You are on page 1of 15

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ CHÍNH


TRỊ MÁC – LÊNIN (222)

ĐỀ TÀI: Lý luận về kinh tế hàng hóa của C.Mác. Ý nghĩa đối


với Việt Nam.

Họ và tên SV: Nguyễn Vũ Hoàng Sơn


Lớp tín chỉ: Kinh tế chính trị Mác Lê Nin_Phân tích KD
(BA 64)_AEP(222)_13
Mã SV: 11225643

GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU

....................................................................................
HÀ NỘI, NĂM 2023
MỤC LỤC

MỤC LỤC ...........................................................................................................2


A. ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................3
B. NỘI DUNG .....................................................................................................3
I. LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ HÀNG HÓA ............................................................................. 3
1. KINH TẾ HÀNG HÓA ..................................................................................................... 3
1.1. Điều kiện hình thành kinh tế hàng hóa .................................................................. 4
1.2. Ưu thế của kinh tế hàng hóa so với kinh tế tự nhiên ............................................. 4
2. KINH TẾ HÀNG HÓA – QUY LUẬT VẬN ĐỘNG VÀ CÁC NHÂN TỐ TẠO THÀNH ........ 5
2.1. CÁC NHÂN TỐ QUAN TRỌNG CẤU THÀNH NÊN KINH TẾ HÀNG HÓA ............................. 5
2.1.1. Hàng hóa ............................................................................................................. 5
2.1.2. Tiền tệ.................................................................................................................. 6
2.2. QUY LUẬT VẬN ĐỘNG NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA .......................................................... 7
2.3 Ưu thế và khuyết tật của kinh tế hàng hóa.............................................................. 8
2.3.1. Ưu thế .................................................................................................................. 8
2.3.2. Khuyết tật ............................................................................................................ 9
II. LIÊN HỆ THỰC TẾ Ở VIỆT NAM ............................................................................ 10
1. TÌNH HÌNH KINH TẾ CỦA VIỆT NAM BUỘC CHÚNG TA PHẢI CHUYỂN SANG PHÁT TRIỂN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ HÀNG HÓA LÀ MỘT NHU CẦU KHÁCH QUAN .......................................... 10
2. TIỀM NĂNG VÀ HẠN CHẾ CỦA NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM. ........................... 11
2.1. Tiềm năng............................................................................................................. 11
2.2. Hạn chế ................................................................................................................ 11
3. NHỮNG KẾT QUẢ KINH TẾ NƯỚC TA ĐẠT ĐƯỢC TỪ NHỮNG NĂM ĐỔI MỚI CHO ĐẾN NGÀY
NAY ..................................................................................................................................... 12
4. KINH TẾ HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM - ĐIỀU KIỆN CÙNG GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN .......... 13
C. KẾT LUẬN ...................................................................................................14
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................15

2
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đối với bất kỳ quốc gia nào, kinh tế thị trường cũng đóng vai trò chủ đạo, ảnh hưởng
không nhỏ đến các hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Sau hơn 20 năm hoàn toàn đổi
mới, đứng trước những thử thách khó khăn, tình hình vô cùng khó khăn, phức tạp, nhưng
Đảng và nhân dân Việt Nam đã đạt nhiều thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
Nguyên nhân cơ bản của thắng lợi này là do Đảng và Nhà nước ta đã kiên quyết chuyển
từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự chỉ đạo của Nhà nước và định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đây là bước ngoặt quan trọng thể hiện quyết định sáng suốt của Đảng và nhà nước
ta, làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội trong nước. Nhìn lại những năm thực hiện tái cơ
cấu, có thể thấy, trong một thời gian dài, các nước xã hội chủ nghĩa, kể cả nước ta, nhận
thức chưa đúng về vai trò của sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường, các mặt của kinh tế
hàng hoá, phủ nhận quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Do đó, chúng ta không thể xây dựng động
lực, ra sức mở rộng sản xuất; vô tình hạn chế ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất,
năng suất tăng chậm, gây ra sự lộn xộn, chia cắt trong quá trình phân phối và lưu thông,
đẩy nền kinh tế vào tình trạng trì trệ.
Như vậy, từ việc nghiên cứu lý luận Mác - Lênin về kinh tế thị trường, chúng ta sẽ có
cái nhìn khái quát hơn về vai trò và hạn chế của nền sản xuất thị trường để làm sáng tỏ
vấn đề cấp bách hiện nay của nước ta trong công cuộc đổi mới, đó là phát triển nền kinh
tế dựa vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng xã hội chủ
nghĩa.

