn đến sự phân hóa như một tất yếu. Đây là khuyết
tật của nền kinh tế thị trường cần phải có sự bổ sung và
điều tiết bởi vai trò của nhà nước.
Do những khuyết tật của kinh tế thị trường nên trong
thực tế không tồn tại một nền kinh tế thị trường thuần
túy, mà thường có sự can thiệp của nhà nước để sửa
chữa những thất bại của cơ chế thị trường. Khi đó, nền
kinh tế được gọi là kinh tế thị trường có sự điều tiết của
nhà nước hay nền kinh tế hỗn hợp.

2. Mộtsố quy luật kinh tế chủ yếu của nền kinh tế thị trường:
a) Quy luật giá trị: Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự hoạt
động của quy luật giá trị.
- Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị:
+ Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và lưu thông hàng hóa phải dựa trên
cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
+ Trong sản xuất: Hao phí lao động các biệt phải phù hợp với hao phí lao
động xã hội cần thiết. Để có thể bán được hàng hóa, hao phí lao động để sản
xuất ra hàng hóa của các chủ thể kinh doanh phải phù hợp với mức hao phí
lao động xã hội có thể chấp nhận được.
+ Trong trao đổi hàng hóa: Phải dựa trên nguyên tắc trao đổi ngang giá.
- Quy luật giá trị hoạt động và phát huy tác dụng thông qua sự vận động của
giá cả xung quanh giá trị dưới sự tác động của quan hệ cung – cầu. Giá cả thị
trường lên xuống xoay quanh giá trị hàng hòa và trở thành cơ chế tác động
của quy luật giá trị.
- Quy luật giá trị tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của con người. Người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân theo mệnh lệnh
của giá cả thị trường.
- Tác động của quy luật giá trị:
+ Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Trong sản xuất, thông qua biến động giá cả, người sản xuất sẽ biết được
hình cung – cầu và quyết định phương án sản xuất. Nếu giá cả hàng hóa lớn
hơn hoặc bằng giá trị thì việc sản xuất nên được tiếp tục, mở rộng. Tư liệu
sản xuất, sức lao động sẽ được tự phát dịch chuyển vào ngành có giá trị cao.
Trong lưu thông, quy luật giá trị điều tiết bằng hàng hóa từ nơi có giá cả
thấp đến nơi có giá cả cao, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn
cầu. Thông qua mệnh lệnh của giá cả thị trường, hàng hoá ở nơi có giá cả
thấp được thu hút, chảy đến nơi có giá cả cao hơn, góp phần làm cho cung -
cầu hàng hoá giữa các vùng được cân bằng, phân phối lại thu nhập giữa các
vùng, miền, điều chỉnh sức mua của thị trường.
+ Thứ hai, kích thích cải tiến ký thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng
suất lao động.
Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi theo giá trị xã hội. Người sản
xuất có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội, khi bán theo giá trị xã hội sẽ thu
được nhiều lợi nhuận hơn và ngược lại. Để đứng vững trong cạnh tranh phải
luôn tìm cách làm cho giá trị cá biệt hàng hóa của mình nhỏ hơn hoặc bằng
giá trị xã hội dẫn đến phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới, đổi mới
phương pháp quản lý, thực hiện tiết kiệm... khiến lực lượng sản xuất ngày
càng phát triển, năng suất lao động xã hội tăng lên, chi phí sản xuất giảm
xuống.
Trong lưu thông, để bán được nhiều hàng hóa, người sản xuất phải
không ngừng tăng chất lượng phục vụ, quảng cáo, tổ chức tốt khâu
bán hàng... làm cho quá trình lưu thông được hiệu quả cao hơn, nhanh chóng,
thuận tiện với chi phí thấp nhất.
+ Thứ ba, phân hoá những người sản xuất thành những người giàu, người
nghèo một cách tự nhiên.
Trong quá trình cạnh tranh, những người sản xuất nhạy bén với thị
trường, trình độ năng lực giỏi, sản xuất với hao phí cá biệt thấp hơn mức hao
phí chung của xã hội sẽ trở nên giàu có và ngược lại. Trong nền kinh tế thị
trường thuần túy, chạy theo lợi ích cá nhân, đầu cơ, gian lận, khủng hoảng
kinh tế... là những yếu tố có thể làm tăng thêm tác động phân hóa sản xuất
cùng những tiêu cực về kinh tế - xã hội khác.
