You are on page 1of 17

CHƯƠNG II: HÀNG HÓA, THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC CHỦ THỂ THAM

GIA THỊ TRƯỜNG

1. Sản xuất hàng hóa ra đời từ khi nào? Vì sao?


Sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại khi có đủ 2 điều kiện:
- Phân công lao động xã hội
- Sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất
Vào cuối Công xã nguyên thuỷ chuyển sang Chiếm hữu nô lệ: trồng trọt tách khỏi chăn nuôi nên
có nhiều ngành nghề, dẫn đến xuất hiện phân công lao động xã hội. Khi đó người giàu bắt đầu
chiếm hữu tài sản mầm mống của sự tách biệt về kinh tế.
2. Sản xuất hàng hoá là phạm trù lịch sử hay vĩnh viễn?
Sản xuất hàng hoá là phạm trù lịch sử vì tồn tại phụ thuộc vào 2 điều kiện trên. Khi 1 trong 2 đk
mất đi, sản xuất hàng hoá mất đi.

3. Sản xuất hàng hóa mất đi khi mất đi điều kiện nào hay phải mất cả 2 điều kiện?
Điều kiện phân công lao động không thể mất đi vì xã hội càng phát triển sẽ càng có nhiều ngành
nghề khác nhau, càng chuyên môn hóa (VD: giáo viên sẽ có giáo viên mầm non, giáo viên tiểu
học, giáo viên trung học cơ sở,...)
Điều kiện sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất có thể mất đi vì trong hình thái xã
hội cộng sản chủ nghĩa bắt đầu hình thành chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (hết tư nhân)

4. Việt Nam hiện nay còn tồn tại sản xuất hàng hóa không? Vì sao?
Việt Nam hiện nay có tồn tại sản xuất hàng hóa vì có đủ 2 điều kiện này:
- Phân công lao động xã hội: Việt Nam có nhiều ngành nghề khác nhau, có sự chuyên môn hóa
sản xuất.
- Sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất: Việt Nam đang ở thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội nên tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất như sở hữu nhà
nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân,... còn có sự tách biệt về kinh tế

5. Ưu thế của sản xuất hàng hóa so với kinh tế tự nhiên


- Khái niệm sản xuất hàng hóa
- Ưu thế:
Do mục đích của sản xuất hàng hoá không phải để thỏa mãn nhu cầu của bản thân người sản xuất
như trong kinh tế tự nhiên mà để thoả mãn nhu cầu của người khác,của thị trường. Sự gia tăng
không hạn chế nhu cầu của thị trường là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi người sản xuất hàng hoá phải năng động trong sản
xuất - kinh doanh, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất để tăng năng suất lao
động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tiêu thụ được hàng hoá và thu được lợi nhuận ngày
càng nhiều hơn. Cạnh tranh đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển của
sản xuất xã hội với tính chất "mở" của các quan hệ- hàng hoá tiền tệ làm cho giao lưu kinh tế,
văn hoá giữa các địa phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển. Từ đó tạo điều kiện
ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.

6. Đề xuất giải pháp để sản xuất hàng hóa phát triển hơn.
Một là, phát triển lực lượng sản xuất
a) Về giáo dục:
- Giáo dục là nền tảng cho sự phát triển lâu dài của một quốc gia; người lao động cần phải nâng
cao trình độ trí tuệ, chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, kinh nghiệm của mình.
- Ngoài dạy các kiến thức cơ sở cần thiết, còn cần phổ cập kỹ năng tin học và ngoại ngữ cho học
sinh, sinh viên, chú trọng phát triển các kỹ năng mềm như giải quyết vấn đề, làm việc nhóm,...
- Nhà nước cần coi trọng khâu đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài trong kinh doanh và quản
lý thị trường, thương mại.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu, thực hành trẻ có năng lực. Đây là khâu quyết định triển
vọng phát triển của nền khoa học, công nghệ nói riêng và của Việt Nam nói chung.
b) Về khoa học – kĩ thuật:
- Tạo dựng sự gắn kết có hiệu quả giữa hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học- công nghệ
với các nhu cầu kinh tế - xã hội. Giải pháp cho việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện quan hệ
sản xuất mới theo định hướng XHCN.
- Ứng dụng thành tựu của KHCN hiện đại: cải biến cơ cấu lao động (cơ cấu lao động giản đơn
được thay thế bằng dây chuyền máy móc, sức LĐ của con người được giải phóng, LĐ chân tay
dần được thay thế bằng LĐ trí óc, LĐ giản đơn dần được thay thế bằng LĐ có chuyên môn hóa
ngày càng cao), khai thác hiệu quả các thế mạnh như dệt may, da giày, khoáng sản…
Hai là, tăng cường hội nhập quốc tế, giao lưu kinh tế, văn hóa trong nước và quốc tế
Chủ động, tích cực tham gia xây dựng các quy tắc và luật lệ chung của Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC); tích cực bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu
dùng Việt Nam trong các tranh chấp kinh tế, thương mại và đầu tư quốc tế.
Đẩy mạnh các hoạt động đàm phán song phương, đa phương với các thị trường, khu vực thị
trường trọng điểm, nhiều tiềm năng. Tăng cường các hoạt động xúc tiến xuất khẩu theo hướng
chú trọng mở rộng thị trường ở các nước đang phát triển, các thị trường tiềm năng và thị trường
mới nổi. Đồng thời, phát triển xuất khẩu theo chiều sâu tới những thị trường truyền thống, như
Mỹ, EU, Trung Quốc, các nước Đông Á, ASEAN...
Ba là, thực thi các chương trình khai thác thị trường nội địa
Thứ nhất, cần sớm ban hành hệ thống luật liên quan tới bán lẻ như Luật Bán lẻ, Luật Chất
lượng sản phẩm… Bổ sung các quy chuẩn hiện có để hướng dẫn kinh doanh bán lẻ phát triển
lành mạnh và làm cơ sở để các cơ quan chức năng thực hiện việc kiểm soát thị trường.
Thứ hai, quy hoạch tổng thể ngành bán lẻ trong cả nước và từng địa phương. Từ đó, đầu tư
nâng cấp kết cấu hạ tầng thương mại theo hướng văn minh, hiện đại, trước mắt, tập trung cho các
chuỗi siêu thị bán lẻ, hệ thống các chợ.
Thứ ba, có định chế tài chính, tín dụng, chính sách đầu tư, đất đai thích hợp để hỗ trợ thực
hiện quy hoạch xây dựng hạ tầng thương mại.
Thứ tư, tổ chức cuộc vận động “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam” đi vào chiều sâu, thực
chất, đến với số đông người tiêu dùng. Hiệp hội Bán lẻ và Siêu thị phải làm đầu mối vận động
các đơn vị hội viên nâng cao tỷ trọng hàng Việt Nam tại các trung tâm bán lẻ và siêu thị, kết hợp
với các biện pháp quảng cáo, khuyến mại phù hợp.
Người dân cần nâng cao hiểu biết, phải là nhà tiêu dùng thông minh

7. Phân tích giá trị hàng hóa (Phân tích từ khái niệm giá trị tỷ lệ/ giá trị trao đổi → giá trị
hàng hóa → trang 38; 39)
Giá trị tỷ lệ là tỷ lệ trao đổi giữa các giá trị sử dụng khác nhau.