B. NỘI DUNG
I. Lý luận về Kinh tế hàng hóa
1. Kinh tế hàng hóa
Kinh tế hàng hóa là mô hình kinh tế - xã hội được thực hiện bên ngoài thị trường
thông qua hàng hóa. Đây là nền kinh tế có sự phân công lao động và trao đổi hàng hóa

3
giữa người mua và người bán; là hình thức trái ngược với hình thức tự cung tự cấp, tự sản
xuất và tự tiêu dùng.
Có thể hiểu một cách đơn giản, A sản xuất được nhiều gạo và B sản xuất được nhiều
thịt, A đổi gạo cho B để lấy thịt và ngược lại. Sản phẩm gạo và thịt ở đây chính là hàng
hóa được trao đổi. Nền kinh tế hình thành trên sự trao đổi này chính là kinh tế hàng hóa.
1.1. Điều kiện hình thành kinh tế hàng hóa
Kinh tế hàng hóa ra đời và tồn tại dưới nhiều hình thái kinh tế - xã hội, gắn liền với
hai tiền đề:
Thứ nhất: Tồn tại sự phân công lao động trong xã hội. Phân công lao động xã hội
gắn liền với chuyên môn hóa sản xuất và là biểu hiện của sự phát triển của lực lượng sản
xuất, làm tăng năng suất lao động. Trong cuộc sống, nhu cầu tất yếu đòi hỏi nhiều loại
sản phầm khác nhau, do đó người sản xuất này phải phụ thuộc vào người sản xuất khác
và phải trao đổi sản phẩm. Ví dụ, người nông dân sản xuất gạo và người chăn nuôi sản
xuất thịt. Người nông dân cần thịt và người chăn nuôi cần gạo, do đó họ phải tiến hành
trao đổi sản phẩm. Tuy nhiên, theo C.Mác, đó mới là điều kiện cần chứ chưa phải là điều
kiện đủ để hình thành kinh tế hàng hóa.
Thứ hai: Tồn tại chế độ tư hữu hoặc những hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản
xuất hàng hóa. Tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất khiến cho sản phẩm
khác nhau, làm cho người sản xuất hàng hóa độc lập với nhau và mọi người có quyền
trao đổi sản phẩm của mình với người khác. Đây là điều kiện đủ để sản xuất hàng hóa ra
đời và tồn tại.
Xã hội loài người càng phát triển, sự phân chia lao động xã hội và sự tách biệt về sở
hữu càng sâu sắc, hàng hóa sản xuất ra càng phong phú. Công tác xã hội làm cho người
sản xuất lệ thuộc vào nhau và tư hữu phân chia họ làm cho những người sản xuất độc lập
với nhau. Sản xuất hàng hóa chỉ có thể hình thành nếu có cả hai điều kiện trên. Nếu thiếu
một trong hai điều kiện này thì không có sản xuất hàng hóa và sản phẩm lao động không
trở thành hàng hóa.
1.2. Ưu thế của kinh tế hàng hóa so với kinh tế tự nhiên