→ Tóm lại, quy luật giá trị vừa có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích
thích sự tiến bộ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; vừa có tác
dụng lựa chọn, đánh giá người sản xuất, bảo đảm sự bình đẳng đối với người
sản xuất; vừa có cả những tác động tích cực lẫn tiêu cực. Các tác động đó
diễn ra một cách khách quan trên thị trường.
b) Quy luật cung – cầu:
- Khái niệm: Là quy luật kinh tế điều tiết quan hệ giữa cung (bên bán) và cầu
(bên mua) hàng hóa trên thị trường. Quy luật này đòi hỏi cung – cầu phải có
sự thống nhất.
- Tác động:
+ Cung – cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên tác động lẫn
nhau và ảnh hưởng trục tiếp đến giá cả.
+ Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thấp hơn giá trị và ngược lại; nếu cung
bằng cầu thì giá cả bằng với giá trị.
→ Tác dụng của quy luật cung – cầu: điều tiết sản xuất và lưu thông hàng
hóa; làm thay đổi cơ cấu và quy mô thị trường, ảnh hưởng tới giá cả hàng
hóa. Nhà nước có thể vận dụng quy luật cung – cầu thông qua các chính sách
và biện pháp kinh tế như giá cả, lợi nhuận.
c) Quy luật lưu thông tiền tệ:
- Khái niệm: Quy luật lưu thông tiền tệ yêu cầu việc lưu thông tiền tệ phải
căn cứ trên yêu cầu của lưu thông hàng hóa và dịch vụ - Số lượng tiền cần
thiết cho lưu thông hàng hóa ở mỗi thời ký nhất định được xác định bằng
công thức:

M = P*Q/V

M: số lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian nhất định
P: mức giá cả
Q: số lượng hàng hóa đem lưu thông
V: số vòng lưu thông của đồng tiền

- Khi lưu thông hàng hóa phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt trở
nên phổ
biến thì số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định:

M = [P*Q – (G1 + G2) + G3]/V

P . Q: tổng giá cả hàng hóa


G1: tổng giá trị hàng hóa bán chịu
G2: tổng giá trị hàng hóa khấu trừ cho nhau
G3: tổng giá cả hàng hóa đến kỳ thanh toán
V: số vòng quay trung bình của tiền tệ

- Khi tiền giấy ra đời, nếu được phát hành quá nhiều sẽ làm cho đồng tiền bị
mất giá trị, giá cả hàng hóa tăng đến lạm phát. Vì vậy nhà nước không thể in
và phát hành tiền giấy một cách tùy tiện mà phải tuân theo nguyên lý của quy
luật lưu thông tiền tệ
Quy luật cạnh tranh
1. Khái niệm cạnh tranh
Bất kỳ một doanh nghiệp nào tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh
một loại hàng hoá nào đó trên thị trường đều phải chấp nhận cạnh tranh.
Đây là một điều tất yếu và là đặc trưng cơ bản nhất của cơ chế thị
trường, Cạnh tranh phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất
hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Khái niệm cạnh tranh được nhiều tác giả
trình bày dưới nhiều góc độ khác nhau trong các giai đoạn phát triển
khác nhau của nền kinh tế xã hội.
Theo Marx “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các
nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và
tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Còn theo cuốn từ
điển kinh doanh (xuất bản 1992 ở Anh ), cạnh tranh trong cơ chế thị
trường được định nghĩa là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh
doanh nhằm tranh giành tài nguyên sản xuất cùng một loại về phía
mình”.
Như vậy, có thể hiểu cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những
chủ thể kinh tế nhằm có được những điều kiện thuận lợi trong sản xuất
cũng như tiêu thụ hàng hóa để từ đó thu được lợi ích tối đa cho mình.
Ở Việt Nam, cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế, cạnh tranh được thừa
nhận là một quy luật kinh tế khách quan và được coi như là một nguyên
tắc cơ bản trong tổ chức điều hành kinh doanh trong từng doanh nghiệp.
● Mục đích của cạnh tranh trong kinh tế:
Tối đa hoá lợi nhuận. Sự tăng trưởng trong kinh doanh của chủ thể.