8. Phân tích tính chất 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa và ý nghĩa việc phát hiện tính
2 mặt
❖ Phân tích tính chất 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa
- Khái niệm sản xuất hàng hoá
- Phân tích tính 2 mặt: Lao động cụ thể và lao động trừu tượng
❖ Ý nghĩa việc phát hiện tính 2 mặt
- Cho thấy nguồn gốc của 2 thuộc tính hàng hoá
- Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của
người sản xuất hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hoá, sản xuất như thế nào, sản xuất cái gì là
việc riêng của mỗi người. Họ là người sản xuất độc lập, lao động của họ vì vậy có tính chất tư
nhân và lao động cụ thể của họ sẽ biểu hiện của lao động tư nhân. Đồng thời, lao động của mỗi
người sản xuất hàng hoá, nếu xét về mặt hao phí sức lực nói chung, tức lao động trừu tượng, thì
nó luôn là một bộ phận của lao động xã hội thống nhất, nằm trong hệ thống phân công lao động
xã hội, nên lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.

9. Mối quan hệ giữa 2 thuộc tính hàng hoá


2 thuộc tính hàng hoá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn
- Thống nhất: 2 thuộc tính này cùng tồn tại trong 1 hàng hoá
- Mâu thuẫn:
+ Với tư cách là giá trị sử dụng: hàng hoá không đồng nhất về chất
+ Với tư cách là giá trị: hàng hoá lại đồng nhất về chất, đều là sự kết tinh của lao động hay lđ đã
được vật hoá
+ Quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng tách rời nhau cả về không gian và thời gian (giá
trị thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông còn giá trị sử dụng được thực hiện sau trong tiêu
dùng)

10. Vì sao hàng hóa có 2 thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị sản xuất?
Do lao động sản xuất hàng hóa có tính chất 2 mặt: cụ thể, trừu tượng
Kết quả của lao động cụ thể → tạo ra giá trị sử dụng
Kết quả của lao động trừu tượng → tạo ra giá trị sản xuất
→ Nguồn gốc của 2 thuộc tính hàng hóa
11. So sánh tăng năng suất lao động và tăng cường lao động đối với sản xuất hàng hóa
-Giống: đều làm cho số lượng hàng hóa tăng lên
Tăng năng suất lao động Tăng cường độ lao động

Làm cho giá trị một hàng hóa giảm Làm cho giá trị một hàng hóa không đổi

Tổng giá trị hàng hóa không đổi Tổng giá trị hàng hóa tăng lên

Sức lao động của người không giới hạn Sức lao động của người có giới hạn
-Khác:

12. Phân tích quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa? (Phân tích quy
luật giá trị: nội dung, yêu cầu, tác động - trang 67-70)

13. Nêu tác động của quy luật lưu thông tiền tệ
Có 3 tác động:
- Thúc đẩy hiệu quả sử dụng đồng tiền
- Giữ vững sức mua của đồng tiền, ngăn ngừa tình trạng lạm phát, góp phần giữ được nhịp độ
tăng trưởng và phát triển kinh tế
- Giữ ổn định tiền tệ, giá cả, điều tiết lưu thông tiền mặt, giúp lưu thông hàng hoá được thông
suốt, ổn định sản xuất và đời sống.

1. So sánh nền sản xuất hàng hóa giản đơn và tư bản chủ nghĩa
- Giống: đều có 2 yếu tố vật chất là tiền và hàng hóa, đều có 2 giai đoạn mua và bán
- Khác:
Sản xuất hàng hóa giản đơn Sản xuất hàng hóa tư bản chủ
H-T-H nghĩa
T-H-T

Điểm xuất phát và kết Điểm xuất phát và kết thúc đều là hàng, Khởi đầu và kết thúc đều là tiền,
thúc còn tiền chỉ đóng vai trò trung gian, tiền chủ tạm thời ứng ra rồi thu về.
được chi tiêu hết Hàng chỉ đóng vai trò trung gian

Trình tự 2 giai đoạn mua Bắt đầu bằng việc bán (H-T), kết thúc Bắt đầu bằng việc mua (T-H), kết
và bán bằng việc mua (T-H) thúc bằng việc bán (H-T)

Mục đích của sự vận Giá trị sử dụng Giá trị và giá trị lớn hơn, thu được
động giá trị thặng dư