4
Nền kinh tế hàng hóa là sự phát triển cao hơn một bậc so với nền kinh tế tự nhiên.
Trong nền kinh tế tự cung tự cấp không tồn tại sự trao đổi hàng hóa, ai làm bao nhiêu
hưởng bấy nhiêu. Sản xuất hàng hoá tồn tại và tiếp tục phát triển ở nhiều xã hội là sản
phẩm của lịch sử phát triển sản xuất của loài người. Do đó, nền kinh tế hàng hóa có nhiều
ưu điểm và là một loại hình hoạt động kinh tế tiên tiến hơn. So với sản xuất tự cung tự
cấp, nền kinh tế hàng hóa sản xuất theo chiều sâu, hợp tác chặt chẽ hơn, tất yếu góp phần
hình thành nền kinh tế thị trường. Để trao đổi và mua bán được, ta cần sản xuất hàng hóa,
điều này làm thúc đẩy sự phát triển của xã hội và nền kinh tế hàng hóa. Kinh tế hàng hóa
phát triển nghĩa là các phạm trù hàng hóa, tiền tệ và thị trường ngày càng mở rộng. Dung
lượng và cấu trúc thị trường được hoàn thiện và mở rộng đòi hỏi các mối quan hệ kinh tế
được tiền tệ hóa. Khi này, kinh tế thị trường, hình thức kinh tế hàng hóa phát triển nhất,
được hình thành.
2. Kinh tế hàng hóa – Quy luật vận động và các nhân tố tạo thành
2.1. Các nhân tố quan trọng cấu thành nên kinh tế hàng hóa
2.1.1. Hàng hóa
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
thông qua trao đổi, mua bán.
Hàng hóa có hai dặc trưng là giá trị sử dụng (sử dụng/tiêu dùng) và giá trị (trao đổi).
Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thỏa mãn những nhu cầu nhất định
của con người, thể hiện ở hình thức sử dụng hay tiêu dùng. Nhu cầu đó có thể là nhu cầu
vật chất hoặc nhu cầu tinh thần, có thể là tiêu dùng cá nhân, có thể là nhu cầu cho sản
xuất. Giá trị sử dụng của một sản phẩm chủ yếu dựa trên các thuộc tính tự nhiên của nó.
Đã là hàng hóa được đưa ra thị trường thì nhất thiết phải có giá trị sử dụng. Trong kinh tế
hàng hóa, giá trị sử dụng là phương tiện trao đổi giá trị. Theo Marx, nếu muốn hiểu giá trị
của hàng hóa, người ta phải đi từ giá trị trao đổi. Nếu giá trị thay đổi thì giá trị trao đổi
cũng thay đổi, giá trị trao đổi là hình thức xuất hiện của giá trị. Sự mâu thuẫn này được
thể hiện ở chỗ:
- Khi là giá trị sử dụng thì hàng hóa khác nhau về chất, nhưng khi là giá trị thì
với tất cả hàng hóa đều giống nhau về chất.

5
- Quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng khác nhau theo không, thời gian.
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa: Marx là người đầu tiên lý giải được
tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Ta gọi chúng là lao động trừu tượng và
lao động cụ thể.
Lao động trừu tượng là lao động hao phí của người sản xuất hàng hóa nói chung về
trí lực, cơ bắp, thể chất và tinh thần, nếu chúng ta bỏ qua sự đa dạng của các hình thức
lao động cụ thể. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa ,vì vậy nó là một phạm
trù lịch sử. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng không có hai thứ lao động kết tinh trong hàng hóa,
chỉ có lao động của người sản xuất hàng hóa có tính hai mặt. Trong sản xuất hàng hoá
giản không phức tạp, tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là biểu hiện của mâu
thuẫn giữa tư nhân và lao động xã hội của những người sản xuất hàng hoá, là mâu thuẫn
cơ bản trong sản xuất hàng hoá giản đơn.
Lao động cụ thể là lao động sản xuất vật chất của con người, nó tồn tại dưới dạng
một hoạt động nghề nghiệp cụ thể. Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn, liên quan
chặt chẽ tới lao động sản xuất vật chất của con người. Xã hội càng phát triển, phân công
xã hội càng phức tạp, xuất hiện càng nhiều ngành, nghề, các hình thức lao động cụ thể
càng đa dạng, càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau.
Mâu thuẫn giữa lao động trừu tượng và lao động cụ thể xảy ra khí sản phẩm do
người sản xuất không phù hợp với nhu cầu xã hội hoặc khi mức hao phí lao động cá biệt
cao hơn mức hao phí mà xã hội chấp nhận được. Khi đó, một số hàng hóa không thể bán
được, dẫn tới một số hao phí lao động cá biệt không được thừa nhận, tạo ra nguy cơ
khủng hoảng tiềm ẩn.
Lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động đã hao phí để tạo ra hàng hóa, được
tính bằng thời gian lao động được xã hội chấp nhận. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng
giá trị của hàng hóa bao gồm: năng suất lao động và tính chất phức tạp của lao động.
2.1.2. Tiền tệ
Nguồn gốc của tiền tệ: Giá trị của hàng hoá rất trừu tượng, nó chỉ bộc lộ ra ngoài qua
giá trị trao đổi, giá trị của hàng hoá biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả. Tiền là kết quả của

