Professional Documents
Culture Documents
Nhưng với sự tách biệt tương đối về kinh tế, thì lao động của người sản xuất
hàng hóa đồng thời lại mang tính chất tư nhân, vì việc sản xuất cái gì, như thế
nào là công việc riêng, mang tính độc lập của mỗi người. Tính chất tư nhân đó
có thể phù hợp hoặc không phù hợp với tính chất xã hội. Đó chính là mâu thuẫn
cơ bản của sản xuất hàng hóa. Theo chủ nghĩa Marx-Lenin thì mâu thuẫn giữa
lao động tư nhân và lao động xã hội là cơ sở, mầm mống của khủng
hoảng trong nền kinh tế hàng hóa.
Mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, là lợi nhuận chứ không phải giá trị sử
dụng.
So với sản xuất tự cung, tự cấp, sản xuất hàng hóa có những ưu thế hơn hẳn,
cụ thể như sau:
Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân công lao động xã hội, chuyên môn
hóa sản xuất chính vì thế, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội,
kỹ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất cũng như từng vùng, từng địa
phương. Bên cạnh đó, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại có tác động trở lại,
thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn hóa
lao động ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở
nên mở rộng, sâu sắc. Phá vỡ tính tự cấp tự túc, bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của mỗi
ngành, mỗi địa phương làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh
chóng, nhu cầu của xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn. Khi sản xuất và trao đổi
hàng hóa mở rộng giữa các quốc gia, thì nó còn khai thác được lợi thế của các
quốc gia với nhau.
Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nhu
cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi
vùng, mỗi địa phương, mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn
lực của xã hội. Điều đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng những
thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất... thúc đẩy sản xuất phát triển.
Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của quy luật vốn có của sản xuất và
trao đổi hàng hóa là quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh...
buộc người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn năng động, nhạy bén, biết tính
toán, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả kinh tế, cải tiến hình thức, quy cách và chủng loại hàng hóa, làm
cho chi phí sản xuất hạ xuống đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu
dùng ngày càng cao hơn.
Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và giao
lưu kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước... không chỉ làm cho
3
đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng cao hơn,
phong phú hơn, đa dạng hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, sản xuất hàng hóa cũng có những mặt trái
của nó như phân hóa giàu - nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa, tiềm ẩn
những khả năng khủng hoảng, phá hoại môi trường, hệ sinh thái, xã hội, v.v..
Từ năm 1986 Đảng và Nhà nước ta đã chính thức công nhận sức lao động là
một loại hàng hoá, cho nên việc xây dựng thị trường sức lao động là tất yếu.
Đảng ta cũng nhấn mạnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là vấn đề cốt lõi, trọng tâm của Đảng và hàng hóa sức lao động là
điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế công nghiệp, kinh tế thị trường.
Trong thời gian qua việc phát triển thị trường lao động nước ta đã thu được
những thành quả nhất định, làm cơ sở cho việc hoàn thiện quan hệ lao động,
phát triển kinh tế – xã hội.
Sau nhiều năm đổi mới nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể vai
trò quản lý của nhà nước được tăng cường. Bằng các công cụ rất riêng: pháp
luật kế hoạch, thiết chế về tài chính, tiền tệ và những điều kiện vật chất khác,
Nhà nước đã tạo điều kiện tốt nhất để khuyến khích, phát huy những mặt tích
cực của kinh tế hàng hóa, ngăn ngừa hạn chế tính tự phát và khuyết điểm của
cơ chế thị trường.
Giải pháp:
Đa dạng hóa các chế độ sở hữu. Đẩy mạnh phân công lại lao động xã hội. Tạo
lập và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Giữ vững ổn định chính trị, hoàn
thiện hệ thống pháp luật và cải tiến. Đẩy mạnh cách mạng khoa học công nghệ
nhằm phát triển kinh tế theo hướng CNH- HĐH. Mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại.
4
Câu 2: Trong cơ sở sản xuất của 1 chủ tư bản, tư bản đầu tư ban đầu là 30
triệu usd, với cấu tạo hữu cơ là 4/1, m’=100%. Năm sau, tư bản đầu tư ở đây
tăng gấp 3 lần với cấu tạo hữu cơ là 9/1, m’=150%. Hãy tính sự thay đổi của tỷ
suất lợi nhuận? Giải thích tại sao có sự thay đổi đó?
Giải:
1) Tư Bản Đầu Tư = (C + V) = 30 triệu usd
2) Cấu tạo hữu cơ = C/V = 4/1 => (C + V) = 5 V
3) m’ = 100%
30
=> V = triệu usd = 6 triệu usd
5
- Nhận xét: Trong trường hợp này ta thấy m’ tăng (150%), lẽ ra p’ phải tăng,
nhưng do cấu tạo hữu cơ tăng nhanh hơn, từ 4/1 thành 9/1 (tăng 225%), nên kết
quả là p’ trên thực tế lại giảm so với trước (từ 20% xuống còn 15%).