Giới hạn của sự vận động Kết thúc khi có được giá trị sử dụng Không có giới hạn
2. Bạn hãy cho biết sự vận dụng quy luật giá trị trong sản xuất và trao đổi hàng hóa được
thực hiện như thế nào?
Các quy luật kinh tế được phép phát huy tác dụng của nó trong đó quy luật giá trị đóng vai trò là
quy luật kinh tế căn bản chi phối toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế. Ở đâu có sản xuất và trao
đổi hàng hóa ở đó có quy luật giá trị hoạt động. Trong sản xuất và lưu thông hàng hoá, quy luật
giá trị được vận dụng như sau:
Trong lĩnh vực sản xuất:
- Nhà nước đưa ra các chính sách để khuyến khích phát triển và nâng cao trình độ chuyên môn.
Mỗi doanh nghiệp phải cố gắng cải tiến máy móc, mẫu mã, nâng cao tay nghề lao động, điều
chỉnh, cân đối hợp lý hóa sản xuất, ứng dụng trang thiết bị hiện đại để thực hiện thay thế sức lao
động của con người ở một số khâu nhất định, tiết kiệm chi phí vật chất, tăng năng suất lao động,
… Nếu không, quy luật giá trị ở đây sẽ phát huy vai trò của nó: loại bỏ những cái kém hiệu quả ,
kích thích các cá nhân, ngành, doanh nghiệp phát huy tính hiệu quả tất yếu. Điều đó dẫn tới sự
phát triển của lực lượng sản xuất, mang lại chất lượng phát triển đối với các cơ sở sản xuất hiệu
quả.
- Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế. Sức cạnh tranh được nâng cao ở đây là nói đến sức
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp trong nước, giữa doanh nghiệp
trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, giữa các cá nhân trong nước với cá nhân trong nước,
giữa cá nhân trong nước với cá nhân nước ngoài (cũng có thể coi đây là hệ quả tất yếu của sự
phát triển của lực lượng sản xuất). Trong quá trình hội nhập quốc tế, mỗi doanh nghiệp đều phải
nâng cao sức cạnh tranh của mình
- Việc phát triển nhiều thành phần kinh tế ở nhiều mặt giúp thu hút nguồn nhân lực giúp nâng
cao trình độ sản xuất, từ đó sản xuất ra nhiều hàng hoá và thu được nhiều lợi nhuận hơn (lợi
nhuận siêu ngạch, lợi nhuận độc quyền). Qua đó tạo nên sự năng động của nền kinh tế thị trường
Việt Nam. Với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, siêu lợi nhuận. Sự đầu tư trong nước và đầu tư ra
nước ngoài ngày càng phát triển, hay nói cách khác là thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế.
Trong lĩnh vực trao đổi hàng hoá
- Về hình thành giá cả.
Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị, phải ánh đúng và đủ những hao phí về
vật tư và lao động để sản xuất hàng hoá, không những vậy phải bù đắp cho giá thành sản phẩm,
đồng thời phải đảm bảo được mức lãi để các doanh nghiệp hay cá nhân sản xuất có thể thực hiện
tái sản xuất mở rộng. Đó là nguyên tắc chung áp dụng phổ biến cho mọi quan hệ trao đổi. Ta có
thể thấy giá cả là một phạm trù phức tạp, sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị là một tất yếu khách
quan của nền kinh tế XHCN. Nhà nước ta đã phải tính đến những lợi ích trước mắt và lâu dài,
căn cứ vào nhiều quy luật kinh tế XHCN để vận dụng quy luật giá trị. Trên thực tế giá cả hàng
hoá không chỉ phản ánh qua giá trị vốn tham gia vào giai đoạn sản xuất mà còn chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố trên thị trường như: cạnh tranh, quy luật cung, cầu, sức mua của đồng tiền, giá
các mặt hàng liên quan nên không phải lúc nào giá cả cũng hình thành theo ý muốn của nhà nước
mà các quy luật giá cả cũng tác động đến ý nghĩa hình thành hiệu quả kinh tế.
- Về nguồn hàng lưu thông.
Quy luật giá trị yêu cầu trao đổi phải tuân theo nguyên tắc ngang giá. Ngang giá tức là
giá cả bằng giá trị, so sánh dựa trên hiệu quả sản xuất và vốn cần thực hiện để tạo thành sản
phẩm. Tuy nhiên không phải lợi ích lúc nào cũng được đảm bảo. Thông qua sự biến động về giá
cả trên thị trường, những cách tiếp cận mới và đa dạng xuất hiện. Khi các mặt hàng đa dạng về
chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng được lưu thông sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh giúp các doanh
nghiệp nâng cao năng lực và phát triển. Không những vậy luồng hàng hóa sẽ lưu thông rộng rãi.
Từ đó tạo sự cân đối về nguồn hàng giữa các vùng miền. Đảm bảo cho tính đa dạng và tiếp cận
hiệu quả của chất lượng, các nhóm hàng hóa.
Dưới tác động quy luật giá trị, hiệu quả đã được phản ánh. Phù hợp và đảm bảo với các
quá trình, hoạt động sản xuất, kinh doanh. Gắn với lưu thông và mang lại hiệu quả kinh tế. Hàng
hóa trong nền kinh tế sẽ được đưa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, từ nơi cung nhiều
đến nơi cầu nhiều. Quy luật cung cầu giúp các tiếp cận hiệu quả hơn trong nhu cầu và khả năng.
Phản ánh với các thành phần, nhóm chủ thể có đặc điểm lựa chọn hàng hóa như nhau.
Trong nền kinh tế XHCN, việc cung cấp hàng hóa cho thị trường được thực hiện một
cách có kế hoạch. Nếu cung cầu của các mặt hàng thiết yếu hoặc có tầm quan trọng với nền kinh
tế quốc dân không cân đối thì nhà nước sẽ tìm cách đẩy mạnh sản xuất, nâng cao thu mua mà
đảm bảo giá cả không bị thay đổi. Để làm được, nhà nước sẽ thông qua các quy luật và hệ thống
giá cả ảnh hưởng đến mặt hàng đó để điều chỉnh hợp lý. Giá mua cao sẽ khơi thêm nguồn hàng,
giá bán hạ giúp đẩy mạnh tiêu thụ và ngược lại. Do đó, nhà nước đã vận dụng những điều này
vào việc định hướng giá cả sao cho sát với giá trị của sản phẩm, xoay quanh giá trị của sản phẩm
để cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ lao động và tăng cường quản lý. Không những vậy nhà
nước còn chủ động tách giá cả khỏi giá trị đối với từng loại hàng hóa trong từng thời kỳ nhất
định, lợi dụng sự chênh lệch về giá cả và giá trị của sản phẩm để điều tiết sản xuất và lưu thông
từ đó điều chỉnh lượng cung cầu và phân phối gòng hàng hoá. Vậy giá cả được coi là một công
cụ quan trọng để điều tiết sự tiêu dùng của xã hội trong một nền kinh tế.
Như vậy, quy luật giá trị có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế thị
trường, nó là quy luật kinh tế căn bản chi phối sự vận động của nền kinh tế thị trường. Quy luật
giá trị vừa có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích thích sự tiến bộ, làm cho lực lượng sản
xuất phát triển mạnh mẽ; vừa có tác dụng lựa chọn, đánh giá người sản xuất, bảo đảm sự bình
đẳng đối với người sản xuất; vừa có cả những tác động tích cực lẫn tiêu cực. Các tác động đó
diễn ra một cách khách quan trên thị trường. Đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta giai đoạn hiện nay, quy luật giá trị đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Tuy
nhiên có phát huy được các mặt tích cực, đẩy lùi các mặt tiêu cực còn là một vấn đề phụ thuộc
nhiều vào vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước và nhận thức của mỗi công dân.

3. Vì sao công thức T-H-T’ là công thức chung của tư bản ?


Vì sự vận động của mọi tư bản đều thể hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó.

4. So sánh hàng hóa thông thường và hàng hóa sức lao động
- Giống:
+ Đều là hàng hóa và mang 2 thuộc tính (giá trị và giá trị sử dụng)
+ Đều được quy định bởi số lượng thời gian lao động xã hội cần thiết
+ Đều chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động nghĩa là khi con người sử dụng hay
tiêu dùng
-Khác:
Hàng hóa thông thường Hàng hóa sức lao động

Người mua và người bán hoàn toàn độc lập với Là hàng hóa đặc biệt chỉ tồn tại trong cơ thể sống của
nhau con người, người mua có quyền sử dụng nhưng
không được quyền sở hữu

Chỉ thuần túy là yếu tố vật chất Bao hàm cả yếu tố tinh thần lẫn lịch sử

Là nguồn gốc của giá trị trao đổi (biểu hiện của của Là nguồn gốc của giá trị thặng dư
cải)

Sau một thời gian sử dụng thì cả giá trị và giá trị sử Khi tiêu dùng hàng hóa sức lao động nó tạo ra một
dụng đều tiêu biến giá trị mới lớn hơn giá trị của thân sức lao động