6
quá trình phát triển từ thấp tới cao của giá trị, gắn liền với sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Các hình thái của quá trình phát triển, đó là:

Hình thái giá trị Hình thái giá trị


Hình thái giá trị
giản đơn hoặc toàn phần hoặc Hình thái tiền
chung
ngẫu nhiên giá trị mở rộng

Bản chất của tiền tệ chính là vật ngang giá chung, là hàng hoá đặc biệt phản ảnh lao
động xã hội và mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.
Chức năng của tiền tệ:
- Thước đo giá trị
- Phương tiện lưu thông
- Phương tiện cất trữ
- Phương tiện thanh toán
- Tiền tệ thế giới
2.2. Quy luật vận động nền kinh tế hàng hóa
Quy luật giá trị
Trao đổi hàng hoá phải dựa vào giá trị, đây là nội dung của quy luật giá trị. Quy luật
giá trị là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hóa. Quy luật giá trị được áp dụng ở nơi sản
xuất ra hàng hoá, điều tiết sản xuất và trao đổi trong nền kinh tế hàng hóa. Nội dung của
luật này được thể hiện thông qua việc sản xuất và lưu hành. Trong sản xuất, đối với thời
gian hao phí cá biệt thì hầu hết là tương đương với thời gian lao động cần thiết. Đối với
toàn xã hội thì tổng thời gian hao phí cá biệt bằng tổng thời gian lao động cần thiết của xã
hội. Trong lưu thông, giá cả hàng hóa có thể lên xuống nhưng phải xoay quanh trục giá
trị (do ảnh hưởng của quan hệ cung - cầu). Đối với tổng hàng hoá trên phạm vi xã hội, giá
trị của nó được biểu hiện: Tổng giá cả hàng hoá bằng tổng giá trị hàng hoá. Từ nội dung
của quy luật giá trị, ta thấy rõ tác dụng của nó đối với nền kinh tế hàng hóa.
Quy luật cung - cầu
Trên thị trường, cung - cầu là tồn tại khách quan có mối quan hệ hữu cơ với nhau,
thường xuyên tác động lẫn nhau, đồng thời cũng thống nhất với nhau. Quy luật cung -