● Điều kiện tiên quyết để có cạnh tranh:
Phải có ít nhất hai chủ thể tham gia cạnh tranh.
Sự giành được lợi thế cạnh tranh của người này dẫn đến bất lợi tương
ứng đối với người kia và ngược lại.
● Phương tiện cạnh tranh:
Giá cả
Chất lượng
Dịch vụ
Quảng cáo
2. Nội dung quy luật cạnh tranh
2.1 Nội dung
- Quy luật cạnh tranh là quy luật kinh tế điều tiết một cách khách quan
mối quan hệ ganh đua kinh tế giữa các chủ thể trong sản xuất và trao đổi
hàng hoá, yêu cầu các chủ thể khi tham gia vào thị trường luôn phải
cạnh tranh.
2.2 Các loại hình cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, người ta phân cạnh tranh thành nhiều loại
hình khác nhau
● Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế - Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là
cạnh tranh giữa các chủ thể kinh trong cùng một ngành, cùng sản xuất
một loại hàng hoá hoặc dịch vụ.
+ Biện pháp cạnh tranh: các doanh nghiệp ra sức cải tiến kỹ thuật, đổi
mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động để hạ thấp
giá trị cá biệt của hàng hóa, làm cho giá trị hàng hóa của doanh nghiệp
sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa đó.
+ Kết quả cạnh tranh trong nội bộ ngành là hình thành giá trị xã hội của
hàng hóa (hay giá trị thị trường của hàng hóa) làm cho điều kiện sản
xuất trungbình của một ngành thay đổi,giá trị xã hội của hàng hóa giảm
xuống, chất lượng hàng hóa được nâng cao, chủng loại hàng hóa phong
phú.
- Cạnh tranh giữa các ngành: Là cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất
kinh doanh giữa các ngành kinh tế khác nhau nhằm tìm kiếm nơi đầu tư
có lợi nhất
+ Biện pháp cạnh tranh: các doanh nghiệp tự do di chuyển nguồn lực từ
ngành này sang ngành khác, vào các ngành sản xuất kinh doanh khác
nhau.
+ Kết quả là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân (trong quá trình cạnh
tranh này, các chủ doanh nghiệp luôn say mê với những ngành đầu tư có
lợi nhuận nên đã chuyển vốn từ ngành ít lợi nhuận sang ngành nhiều lợi
nhuận. Sự điều tiết tự nhiên theo tiếng gọi lợi nhuận này sau một thời
gian nhất định sẽ hình thành nên một sự phân phối hợp lý giữa các
ngành sản xuất, kết quả là các chủ doanh nghiệp đầu tư ở các ngành
khác nhau với số vốn như nhau thì cũng chỉ thu được như nhau).
● Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường:
- Cạnh tranh giữa người sản xuất và người tiêu dùng: Là một sự mặc cả
theo luật mua rẻ - bán đắt khi cả hai bên đều muốn tối đa hoá lợi ích của
mình (Người sản xuất thì muốn bán hàng hoá với giá cao, người tiêu
dùng lại muốn mua với giá rẻ).
- Cạnh tranh giữa người tiêu dùng và người tiêu dùng: Xảy ra khi mức
cung nhỏ hơn cầu của một loại hàng hóa hoặc dịch vụ. Lúc này hàng hoá
trên thị trường khan hiếm, người tiêu dùng sẵn sàng mua hàng với mức
giá cao. Mức độ cạnh tranh giữa những người tiêu dùng trở nên gay gắt
hơn.
- Cạnh tranh giữa người sản xuất với người sản xuất: Đây là một cuộc
cạnh tranh gay go và quyết liệt nhất, phổ biến trong nền kinh tế thị
trường hiện nay. Các doanh nghiệp luôn phải ganh đua, loại trừ lẫn nhau
để giành cho mình những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ
hàng hoá, như điều kiện về vốn, lao động, nguồn nguyên liệu, thị trường,
giành nơi đầu tư có lợi… để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình nhằm
mục tiêu tồn tại và phát triển.