Giá cả và giá trị có thể tương đương nhau Giá cả nhỏ hơn giá trị

5. Một số giải pháp để phát triển thị trường hàng hóa sức lao động ở Việt Nam hiện nay?
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về thị trường lao động, tuân thủ các quy luật của kinh tế thị
trường, coi lao động là hàng hóa đặc biệt để có cơ chế, chính sách phù hợp. Tiếp tục hoàn thiện
thể chế, chính sách pháp luật đồng bộ, thống nhất để thị trường lao động phát triển theo hướng
linh hoạt, hiện đại, đầy đủ, bền vững, hiệu quả, hội nhập quốc tế, thúc đẩy tạo việc làm bền vững,
có thu nhập cao.
Thứ hai, nắm bắt nhu cầu, phát triển thị trường lao động đúng hướng, tập trung vào các lĩnh vực
trọng tâm, trọng điểm đang là ưu tiên hiện nay như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, ứng phó
biến đổi khí hậu… Đẩy mạnh đầu tư số hóa quản trị lao động việc làm kết nối với số hóa quản lý
dân cư.
Thứ ba, chú trọng đầu tư cả về cơ chế chính sách, nguồn lực để xây dựng hệ thống thông tin và
dự báo thị trường lao động đa tầng từ địa phương cấp tỉnh, cấp vùng tới toàn quốc, đa lĩnh vực
theo ngành nghề, có các cấp trình độ khác nhau. Chính sách phải dựa trên cơ sở dữ liệu hiện tại
và dự báo tương lai.
Thứ tư, đẩy mạnh xây dựng chính sách việc làm trên nguyên tắc có tính dự báo, tầm nhìn chiến
lược, chủ động, phù hợp với cơ chế thị trường, xây dựng nhiệm vụ phù hợp, khả thi, hiệu quả cả
ngắn hạn và dài hạn, đa dạng hoá các nguồn tín dụng để thúc đẩy tạo việc làm mới, việc làm
sáng tạo, chất lượng cao, việc làm bền vững, việc làm xanh, phục vụ chuyển đổi số, chuyển đổi
năng lượng, ứng phó biến đổi khí hậu, việc làm cho đối tượng yếu thế, vùng sâu vùng xa.
Thứ năm, cần quan tâm tới việc dịch chuyển lao động, việc làm theo địa lý, địa bàn, đảm bảo có
cơ cấu phân bổ lao động việc làm hợp lý trên toàn quốc. Tạo việc làm ở khu vực nông thôn, miền
núi để người dân có thể làm việc tại quê hương với mức thu nhập ổn định, để NLĐ hạn chế phải
xa quê hương
Thứ sáu, đổi mới toàn diện hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt,
hiệu quả để nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
tận dụng thời cơ dân số vàng. Đẩy mạnh huy động các nguồn lực đầu tư phát triển nguồn nhân
lực. Chú trọng đào tạo những kỹ năng ngoại ngữ, tính kỷ luật, kỷ cương… để hội nhập với thị
trường lao động thế giới.
Thứ bảy, thực hiện các văn bản, quy định liên quan tới thị trường lao động,
Thứ tám, rà soát, đánh giá sắp xếp tổ chức, đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo, giáo
dục nghề nghiệp, nhất là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng, đề xuất mô hình liên
kết vùng, xây dựng các trung tâm đào tạo vùng, trung tâm đào tạo quốc gia theo vùng kinh tế
trọng điểm.
Thứ chín, tập trung tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong kết nối giáo dục nghề nghiệp với
doanh nghiệp; xây dựng chính sách ưu đãi cho học tập, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, đánh giá
công nhận trình độ kỹ năng cho người lao động. Đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại, đào tạo bổ sung,
đào tạo tại doanh nghiệp để thu hút hiệu quả lao động tại chỗ nhằm giải quyết triệt để vấn đề
thiếu hụt nhân lực cục bộ, vấn đề đứt gãy lao động phục vụ phục hồi nhanh, phát triển bền vững
kinh tế - xã hội.
6. Vì sao hàng hóa sức lao động là chìa khóa chỉ rõ nguồn gốc của giá trị lớn hơn?
-Hàng hóa sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt, mang yếu tố tinh thần và lịch sử
-Hơn thế, giá trị sử dụng của hàng hoá slđ có tính năng đặc biệt mà không hàng hoá thông
thường nào có được, đó là trong khi sử dụng nó, không những giá trị của nó được bảo tồn mà còn
tạo ra được lượng giá trị lớn hơn giá trị bản thân.

7. So sánh 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối
- Giống:
+ Tăng thời gian lao động thặng dư
+ Tăng tỷ suất giá trị thặng dư
+ Tăng khối lượng giá trị thặng dư
-Khác:

Tuyệt đối Tương đối

Kéo dài thời gian lao động trong ngày Thời gian lao động trong ngày không đổi thậm chí là rút
ngắn

Thời gian lao động tất yếu không đổi Rút ngắn thời gian lao động tất yếu

Giá trị thặng dư thu được do tăng cường độ lao động, Giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao động xã
năng suất lao động không đổi hội
Giới hạn bởi thời gian tự nhiên trong ngày và bởi yếu tố Không có giới hạn vì năng suất lao động có thể tăng lên
thể chất, tinh thần của người lao động vô hạn

8. So sánh tích tụ tư bản và tập trung tư bản


+ Điểm giống: đều làm tăng quy mô của tư bản cá biệt.
+ Điểm khác:
Tích tụ tư bản Tập trung tư bản
Nguồn: Là giá trị thặng dư từ tư bản hoá Nguồn: Là các tư bản hình thành trong xã hội

Làm tư bản cá biệt phát triển, tư bản xã hội Chỉ là sự bố trí lại tư bản xh đã có, quy mô tư
cũng phát triển theo bản xh vẫn như cũ
Thể hiện mối quan hệ tư bản-lao động Thể hiện mối quan hệ tư bản với nhau

- Mối quan hệ:


Tích tụ và tập trung tư bản có quan hệ mật thiết với nhau. Tích tụ tư bản làm tăng thêm quy mô
và sức mạnh của tư bản cá biệt, do đó cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, dẫn đến tập trung nhanh hơn.
Ngược lại, tập trung tư bản tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường bóc lột giá trị thặng dư, nên đẩy
nhanh tích tụ tư bản. Ảnh hưởng qua lại nói trên của tích tụ và tập trung tư bản làm cho tích luỹ
tư bản ngày càng mạnh. Tập trung tư bản có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Nhờ tập trung tư bản mà xây dựng được những xí nghiệp lớn, sử dụng được kỹ
thuật và công nghệ hiện đại.
- Vai trò: Tích tụ tư bản và tập trung tư bản làm tăng quy mô tư bản cá biệt,làm nhà tư bản có
thêm điều kiện mở rộng sản xuất, đổi mới và tăng cường phát triển sản xuất, năng suất lao động

9. Tại sao Việt Nam phát triển kinh tế nhiều thành phần?
Mỗi thành phần kinh tế đều là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân, bình đẳng trước
pháp luật, cùng tồn tại và phát triển, cùng hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Chỉ có như vậy mới có thể khai thác được mọi nguồn lực, nâng cao hiệu quả kinh tế, phát huy
được tiềm năng to lớn của các thành phần kinh tế, phát huy được tiềm năng to lớn của các thành
phần kinh tế vào sự phát triển chung của đất nước nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần
ngày càng tăng của các tầng lớp nhân dân