7
cầu có tác dụng điều tiết quan hệ giữa sản xuất và lưu thông hàng hóa; làm thay đổi cơ
cầu và quy mô thị trường, ảnh hưởng tới giá cả của hàng hóa.
Quy luật lưu thông tiền tệ
Quy luật lưu thông tiền tệ yêu cầu việc lưu thông tiền tệ phải căn cứ trên yêu cầu của
lưu thông hàng hóa và dịch vụ. Việc đưa số lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong mỗi
thời kỳ nhất định phải thống nhất với lưu thông hàng hóa, nếu không có thể dẫn tới trì trệ
và lạm phát.
Quy luật cạnh tranh
Khi đã tham gia thị trường, các chủ thể sản xuất kinh doanh, bên cạnh sự hợp tác,
luôn phải chấp nhận cạnh tranh nhằm để có được những ưu thế về sản xuất cũng như tiêu
thụ, thông qua đó để đạt lợi ích tối đa. Kinh tế thị trường càng phát triển thì cạnh tranh
càng trở nên thưởng xuyên, quyết liệt hơn. Cạnh tranh có thể diễn ra giữa các chủ thể
trong nội bộ ngành, cũng có thể diễn ra giữa các chủ thể thuộc ngành khác nhau.
Lợi nhuận là động cơ mạnh mẽ nhất của nền kinh tế hàng hóa.
Trong nền kinh tế hàng hóa, các chủ thể kinh doanh luôn coi việc tối đa hóa lợi
nhuận là động lực, mục tiêu của mình. Việc này cần nhiều kinh nghiệm, sắp xếp lại tổ
chức quản lý. Tổ chức lại các bộ phận quản lý và xây dựng mối quan hệ giữa các bộ phận
này để quá trình diễn ra suôn sẻ và trôi chảy nhằm tránh tình trạng trì trệ không cần thiết
trong một số khâu ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống quản lý.. Việc giảm bớt một số bộ
phận rườm rà còn giúp các nhà kinh tế tiết kiệm được chi phí dẫn đến lợi nhuận cao hơn.
Ngoài ra, nó cũng nâng cao trình độ kỹ thuật và tay nghề của nhân viên. Tóm lại, lợi
nhuận là động lực cơ bản thúc đẩy sự vận động của nền kinh tế hàng hoá.
2.3 Ưu thế và khuyết tật của kinh tế hàng hóa
2.3.1. Ưu thế
Một là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực cho sự sáng tạo các chủ thể kinh
tế. Thông qua vai trò của thị trường mà nền kinh tế trở thành phương thức hữu hiệu kích
thích sự sáng tạo trong hoạt động của các chủ thể kinh tế, dưới dạng những ý tưởng hoặc
mô hình kinh doanh mới, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ, qua đó thúc
đẩy, làm cho nền kinh tế hoạt động năng động, hiệu quả.

8
Hai là, nền kinh tế thị trường luôn phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể, các
vùng, miền cũng như lợi thế quốc gia. Thông qua vai trò gắn kết của thị trường mà nền
kinh tế thị trường trở thành phương thức hiệu quả hơn hẳn so với nền kinh tế tự nhiên hay
nền kinh tế kế hoạch hàng hóa, bởi mọi tiềm năng, lợi thế đểu có thể được phát huy, đều
có thể trở thành lợi ích đóng góp cho xã hội.
Ba là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu cầu
của con người, từ đó thúc đẩy sự tiến bộ, văn minh của xã hội. Với sự tác động của các
quy luật thị trường, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra sự phù hợp giữa khối lượng, cơ cấu
sản xuất với khối lượng, cơ cấu nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Nhờ đó, nhu cầu tiêu dùng
các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau được đáp ứng kịp thời, thỏa mãn nhu cầu của người
tiêu dùng.
2.3.2. Khuyết tật
Bên cạnh những ưu thế trên, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật vốn có mà
đa số trong đó tự bản thân nó không thể khắc phục, sửa chữa được.
Một là, trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn rủi ro khủng hoảng. Sự vận động
của cơ chế thị trường không phải khi nào cũng tạo được những cân đối, do đó, luôn tiềm
ẩn những nguy cơ khủng hoảng. Khủng hoảng có thể diễn ra cục bộ hoặc trên phạm vi
tổng thế, có thể bắt gặp ở mọi loại hình thị trường, với mọi nền kinh tế thị trường. Các
quốc gia có nền kinh tế thị trường rất khó dự báo chính xác thời điểm diễn ra khủng
hoảng.
Hai là, nền kinh tế thị trường không thể tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài
nguyên không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội. Như đã đề
cập, lợi nhuận là mục tiêu của phần lớn các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế
thị trường nên luôn tạo tiềm ẩn đối với nguồn lực tài nguyên, suy thoái môi trường. Cũng
vì lợi nhuận, các chủ thể sản xuất có thể vi phạm cả nguyên tắc đạo đức, thậm chí là phi
pháp, góp phần làm xói mòn đạo đức kinh doanh, đạo đức xã hội. Ngoài ra, các lĩnh vực
thiết yếu cho nền kinh tế nhưng có lợi nhuận kỳ vọng thấp, rủi ro cao, quy mô đầu tư lớn,
thời gian thu hồi vốn dài cũng có thể bị các chủ thể sản xuất bỏ qua.