● Xét theo tính chất và mức độ:
- Cạnh tranh hoàn hảo: xảy ra khi trên thị trường có rất nhiều người bán
và không người nào có ưu thế về số lượng cung ứng đủ lớn để ảnh
hưởng tới giá cả trên thị trường. Các sản phẩm bán ra rất ít có sự khác
biệt về quy cách, chất lượng, mẫu mã. Trong thị trường cạnh tranh hoàn
hảo các doanh nghiệp bán sản phẩm và dịch vụ của mình ở mức giá do
thị trường xác định dựa trên quy luật cung cầu.
- Cạnh tranh không hoàn hảo: cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn các
sản phẩm không đồng nhất với nhau. Một loại sản phẩm có thể có nhiều
nhãn hiệu khác nhau nhằm phân biệt các nhà sản xuất hay cung ứng,
mặc dù sự khác biệt giữa các sản phẩm có thể không lớn.
- Cạnh tranh độc quyền: hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có một
số người bán một số sản phẩm thuần nhất. Họ có thể kiểm soát gần như
toàn bộ số lượng sản phẩm và dịch vụ bán ra trên thị trường. Thị trường
cạnh tranh độc quyền không có sự cạnh tranh về giá, người bán có thể
bắt buộc người mua chấp nhận giá sản phẩm do họ định ra. Họ có thể
định giá cao hơn hoặc thấp hơn giá của thị trường tuỳ thuộc vào đặc
điểm tác dụng của từng loại sản phẩm, uy tín người cung ứng… nhưng
mục tiêu cuối cùng là đạt được mục tiêu đề ra thường là lợi nhuận.
Những doanh nghiệp nhỏ tham gia vào thị trường này phải chấp nhận
bán theo giá của các nhà độc quyền.
● Xét theo thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh:
- Cạnh tranh lành mạnh: Là cạnh tranh đúng luật pháp, phù hợp với
chuẩn mực xã hội và được xã hội thừa nhận, nó thường diễn ra sòng
phẳng, công bằng và công khai.
- Cạnh tranh không lành mạnh: Là cạnh tranh dựa vào kẽ hở của luật
pháp, trái với chuẩn mực xã hội và bị xã hội lên án (như trốn thuế buôn
lậu, móc ngoặc, khủng bố…)
3. Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Cạnh tranh là điều tất yếu trong kinh tế thị trường. Thế nhưng cạnh tranh
có tác động hai mặt là tích cực và tiêu cực.
3.1 Tác động tích cực
- Cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất Trong nền
kinh tế thị trường, để nâng cao năng lực cạnh tranh các chủ thể không
ngừng tìm kiếm, nâng cao những ứng dụng, tiến bộ của khoa học kỹ
thuật vào dây chuyền sản xuất, nâng cao tay nghề cho người lao động…
từ đó tạo ra kết quả là thúc đẩy lực lượng xã hội phát triển nhanh hơn.
Ví dụ: Cạnh tranh giữa các hãng điện thoại như Apple, Samsung, Oppo.
Để chiếm lĩnh thị trường và sự lựa chọn của người tiêu dùng thì bắt buộc
các hãng điện thoại cần phải đưa ra những ưu việt cho sản phẩm như cải
tiến tính năng, thay đổi mẫu mã sản phẩm, chính sách bảo hành…
- Cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường Trong nền
kinh tế thị trường, với mục đích lợi nhuận tối đa, các chủ thể kinh tế bên
cạnh sự hợp tác họ luôn cạnh tranh với nhau để giành giật những điều
kiện kinh doanh thuận lợi và luôn đổi mới sáng tạo. Từ đó các chủ thể
năng động hơn, nhạy bén hơn với thị trường. Các chính sách kinh tế liên
tục được cải thiện để phù hợp với quy luật phát triển của cơ chế thị
trường. Thông qua đó nền kinh tế thị trường không ngừng được hoàn
thiện.
- Cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt việc phân bổ nguồn lực Theo
đó, các chủ thể sẽ phải cạnh tranh với nhanh để tiếp cận nguồn nhân lực
như lao động, tài nguyên, công nghệ, vốn. Với việc cạnh tranh này sẽ
giúp cho nguồn nhân lực trên thị trường được phân bổ một cách linh
hoạt hơn.