10. Liên hệ bản thân trong nền kinh tế thị trường


-Vị trí hiện tại của mình: sinh viên
-Khẳng định vị trí của bản thân: trong tương lai sẽ trở thành một giáo viên giáo viên
 Gián tiếp giúp phát triển nền kinh tế khi đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước  phải vững
vàng về chuyên môn, cố gắng trau dồi đầy đủ kĩ năng, phẩm chất của một người giáo viên
11. Liên hệ Việt Nam qua 4 quy luật kinh tế và giải pháp
❖ Quy luật giá trị
Hiện nay nước ta đang hội nhập theo nền kinh tế thế giới với chính sách mở cửa hợp tác
với các nước. Một trong những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế nước ta đó là quy
luật giá trị. Việc vận dụng quy luật giá trị được thể hiện trên những lĩnh vực như sau:
– Vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vực sản xuất.
Thứ nhất: Đối với việc hoạch toán kinh tế của các doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, mỗi doanh nghiệp là người sản xuất hàng hóa cạnh tranh
gay gắt với nhau, để đứng vững được trên thị trường, chiến thắng đối thủ cạnh tranh thì họ phải
tính đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua các hình thức giá trị, giá cả, lợi nhuận, chi
phí… Để có lợi nhuận, các doanh nghiệp phải tìm cách hạ thấp chi phí sản xuất bằng cách hợp lý
hóa sản xuất, tiết kiệm chi phí vật chất, tăng năng suất lao động… Để làm được điều đó, doanh
nghiệp phải nắm vững và vận dụng tốt quy luật giá trị trong hoạch toán kinh tế. Thời gian qua ta
thấy có rất nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, điều đó cho thấy các doanh nghiệp đã vận
dụng khá tốt quy luật giá trị vào hạch toán kinh tế.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, Nhà nước ta đã quyết
định cổ phần hóa phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước, và Nhà nước chỉ giữ lại một số ngành có
tính chất an ninh quốc gia. Các doanh nghiệp rồi sẽ dần chuyển thành các công ty cổ phần với
nhiều chủ sở hữu và mỗi cổ đông sẽ vì lợi ích của mình để đầu tư vào sản xuất, hạch toán kinh tế
sao cho lợi nhuận càng nhiều càng tốt.
Thứ hai: Đối với việc hình thành giá cả sản xuất
Tuy nhiên, trên thực tế giá cả hàng hóa chịu tác động của nhiều yếu tố như cung – cầu, cạnh
tranh, sức mua đồng tiền, giá các mặt hàng liên quan…
– Vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vực lưu thông hàng hóa.
Trong lĩnh vực lưu thông, quy luật giá trị yêu cầu trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá, tức
giá cả bằng giá trị. Dưới tác động quy luật giá trị, hàng hóa trong nền kinh tế sẽ được đưa từ nơi
có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, từ nơi cung nhiều đến nơi cầu nhiều. Thông qua sự biến
động về giá cả trên thị trường, luồng hàng hóa sẽ lưu thông từ đó tạo sự cân đối về nguồn hàng
giữa các vùng miền.

Đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, thông qua hệ thống
giá cả quy luật giá trị có ảnh hưởng nhất định đến việc lưu thông của một hàng hóa nào đó. Giá
mua cao sẽ khơi thêm nguồn hàng, giá bán hạ sẽ thúc đẩy mạnh việc tiêu thụ và ngược lại. Do đó
mà Nhà nước ta đã vận dụng vào việc định giá cả sát giá trị, xoay quanh giá trị để kích thích cải
tiến kỹ thuật, tăng cường quản lý. Không những thế Nhà nước ta còn chủ động tách giá cả khỏi
giá trị với từng loại hàng hóa trong từng thời kỳ nhất định, lợi dụng sự chênh lệch giữa giá cả và
giá trị để điều tiết một phần sản xuất và lưu thông, điều chỉnh cung cầu và phân phối. Giá cả
được coi là một công cụ kinh tế quan trọng để kế hoạch hóa sự tiêu dùng của xã hội.

❖ Quy luật cung - cầu


❖ Quy luật lưu thông tiền tệ: Vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ trong điều tiết tình trạng
lạm phát

Lạm phát chính là sự tăng giá một cách liên tục của hàng hóa và dịch vụ và sự mất giá trị của
một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác ở phạm vi nền kinh tế của một quốc gia hoặc trong
phạm vi thị trường toàn cầu. Nói cách khác lạm phát chính là sự mất giá của đồng tiền. Khi mức
giá chung của hàng hóa, dịch vụ tăng cao, trước đây 1 đơn vị tiền tệ có thể mua được nhưng khi
lạm phát nhiều hơn 1 đơn vị tiền tệ mới mua được sản phẩm, hàng hóa đó.
Một quốc gia phát triển là quốc gia có trình độ phát triển về mọi mặt đặc biệt là nền kinh tế. Và
một nền kinh tế phát triển thì trước hết tỷ trọng tiền mặt trong lưu thông phải thấp, tỷ trọng sử
dụng các loại hình thanh toán không dung tiền mặt phải cao. Việt Nam trước ngưỡng cửa của hội
nhập nền kinh tế thế giới, tuy còn là một nước nghèo, trình độ về mọi mặt còn rất kém so với các
nước.
Để tránh tụt hậu so với các nước về kinh tế, Chính phủ và NHNN cần phải nghiên cứu để đưa ra
những chính sách hợp lý để giảm tỷ trọng tiền mặt trong lưu thông, nâng cao tỷ trọng thanh toán
qua ngân hàng. Việc nghiên cứu thực trạng lưu thông tiền mặt và đưa ra các biện pháp giải quyết
hữu hiệu vấn đề trên đóng vai trò rất quan trọng
1.Ổn định tiền tệ
Là giải pháp tình thế và chiến lược của nhà nước nhằm hạn chế và đi đến chấm dứt lạm phát,
khôi phục lại giá trị của giấy bạc tạo điều kiện cho nền kinh tế- xã hội phát triển bình thường.
- Chống lạm phát là một chính sách kinh tế chiến lược của nhà nước nhưng tuỳ theo điều kiện
của mỗi quốc gia trong từng thời kì ,cnhính phủ có thể áp dụng những giải pháp khác nhau .
2. Giải pháp khắc phục lạm phát
a.Những giải pháp cấp bách .
-Những biện pháp chống lạm phát cấp bách còn gọi là những biện pháp tình thế, những biện
pháp này được áp dụng với mục đích giảm tức thời “cơn sốt lạm phát”, để có cơ sở áp dụng
những biện pháp ổn định lâu dài.
-Khi xảy ra tình trạng lam phát phi mã hoặc siêu lạm phát ,thì những biện pháp tình thế để ổn
định lưu thông tiền tệ thường được áp dụng là :
+Ngừng phát hành tiền vào lưu thông: biện pháp này còn gọi là “đóng băng tiền tệ”. Nghĩa là các
tác nhân và thể nhân có bao nhiêu tiền thì sử dụng bấy nhiêu “tiền tệ”. Ngân hàng phát hành tạm
ngừng thực hiện các nghiệp vụ “tái chiết khấu”và “tái cầm cố”. Ngay cả số bội chi của ngân sách
cũng không được sử dụng vốn phát hành. Mục đích biện pháp này không cho tiền tăng thêm
trong lưu thông.
+Tăng lãi suất tiền gửi,đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm
Biện pháp này có tác dụng thu hút tiền mặt của dân cư và doanh nghiệp và ngân hàng,giảm “sức
ép” đối với hàng hoá trên thị trường. Để hút mạnh tiền mặtngoài lưu thông vào qũi tiết kiệm thì
mức lãi suát phải đủ “hấp dẫn”. Đến khi tỉ lệ lạm phát giảm thì ngân hàng cũng giảm dần lãi suất
tiết kiệm.
+Cắt giảm khoản chi phí chưa cấp bách từ ngân sách :như khoản chi phí cho văn hoá giáo dục, y
tế...chưa thật cấp thiết. Hoãn được khoản chi phí này cũng làm “dịu” bớt tình hình lạm phát.
+Bán ngoại tệ và vàng nhằm mục đích “hút” tiền mặt từ lưu thông vào ngân hàng.
+Khuyến khích tự do mậu dịch, nới lỏng thuế quan nhằm mục đích tăng quỹ hàng hoá tiêu
dùng,cân đối với số tiền lưu thông.
+Vay và xin viện trợ từ bên ngoài.
+Cải cách tiền tệ: Đây là biện pháp tình thế bắt buộc khi lạm phát ở mức độ cao, mà các biện
pháp trênchưa đưa lại kết quả mong muốn.