9
Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc
trong xã hội. Các quy luật thị trường luôn phân bổ lợi ích theo mức độ và loại hình hoạt
động tham gia thị trường, cộng với tác độn của cạnh tranh. Sự phân hóa xã hội về thu
nhập và cơ hội là tất yếu trong nền kinh tế thị trường.
Do những khuyết tật của của kinh tế thị trường nên trong thực tế không tồn tại một
nền kinh tế thị trường thuần túy, mà thường có sự can thiệp của nhà nước để sửa chữa
những thất bại của cơ thế thị trường. Khi đó, nền kinh tế được gọi là kinh tế thị trường có
sự điều tiết của nhà nước hay nền kinh tế hỗn hợp.
II. Liên hệ thực tế ở Việt Nam
Theo quan điểm của Marx, kinh tế hàng hóa không phải là một phương thức sản xuất
độc lập mà là một hình thức tổ chức kinh doanh. Với phạm vi và mức độ khác nhau, mặc
dù đều là nền kinh tế hàng hóa nhưng bản chất của xã hội quy định đặc điểm nền kinh tế
hàng hóa xã hội này. Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa nên vai trò chủ đạo của
nhà nước là chỉ đạo, quản lý nền kinh tế hàng hóa theo chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1. Tình hình kinh tế của Việt Nam buộc chúng ta phải chuyển sang phát triển Phát
triển kinh tế hàng hóa là một nhu cầu khách quan
Sau khi giành chiến thắng trong kháng chiến, nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế
hoạch hóa tập trung theo hình thức công hữu về tư liệu sản xuất trên cơ sở kinh nghiệm
sản xuất của các nước xã hội chủ nghĩa. Với sự cố gắng của nhân dân ta và sự giúp đỡ tận
tình của các nước xã hội chủ nghĩa khác, mô hình kế hoạch hóa đã phát huy được hết
những lợi thế vốn có. Từ một nền kinh tế hàng hóa lạc hậu Nhà nước đã sở hữu về đất
đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển nền kinh tế.
Tình hình kinh tế - xã hội của nước ta, dựa trên nguyện vọng chính đáng của nhân
dân ta, trên cơ sở vận dụng mô hình chủ nghĩa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với nền kinh tế
hang hóa. Nó phù hợp với thực tế của đất nước, theo quy luật kinh tế và xu thế thời đại.
Vì:
Thứ nhất, nếu không thay đổi cơ chế kinh tế mà vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không
thể có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa nói đến việc tích lũy vốn để mở rộng sản xuất.

10
Thứ hai, do đặc thù của nền kinh tế tập trung rất cứng nhắc, chỉ thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế trong ngắn hạn và chỉ phát triển kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở
nước ta đã ra đời quá lâu. Vì vậy, không những không có tác động đáng kể đến việc thúc
đẩy sản xuất phát triển mà còn sản sinh ra nhiều tiêu cực làm giảm năng suất, chất lượng
và hiệu quả.
Thứ ba, về quan hệ ngoại thương, chúng ta thấy rằng nền kinh tế nước ta đang hội
nhập vào nền kinh tế thị trường thế giới, nước ta vẫn có hoạt động ngoại thương và tham
gia hợp tác. Mặt khác, nếu nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thị trường thế
giới thì việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ và đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ đưa nền kinh tế
nước ta tiến gần hơn với nền kinh tế thị trường thế giới, tương quan giá cả của hàng hoá
trong nước sẽ gần hơn với mối tương quan quốc tế của giá cả hàng hóa.
Thứ tư, xu hướng chung phát triển kinh tế trên thế giới là sự phát triển kinh tế của
từng quốc gia. Do đó hội nhập thế giới là điều tiên quyết.
2. Tiềm năng và hạn chế của nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam.
2.1. Tiềm năng
- Có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng và vị trí địa lý thuận lợi.
- Với lực lượng lao động đông đảo, có trình độ văn hóa và chuyên môn, nước ta ở
mức trung bình so với nhiều nước đang phát triển.
- Chúng ta có đường lối, chính sách cải cách của Đảng và nhà nước.
2.2. Hạn chế
- Mặc dù là một nước nông nghiệp, thế nhưng diện tích đất canh tác bình quân đầu
người còn khá thấp.
- Nền kinh tế kém phát triển thể hiện rõ dấu vết của nền kinh tế tự nhiên, còn chịu tác
động mạnh của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, thị trường chưa phát triển và đồng bộ, thu
nhập quốc dân bình quân đầu người thấp, sức mua còn hạn chế.
- Cơ sở hạ tầng còn kém phát triển, trình độ khoa học công nghệ còn đang phát triển,
hệ thống pháp luật còn nhiều điểm bất cập.
Đảng và nhà nước ta đang tích cực đưa ra những giải pháp và chính sách để có thể
khắc phục những hạn chế tồn tại.