Ví dụ: Cạnh tranh về nguồn lực lao động, các doanh nghiệp sẽ đưa ra
những mức lương, chế độ phúc lợi… để thu hút nguồn lao động có trình
độ, chất xám làm việc cho doanh nghiệp mình.
- Cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu xã hội Trong nền kinh
tế thị trường hiện nay, một doanh nghiệp muốn tồn tại được hay không
sẽ do người tiêu dùng quyết định. Vậy nên, muốn chiếm lĩnh thị trường
và thu lại lợi nhuận thì bắt buộc các doanh nghiệp phải cạnh tranh không
ngừng để mở rộng thị phần.
Muốn làm được như vậy, các doanh nghiệp phải tạo ra khối sản phẩm
phong phú, chất lượng tốt, giá thành thấp thì mới có thể đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng đông đảo của xã hội.
Ví dụ: Cạnh tranh ở các công ty du lịch ở Việt Nam, trong quá trình
cạnh tranh để mở rộng thị trường, bắt buộc các công ty du lịch phải đa
dạng hóa sản phẩm du lịch của mình để tạo ra những sản phẩm, dịch vụ
phù hợp với mọi đối tượng khách hàng khác.
3.2 Tác động tiêu cực
Bên cạnh mặt tích cực, cạnh tranh cũng có những mặt tiêu cực, thể hiện
ở cạnh tranh không lành mạnh như:
- Gây tổn hại môi trường kinh doanh
Nhiều doanh nghiệp vì muốn đạt được lợi nhuận cao đã không từ những
thủ đoạn xấu xa như thực hiện những hành vi lừa đảo, trốn thuế, buôn
bán hàng giả, ăn cắp bản quyền, tung tin đồn thất thiệt để hạ uy tín đối
thủ. Những hành vi vi phạm đạo đức này gây tổn hại môi trường kinh
doanh, xói mòn đạo đức giá trị xã hội và dẫn đến hành vi vi phạm pháp
luật.
- Gây lãng phí nguồn nhân lực xã hội
Cạnh tranh không lành mạnh gây ra những lãng phí về nguồn lực xã hội
vì nó có thể chiếm giữ nguồn lực không đưa vào sản xuất kinh doanh.
Thậm chí còn ép giá đối thủ, không cho đối thủ sản xuất.
Ví dụ: Năm vừa qua đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời
sống của người dân. Những thời gian đầu dịch nhiều người thường nhân
cơ hội tích trữ khẩu trang, sau khi dịch bệnh bùng phát mạnh mẽ ở Việt
Nam họ sẽ tung khẩu trang ra thị trường và bán với mức giá cao nhằm
thu lợi nhuận.
- Gây tổn hại phúc lợi xã hội
Khi các nguồn nhân lực bị lãng phí, không được sử dụng hiệu quả, xã
hội có ít cơ hội lựa chọn để thỏa mãn nhu cầu. Phúc lợi xã hội bị giảm
bớt.
Quy luật giá trị thặng dư
I. Định nghĩa giá trị thặng dư:
Giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức
lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
Giá trị thặng dư được Mác xem là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hoá
và số tiền nhà tư bản bỏ ra trong kinh doanh. Nhà tư bản bỏ ra tư bản
dưới hình thức tư liệu sản xuất gọi là tư bản bất biến và bỏ ra tư bản để
thuê mướn lao động gọi là tư bản khả biến. Tuy nhiên, người lao động sẽ
đưa vào hàng hoá một lượng giá trị lớn hơn số tư bản khả biến mà nhà tư
bản trả cho người lao động. Phần dư ra được gọi là giá trị thặng dư, tức
là số lượng của hàng hoá mà người lao động làm ra có giá trị cao hơn
phần tiền mà nhà tư bản trả cho công nhân và mức chênh lệch đó là giá
trị thặng dư.
Có thể lấy một ví dụ sau để giải thích: Giả sử một người lao động có
trong tay nguyên vật liệu la 1000đồng. Trên cơ sở sức lao động đã bỏ ra,
người lao động đó sẽ làm được sản phẩm mới có giá trị 1100đ. Số tiền
100đ chênh lệch đó là giá trị thặng dư sức lao động. Tuy nhiên, nhà tư
bản chỉ trả cho anh ta 50đ, có nghĩa là 50đ còn lại là phần nhà tư bản
chiếm không của người lao động.
Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị thặng dư:
- Năng suất lao động
- Thời gian lao động
- Cường độ lao động
- Công nghệ sản xuất
- Trình độ quản lí
II. Đặc điểm quy luật sản xuất giá trị thặng dư:
Quy luật sản xuất giá trị thặng dư là một trong những quy luật kinh tế cơ
bản của chủ nghĩa tư bản. Nội dung quy luật này là sản xuất nhiều và
ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư bằng cách tăng cường độ bóc lột
công nhân làm thuê. Nếu quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá
là quy luật giá trị thì quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa là quy luật giá trị thặng dư. Có thể thấy, vì giá trị thặng dư là cội
nguồn sinh ra sự giàu có sung túc vì xuất hiện giá trị mới, nên để duy trì
và phát triển sự giàu có dôi dư này, giai cấp tư sản có xu hướng không
ngừng sản xuất với quy mô ngày càng lớn hơn trước. Những tiền bạc thu
được đều được đưa vào tái đầu tư, tái sản xuất, thuê mua nguyên vật liệu
nhà xưởng để vận hành tạo giá trị thặng dư.
Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của CNTB vì theo
kinh tế chính trị Mác nó quy định bản chất của nền sản xuất TBCN, chi
phối mọi mặt đời sống kinh tế của xã hội tư bản. Không có sản xuất giá
trị thặng dư thì không có CNTB.Theo Mác, chế tạo ra giá trị thặng dư-
đó là quy luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản xuất TBCN. Ở đâu
có giá trị thặng dư thì ở đó có CNTB, ngược lại ở đâu có chủ nghĩa tư
bản thì ở đó có giá trị thặng dư.
Sản xuất nhiều và ngày càng nhiều giá trị thặng dư là mục đích là động
lực thường xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là nhân tố đảm bảo
sự tồn tại và thúc đẩy sự vận động phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng
thời nó làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc.
=> Quy luật giá trị thặng dư là nguồn gốc mâu thuẫn cơ bản của chủ
nghĩa tư bản: + Mâu thuẫn của tư bản và lao động.
+ Mâu thuẫn giữa giai cấp tư bản và giai cấp công nhân.
Quy luật giá trị thặng dư đứng đằng sau cạnh tranh tư bản chủ nghĩa với
mục đích thu được ngày càng nhiều giá trị thặng dư. Các nhà tư bản
cạnh tranh với nhau, tiêu diệt lẫn nhau để có được quy mô giá trị thặng
dư lớn hơn, tỉ suất giá trị thặng dư cao hơn.
Để sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản ra sức áp
dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật cải tiến sản xuất. Từ đó thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, nền sản xuất có tính xã hội hoá
ngày càng cao, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với hình
thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt.
III. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, do vậy
mà các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng khối lượng giá trị
thặng dư. Những phương pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra
giá trị thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối.
1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi
kỹ thuật còn thấp thì phương pháp chủ yếu mà các nhà tư bản thường
dùng để tăng giá trị thặng dư đó là kéo dài ngày lao động của công
nhân , trong điều kiện thời gian lao động là tất yếu không thay đổi.
Giả sử thời gian lao động là 8 giờ trong đó 4 giờ là thơi gian lao động
cần thiết và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư khi đó trình độ bóc lột
của nhà tư bản là 100%. Giá trị ngày lao động kéo dài thêm 2 giờ
trong khi thời gian lao động cần thiết không đổi thì thời gian lao động
thặng dư tăng lên một cách tuyệt đối , vì thế giá trị thặng dư cũng tăng
lên , trình độ bóc lột tăng lên đạt 200%(m’=200%).
Các nhà tư bản tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động và phương
pháp bóc lột này đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản. Nhưng
dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng hoá
, nhưng nó tồn tại trong cơ thể sống con người vì vậy mà người công
nhân cần có thời gian để ăn ngủ nghỉ ngơi giải trí để phục hồi sức
khoẻ nhằm tái sản xuất sức lao động. Mặt khác , sức lao động là thứ
hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật chất người công nhân đòi hỏi
phải có thời gian cho nhu cầu sinh hoạt về tinh thần , vật chất , tôn
giáo của mình. Như vậy , về mặt kinh tế , ngày lao động phải dài hạn
thời gian lao động tất yếu , nhưng không thể vượt qua giới hạn về thể
chất và tinh thần của người lao động.