b.Những biện pháp ổn định tiền tệ chiến lược.


Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển kinh tế quốc dân. Tổng thể các biện
pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế của đất nước, xác lập cơ sở ổn định tiền tệ vững chắc.Trong
thực tiễn, biện pháp thường được áp dụng là:
-Xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá của nền kinh tế quốc dân.
Xuất phát từ nguyên lý “lưu thông hàng hoá là tiền đề của lưu thông tiền tệ”,nên nếu quỹ hàng
hoá được tạo ra với số lượng lớn,phong phú về chủng loại,giá cả ổn định... thì đây sẽ là tiền đề
vững chắc nhất để ổn định lưu thông tiền tệ.Thực tiễn xũng cho thấy những nước có nền kinh tế
thị trường phát triển là những nước có đồng tiền mạnh và là những ngoại tệ tư do chuyển đổi của
thế giới.Phấn đấu để có được kết quả này là việc làm không phải đơn giản. Nội dung cốt lõi ở
đây là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa “kế hoạch và thị trường” trong thời kì dài và từng giai đoạn
phát triển của nền kinh tế quốc dân.
-Tạo ngành sản xuất hàng hoá “mũi nhọn” cho xuất khẩu.
Xuất khẩu là hoạt động kinh tế quan trọng và không thể thiếu được trong điều kiện mở rộng giao
lưu kinh tế quốc tế quốc tế hiện nay.Hoạt động này mở rộng và phát triển sẽ có nguồn thu ngoại
tệ quan trọng nhất để nhập hàng hoá từ bên ngoài,bổ sung cho khối lượng hàng trong nước, tạo
cơ sở để ổn định tiền tệ. Tuỳ thuộc vào điều kiện đặc thù về tài nguyên, lao động, xã hội...mỗi
quốc gia phải tự tạo cho mình một ngành sản xuất mũi nhọn mang tính độc quyền quốc tế, ngành
“mũi nhọn” này sẽ đóng vai trò quyết định trong việc tạo nguồn thu bằng ngoại tệ cảu quốc gia.
-Cắt giảm biên chế, kiện toàn bộ máy hành chính.
Đây là biện pháp hành chính với mục đích giảm nhẹ các khoản chi từ ngân sách nhà nước. Giảm
nhẹ được những khoản chi này sẽ mang lại hiệu quả thiết thực đối với sự ổn định lưu thông tiền
tệ.ở Việt Nam vấn đề này được quan tâm
giảm bớt số đầu doanh nghiệp thuộc nhà nước quản lí. Đồng thời tinh giảm số nhân viên hành
chính,viên chức và công chức.Như vậy số chi tiền lương từ ngân sách nhà nước sẽ giảm đi.
-Soát xét thường xuyên chính sách thu, chi của nhà nước:nhằm mục đích tăng thêm nguồn thu,
không bỏ sót khoản thu, giảm số chi tiết kiệm khoản chi, ổn định ngân sách vững chắc.Nếu ngân
sách thường xuyên cân đối,có bội thu thì chắc chắn lưu thông tiền tệ sẽ ổn định.
-Lạm phát để chống lạm phát.
Đây là biện pháp có vẻ như “không hợp lí”, nhưng sẽ tạo ra sự hợp lí để ổn định lưu thông tiền
tệ. Đối với những quốc gia còn nhiều tièm năng về lao động,đất đai,tàI nguyên...nhưng chưa
được khai thác vì thiếu vốn,nhà nước có thể mạnh dạn phát hành để đầu tư và biết sử dụng nguồn
vốn này đúng hướng và đúng lúc,thì nó sẽ là yếu tố liên kết các tiềm năng tên với nhau.Chắc
chắn sự “lạm phát” sẽ tạo ra kết quả ổn định tiền tệ như mong muốn.
-Huy động vốn từ người dân

KẾT LUẬN
Một quốc gia phát triển là quốc gia có trình độ phát triển về mọi mặt đặc biệt là nền kinh tế. Và
một nền kinh tế phát triển thì trước hết tỷ trọng tiền mặt trong lưu thông phải thấp, tỷ trọng sử
dụng các loại hình thanh toán không dung tiền mặt phải cao. Việt Nam trước ngưỡng cửa của hội
nhập nền kinh tế thế giới, tuy còn là một nước nghèo, trình độ về mọi mặt còn rất kém so với các
nước.
Để tránh tụt hậu so với các nước về kinh tế, Chính phủ và NHNN cần phải nghiên cứu để đưa ra
những chính sách hợp lý để giảm tỷ trọng tiền mặt trong lưu thông, nâng cao tỷ trọng thanh toán
qua ngân hàng. Việc nghiên cứu thực trạng lưu thông tiền mặt và đưa ra các biện pháp giải quyết
hữu hiệu vấn đề trên đóng vai trò rất quan trọng.