11
3. Những kết quả kinh tế nước ta đạt được từ những năm đổi mới cho đến ngày nay
Đảng ta đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát triển quản lý hàng hóa đa
ngành theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đời sống người dân hết sức khó khăn
trong thời kì nước ta áp dụng nền kinh tế bao cấp trì trệ và bị cấm vận. Sau gần 30 năm
cải cách phát triển, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nền kinh tế nước ta đã có những
khởi sắc, tạo tiền đề cho thế kỷ phát triển của đất nước. Nhân dân ta có thể tự hào khi
khẳng định kinh tế của nước nhà đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong 30 năm vừa qua.
Một là, đất nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế phát triển
vượt bậc, cơ sở vật chất - kỹ thuật ngày càng được cải thiện, mức sống của các tầng lớp
nhân dân không ngừng được nâng cao.
Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, gắn sản xuất với thị trường. Về cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nông nghiệp có một thay đổi quan trọng là
chuyển từ độc canh cây lúa năng suất thấp, khan hiếm sang gạo đủ tiêu dùng trong nước,
sang xuất khẩu gạo với số lượng lớn, đứng thứ hai thế giới và góp phần đảm bảo an ninh
lương thực quốc tế. Xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu và thủy sản với số lượng
lớn, đóng vai trò quan trọng trên nền kinh thế toàn cầu. Các ngành dịch vụ ngày càng đa
dạng và ngày càng đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và đời sống: du lịch, bưu chính,
viễn thông có chỉ số phát triển rất nhanh; Dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp
luật;…
Ba là, thực hiện có hiệu quả chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, sử
dụng tối ưu tiềm năng của các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước đang được tổ chức
lại, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả và tập trung mạnh hơn vào các ngành then
chốt, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Cơ chế hành chính đối với công ty nhà nước
được đổi mới, một bước quan trọng theo hướng xóa bỏ bao cấp, thực hiện đổi mới mô
hình kinh doanh và phát huy quyền tự chủ kinh doanh và chịu trách nhiệm. Sự phát triển
mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân, huy động tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng
trong nhân dân là động lực tăng trưởng và phát triển rất quan trọng. Điều này góp phần

12
cải thiện giao thông đa quốc gia, chuyển giao công nghệ, tăng lượng lớn tiền bạc cho
ngân sách nhà nước và giải quyết vấn đề việc làm cho người dân.
Thứ tư, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình
thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định. Sau hơn 35 năm đổi mới, hệ thống luật pháp, chính
sách và cơ chế của nền kinh tế thị trường đã có tính đồng bộ. Hoạt động của các loại hình
doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý nhà nước được cải
cách là một việc làm vô cùng quan trọng. Với phương hướng tiến bộ, hiệu quả của chính
sách hội nhập kinh tế quốc tế tích cực, chủ động, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các tổ
chức quốc tế và các quốc gia trên thế giới ngày càng khăng khít, gắn kết. Việt Nam đã
tích cực gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết
về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)... Đến nay, Việt Nam duy trì quan hệ
thương mại với trên 221 nước và vùng lãnh thổ, ký trên 92 hiệp định thương mại song
phương trên thế giới, là bàn đạp lớn cho nước ta phát triển kinh tế đối ngoại. Thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa liên tục được hoàn hiện tỉ mỉ; đường lối
cùng chủ chương phát triển luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng hoàn thiện, đồng bộ
hơn; cải thiện được môi trường đầu tư, kinh doanh; các yếu tố thị trường và các loại thị
trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế đa thành phần có bước nhảy vọt.
4. Kinh tế hàng hóa ở Việt Nam - Điều kiện cùng giải pháp để phát triển
Thứ nhất: Đa dạng hóa các loại hình sở hữu, kiến tạo sở hữu nhà nước, sở hữu tập
thể, sở hữu hỗn hợp và sở hữu cá nhân để tương thích nhất với trình độ của lực lượng sản
xuất.
Thứ hai, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội.
Thứ ba, tập chung phát triển song song các loại thị trường: thị trường tư liệu sản xuất,
thị trường tiêu dùng và dịch vụ, thị trường sức lao động …
Thứ tư, tái thiết, chính sửa, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường chuyên
nghiệp về pháp lý.