Vì thời gian lao động quá dài , do vậy mà đã dẫn đến phong trào giai
cấp vô sản đấu tranh đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao
động trong ngày. Chính vì vậy mà giai cấp tư sản phải chuyển sang
một phương pháp bóc lột mới tinh vi hơn , đó là phương pháp bóc lột
giá trị thặng dư tương đối.
2. Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối:
Bóc lột giá trị thặng dư tương đối được tiến hành bằng cách rút ngắn
thời gian lao động cần thiết để trên cơ sở đó kéo dài tương ứng thời
gian lao động thặng dư, trong điều kiện độ dài ngày lao động không
đổi.
Giả sử ngày lao động 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất
yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư , trình độ bóc lột 100%.Giả
thiết rằng công nhân chỉ cần 2 giờ lao động đã tạo ra được một giá trị
bằng giá trị sức lao động của mình. Do đó mà tỷ lệ phân chia ngày lao
động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động giá trị
thặng dư trong trường hợp đó cũng không thay đổi. Khi đó thời gian
lao động cần thiết là 2 giờ, thời gian lao động thặng dư là 6 giờ, trình
độ bóc lột của nhà tư bản lúc này là 300%(m’=300%).
Như vậy để có thể giảm thời gian lao động cần thiết để từ đó gia tăng
tương ứng phần thời gian lao động thặng dư thì các nhà tư bản cần tìm
mọi biện pháp để tăng năng suất lao động trong những nghành sản
xuất tư liệu sinh hoạt. Đồng thời nâng cao năng suất lao động xã hội
trong những nghành, những lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng
để nuôi sống người công nhân.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng
dư tuyệt đối chiếm ưu thế, thì đến giai đoạn sau khi mà kỹ thuật phát
triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối đã chiếm ưu thế. Hai phương
pháp trên đã được các nhà tư bản sư dụng kết hợp với nhau để nâng
cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong các giai đoạn phát triển
của chủ nghĩa tư bản.
Kết luận nội dung nghiên cứu :

Đề tài giúp nâng cao tư duy nhận thức và trình độ lí luận về học thuyết
kinh tế cũng như chủ nghĩa Mác, nó giúp chúng ta hiểu sâu hơn quy luật
kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản , nhận thấy vai trò quan trọng
của nó trong phát triển kinh tế.
Việt nam hiện nay đang phát triển kinh tế thị trường, nền kinh tế mở
cửa, vì vậy đã có một số quy luật chủ yếu của nền kinh tế thị trường hoạt
động. Nhận thức về quy luật trang bị cho các nhà kinh tế những hiểu biết
trong quản lí và sản xuất kinh doanh. Ta sẽ nắm được sự vận động của
các quy luật : quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị.... mà quy luật giá trị
thặng dư là quy luật trung tâm. Từ đó các nhà kinh tế có biện pháp tối ưu
hơn, phù hợp quy luật để tạo hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Đề tài thực sự có ý nghĩa thực tiễn và giá trị vận dụng trong phương thức
sản xuất và nền sản xuất ở Việt Nam hiện nay. Một yêu cầu trong phát
triển kinh tế, sử dụng quy luật giá trị thặng dư trong quản lí doang
nghiệp là các doanh nghiệp nước ta phải vận dụng một cách hợp lí quy
luật giá trị thăng dư, tuân theo sự điều tiết, quản lí vĩ mô của nhà nước
để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa quyền lợi thuộc về nhân dân và
người lao động.
V. TÀI LIỆU KHAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế chính trị MÁC – LÊNIN (dành cho bậc đại học hệ
không chuyên lý luận chính trị). Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật
Hà Nội – 2021
2.https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-ha-noi/kinh-te-chinh-
tri/nen kinh-te-thi-truong-va-mot-so-quy-luat-chu-yeu-cua-nen-kinh-te-
thi-truong/34533968
3. https://luatminhkhue.vn/kinh-te-thi-truong-la-gi.aspx
4.https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/phat-trien-kinh-te-thi-truong-
dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-137544

You might also like