❖ Quy luật cạnh tranh


Trong bối cảnh hội nhập kinh tế như hiện nay, việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên
quy mô toàn cầu là tất yếu khách quan và áp lực cạnh tranh này tác động lên tất cả các doanh
nghiệp chứ không chỉ riêng Việt Nam. Nếu xét trên góc độ vĩ mô: việc hội nhập kinh tế quốc tế
hay ký kết các hiệp định thương mại tự do mang lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp, nhưng
cũng có nhiều thách thức. Ví dụ như, theo hiệp định gần nhất vừa mới có hiệu lực tại Việt Nam
từ ngày 14/1/2019 là Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bô ̣ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
thì có 3 nước lần đầu tiên Việt Nam có quan hệ hiệp định thương mại tự do là Canada, Mexico,
Peru. Điều này mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường mới, có cơ hội
đa dạng hóa nguồn nguyên vật liệu đầu vào (như sợi trong ngành Dệt may),… Bên cạnh đó,
doanh nghiệp cũng phải đối mặt với các thách thức, như về năng lực cạnh tranh còn yếu của một
số ngành dịch vụ, quảng cáo, các mặt hàng nông sản như thịt lợn, thịt gà...; về thể chế chính sách
của Việt Nam chưa hoàn thiện, chất lượng nguồn lao động chưa cao… Hội nhập là cơ hội hay
thách thức thì phụ thuộc vào khả năng nắm bắt cơ hội và khả năng vượt qua thách thức của Việt
Nam. Mấu chốt quan trọng đầu tiên để Việt Nam có thể nâng cao năng lực cạnh tranh đó chính là
cải thiện chất lượng thể chế - chính sách, cải thiện môi trường kinh doanh để hỗ trợ các doanh
nghiệp phát triển.
❖ Giải pháp để thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay
Thứ nhất: tăng cường sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước về mặt chính sách đầu tư
trong quá trình thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp.
Theo mục tiêu của kế hoạch phát triển DNNVV (doanh nghiệp nhỏ và vừa) 2006-2010 là đến
năm 2010, các DNVVN tạo thêm được 2,5 triệu chỗ làm việc mới, xuất khẩu trực tiếp 3-6%.
Cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của các DNVVN, cơ chế chính sách của Nhà nước cần được
tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và thực sự tạo điều kiện hỗ trợ sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp
trên thương trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên, để những chính sách hỗ trợ thực sự thiết
thực cho doanh nghiệp thì các cơ quan quản lý cần có có nhiều biện pháp cụ thể, đồng bộ, thống
nhất từ trung ương đến địa phương để tăng cường sức cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển năng
động và có hiệu quả của doanh nghiệp.
Thứ hai: Mở rộng khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp.Trong điều kiện hiện nay, thiếu vốn
là một trong những khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp. Để giải quyết vấn đề này, một mặt các
doanh nghiệp cần chủ động đa dạng hoá cơ cấu vốn để không phụ thuộc quá nhiều vào vốn vay
ngân hàng Mặt khác, rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc tăng cường nguồn lực cho các
ngân hàng và cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng cho doanh nghiệp thông qua việc hỗ trợ doanh
nghiệp về lãi suất, bảo lãnh tín dụng và năng lực xây dựng phương án kinh doanh.
Thứ ba: Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực điều hành kinh tế ở cấp địa
phương đồng thời tăng cường năng lực công tác điều tiết và phối hợp vĩ mô của các bộ, ngành
trung ương là một yêu cầu quan trọng hiện nay. Cần tập trung hoàn chỉnh sớm và nâng cao chất
lượng các chiến lược, quy hoạch, chính sách phát triển kinh tế ngành và liên kết vùng, tăng
cường hệ thống thông tin kinh tế, đào tạo cán bộ để hỗ trợ cho hoạt động điều hành kinh tế của
các cơ quan chính quyền, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tại các địa phương
trên cả nước phát triển đồng đều.
Thứ tư: Hỗ trợ tư vấn về thiết bị, công nghệ mới hiện đại, thích hợp và cung cấp thông tin công
nghệ, thị trường cho các doanh nghiệp, tạo lập và phát triển thị trường công nghệ, tạo điều kiện
để các doanh nghiệp này tăng cường cạnh tranh trong sản xuất, chế biến sản phẩm Chính phủ cần
thành lập một số tổ chức hỗ trợ tư vấn (bằng những hình thức đa dạng trong các lĩnh vực, ngành
nghề khác nhau, giúp các doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, có
thêm một tiềm lực mới trong công cuộc hội nhập quốc tế.

12. Liên hệ việt nam trong sản xuất giá trị thặng dư
Từ việc nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư của Mác và vận dụng lý luận này trong việc phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam có thể rút ra một số kết luận sau đây:
Một là, học thuyết giá trị thặng dư - học thuyết về bản chất bóc lột và địa vị lịch sử của chủ
nghĩa tư bản vẫn là cơ sở phương pháp luận để nhận thức đúng chủ nghĩa tư bản hiện đại. Học
thuyết đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng trong quá trình xây dựng nền kinh tế trong
thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
Hai là, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nền kinh tế nước ta trong một chừng mực nào đó,
quan hệ bóc lột chưa thể xóa bỏ ngay. Chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức
sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó nước ta còn phải chấp nhận sự
hiện diện của nó.
Ba là, đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước phải được thể chế hóa thành luật
để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển, góp phần xây
dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bốn là, phát triển kinh tế thị trường nhưng phải bảo vệ được quyền lợi chính đáng của cả người
lao động và các chủ doanh nghiệp bằng luật và bằng chế tài cụ thể phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của nền kinh tế.

13. Liên hệ việt nam qua tích lũy tư bản


Đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, nhất là hơn 20 năm
đổi mới vừa qua, tốc độ tăng trưởng khá cao, sản xuất phát triển, có tích lũy từ nội bộ, đời sống
nhân dân được cải thiện rõ rệt. Để giữ được tốc độ tăng trưởng cao trong những năm tới sẽ phụ
thuộc rất nhiều vào việc tích lũy tư bản, huy động các nguồn lực để mở rộng quy mô và phát
triển nền kinh tế. Không chỉ chính phủ mà các doanh nghiệp thậm chí là các cá nhân cũng phải
thực hiện tích lũy một cách hiệu quả. Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển nên vấn đề về
tích lũy tư bản hay quy mô tích lũy thực sự là một trong những vấn đề cần được đặt lên hàng
đầu. Để nền kinh tế phát triển thì trước hết phải nâng cao trình độ lực lượng sản xuất, thực hiện
tái sản xuất mở rộng. Đối với nền kinh tế “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của
nước ta thì cần phải giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, tức là nâng cao trình độ sản xuất
của các doanh nghiệp, thúc đẩy và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển. Doanh nghiệp
phát triển thì nền kinh tế ngày càng phát triển và hoàn thiện, đất nước phát triển, đời sống nhân
dân được cải thiện. Nếu không tích lũy và huy động nguồn lực tư bản cho quốc gia mình thì nền
kinh tế xã hội quốc gia đó sẽ không phát triển mạnh mẽ và cường thành được. Đối với Việt Nam
tích lũy luôn là điều kiện tiên quyết để tái sản xuất mở rộng. Có tích lũy mới có thể làm cho nền
kinh tế tăng trưởng và phát triển, đưa đất nước vững vàng đi theo con đường chủ nghĩa xã hội mà
chúng ta đã lựa chọn. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đang tiến hành công cuộc
công nghiệp hóa - hiện đại hóa thì nhu cầu về vốn để xây dựng các công trình nền tảng và cái
tiến kỹ thuật áp dụng khoa học tiên tiến là càng cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết. Cùng
với đó nước ta cũng cần phải luôn chủ động, nắm bắt cơ hội làm ăn, hợp tác với các doanh
nghiệp nước ngoài để tạo được nguồn vốn nước ngoài đổ về các doanh nghiệp trong nước.

Giải pháp tăng cường tích lũy cho nền kinh tế nước ta. (mạng)
Trong điều kiện đất nước ta, từ sản xuất nhỏ quá độ lên CNXH, chúng ta không còn cách nào
khác là một mặt huy động toàn bộ sức lực của mọi người, mọi ngành, mọi cấp để tăng gia sản
xuất thúc đẩy sản xuất phát triển; mặt khác, phải triệt để tiết kiệm nhằm tích lũy vốn từ nội bộ
nền kinh tế nước ta cho sự nghiệp xây dựng phát triển nền kinh tế sản xuất XHCN.

Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tích lũy - tiêu dùng
Vì mục tiêu của xã hội XHCN là không ngừng tái sản xuất mở rộng, nâng cao mức sống của
người dân lao động nên chúng ta cần phải xác định cho được giữa quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng.
Tỷ lệ cụ thể giữa quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng phụ thuộc vào nhiều yếu tố Tương quan giữa tích
lũy và tiêu dùng được coi là tối ưu khi sử dụng được các tài sản hiện có, thực hiện được mức tích
lũy có thể đảm bảo phát triển sản xuất với tốc độ cao và ổn định mà cuối cùng vẫn đảm bảo tăng
tiêu dùng và tích lũy không đến mức cao nhất.
Việc phân chia tỉ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng không cố định mà thay đổi tùy thuộc vào nhu cầu
của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Đồng thời chúng ta cũng phải khuyến khích tất cả
mọi người dân đều ra sức tiết kiệm, tích lũy.
Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn
Để sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, trước hết chúng ta phải xác định rõ từng đối tượng được cấp
vốn, từ đó phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý cho các ngành nhằm tạo ra hiệu quả sử dụng vốn
cao hơn.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ nên tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước để doanh nghiệp có trách nhiệm hơn với đồng vốn của mình và tạo điều kiện cho các chủ
doanh nghiệp phát huy mọi khả năng
Yếu tố con người là một yếu tố quan trọng góp phần giúp đồng vốn được sử dụng hiệu quả. Vì
vậy cần đào tạo những đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ năng lực và trách nhiệm cao. Đồng
thời Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đội ngũ cán bộ quản lý có thể phát huy mọi
năng lực của mình.
Tích lũy vốn trong nước
Nâng cao hiệu quả tích lũy, tích tụ và tập trung vốn qua ngân sách nhà nước. Tăng lượng vốn
thông qua các tổ chức tín dụng và ngân hàng. Sản xuất hàng hoá phát triển, lưu thông hàng hoá
ngày càng mở rộng, trong xã hội xuất hiện người thì có vốn nhàn rỗi, người thì cần vốn để tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này giải quyết bằng cách các ngân hàng sẽ đứng
ra huy động vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, dân cư sau đó sẽ cung ứng lại cho nơi
cần vốn để tiến hành hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh.
Để thực hiện được ngày càng tốt, các ngân hàng cần tự đổi mới phương thức nghiệp vụ. Đồng
thời chính phủ cũng phải có biện pháp nâng cao mức lãi suất nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn
nhàn rỗi trong dân. Đặc biệt hệ thống ngân hàng cần kết hợp chặt chẽ với các tổ chức tín dụng để
tích tụ và tập trung vốn được thuận tiện. Chúng ta có thể huy động vốn qua các công ty bảo
hiểm, xổ số kiến thiết, sự tài trợ của các nhà doanh nghiệp… Mặt khác cần tích tụ và tập trung
các nguồn vốn trong nước từ các nguồn tài nguyên quốc gia và từ những tài sản công còn bỏ phí.
Và một biện pháp mới được áp dụng ở nước ta hiện nay là thu hút vốn thông qua thị trường
chứng khoán.. Tuy nhiên để có thể phát triển thị trường chứng khoán, trước hết chúng ta phải
tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước và đồng thời phải
phát triển hệ thống ngân hàng thương mại.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Ngoài nguồn vốn tích lũy trong nước thì trong hoàn cảnh hiện nay khi nền kinh tế mở cửa hội
nhập vào nền kinh tế thế giới thì một nguồn vốn có vai trò đặc biệt quan trọng khác là nguồn vốn
đầu tư nước ngoài, bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp, trong đó vốn đầu tư trực tiếp (FDI)
có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế trong nước. Để thực hiện được
chiến lược này cần phải thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ của chính phủ, trong đó một biện
pháp quan trọng là phải cải thiện môi trường đầu tư thích ứng với điều kiện cạnh tranh mới tạo
sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Do vậy chúng ta phải nhanh chóng sửa đổi và bổ sung bộ luật
đầu tư nước ngoài phù hợp cho tình hình mới của nước ta hiện nay đảm bảo cho quyền lợi nhà
đầu tư và cho chính chúng taNhiều chuyên gia nước ngoài cũng lạc quan về sức bật đáng kể của
kinh tế Việt Nam

14. Liên hệ bản thân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
-Sinh viên, thế hệ trẻ : sáng tạo, năng động
Phát huy tính tích cực, sáng tạo, tìm tòi, nghiên cứu, phát minh, đẩy mạnh ứng dụng khoa học
công nghệ vào trong học tập để có thể khai thác được lợi thế, có nguồn tài liệu, áp dụng vào cuộc
sống
→ học giỏi hơn, thuận lợi hơn trong công việc

15. Liên hệ bản thân trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
- Học tập, rèn luyện
- Giữ vững lập trường tư tưởng, chính trị
-Trang bị, trau dồi năng lực ngoại ngữ, tin học, kỹ năng mềm
- Tìm hiểu về luật pháp quốc tế
16. Tại sao hàng hóa sức lao động lại có tính chất đặc biệt? Từ đó, anh/chị hãy đề xuất một
số giải pháp để nâng cao giá trị sức lao động của người lao động?
❖ Tại sao hàng hóa sức lao động lại có tính chất đặc biệt?
Không giống ᴠới những loại hàng hoá thông thường, hàng hoá ѕức lao động là loại hàng hoá đặc
biệt. Vì nó được hình thành bởi con người ᴠới những nhu cầu phức tạp ᴠà đa dạng, ᴠề cả ᴠật chất
lẫn tinh thần theo quá trình phát triển của хã hội.
Cũng chính ᴠì con người là chủ thể của ѕức lao động, nên ᴠiệc cung cấp hàng hoá đặc biệt nàу ѕẽ
phụ thuộc ᴠào nhu cầu thực tế của cá nhân ᴠới những đặc điểm riêng biệt ᴠề: tâm lý, nhận thức,
ᴠăn hoá, khu ᴠực địa lý, môi trường ѕinh hoạt,…
Bên cạnh đó, hàng hoá ѕức lao động là một loại hàng hoá tạo ra giá trị thặng dư cho хã hội. Điều
nàу thể hiện ở chỗ người lao động luôn tạo ra những hàng hoá khác có giá trị lớn hơn giá trị của
ѕức lao động để đáp ứng nhu cầu ᴠà mục tiêu của người ѕử dụng lao động.
Tóm lại, hàng hoá ѕức lao động là hàng hoá đặc biệt khi tồn tại đủ hai điều kiện ᴠề ѕự tự do ᴠà
nhu cầu bán ѕức lao động. Để duу trì điều kiện cho hàng hoá ѕức lao động tạo ra những giá trị
thặng dư, người ѕử dụng lao động phải đáp ứng những nhu cầu đặc biệt ᴠề tâm lý, ᴠăn hoá ᴠà
khu ᴠực địa lý,…

You might also like