13
Thứ năm, kết cấu hạ tầng về kinh tế - xã hội cần được phát triển theo hướng hiện đại
hóa, công nghiệp hóa.
Thứ sáu, đổi mới cách thức lãnh đạo của Đảng, cách thức quản lý của Nhà nước, cải
cách thủ tục hành chính quốc gia. Đổi mới phương thức quản lý vĩ mô của Nhà nước, đặc
biệt là xây dựng chính sách phân phối thu nhập, qua đó giúp xã hội tiến bộ và công bằng
hơn.

C. KẾT LUẬN
Vượt qua đại dịch SARS-CoV-2, Việt Nam là một trong những quốc gia có chỉ số
tăng trưởng dương và sớm quay trở lại hoạt động sản xuất, chúng ta có quyền được tự
hào về những thành quả mà Đảng, nhà nước và nhân dân đã đạt được trong thời kí thị
trường thế giới chịu khủng hoảng trầm trọng. Nền kinh tế hàng hóa thị trường có sự điều
tiết của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa là lựa chọn sáng suốt và đúng đắn.
Đất nước ta hiện nay đang trong thời kỳ quá độ về chủ nghĩa xã hội, đó là một thời
kỳ phức tạp và đầy biến động, thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội để
hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ. Với xuất phát điểm thấp, điều kiện kinh tế khó
khăn, nhiều trở ngại, muốn phát triển nền kinh tế ổn định ta cần thực hiện nền kinh tế
hàng hóa như một bước ngoặt quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh tế. Tuy nhiên,
trong quá trình hiện thực hóa có tiềm ẩn nhiều khó khăn phức tạp và ảnh hưởng đến xã
hội nói chung. Để hạn chế tác động này, cần hướng nền kinh tế phát triển và buộc nó phải
đi theo con đường mà chúng ta lựa chọn. Lựa chọn là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy,
một chính sách phát triển đa nhanh theo định hướng xã hội chủ nghĩa là điều kiện tiên
quyết cần thực hiện. Sự cần thiết và hợp lý của quy luật phát triển thể hiện tư duy tiến bộ
của đảng. Trong quá trình từng bước thực hiện chuyển đổi này, chúng ta phải tuân theo
định hướng xã hội chủ nghĩa để hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế.

14
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình Kinh tế chính trị Mác Lê-nin (Dành cho
đậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội,
2021.
2. P. Samuelson: Kinh tế học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
3. Klaus Schwab: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nxb. Chính trị quốc gia
sự thật, Hà Nội, 2018.
4. Nguyễn Chí Hải (chủ nhiệm): Tư tưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ 1975 – 2010, Đại
học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2013.
5. PGS.TS.Mai Ngọc Cường: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
6. Nguyễn Chí Hải, Nguyễn Văn Luân (đồng chủ biên): Tư tưởng kinh tế Việt Nam
thời kỳ cận và hiện đại, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh,
2009.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiệu Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung
ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2017.
8. Báo điện tử Chính phủ: Kinh tế Việt Nam đang trở lại quỹ đạo tăng trưởng nhanh,
Cổng thông tin điện tử Chính phủ, 2022.

15

You might also like