You are on page 1of 11

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN

KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Lý luận về hàng hoá của Karl Marx và việc nâng cao năng lực
cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam

Họ tên: Nguyễn Thu Huyền

Mã số sinh viên: 2212770009

Lớp: TRIH115.8

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Dương Đức Đại

Hà Nội - 2023
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................2
I . Khái quát chung về sản xuất hàng hóa.............................................................2
1.1. Khái niệm sản xuất hàng hóa.....................................................................2
1.2. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa...................................2
1.2.1. Phân công lao động xã hội...................................................................2
1.2.2. Sự tách biệt kinh tế...............................................................................3
1.3. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa..............................................................3
1.3.1. Sản xuất hàng hóa là sản xuất dùng để trao đổi, mua bán...............3
1.3.2. Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa có tính tư nhân, vừa có
tính xã hội..........................................................................................................4
1.4. Ưu thế của sản xuất hàng hóa....................................................................4
II . Vận dụng lý luận về sản xuất hàng hoá của Karl Max vào việc nâng cao
năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam........................................................4
2.1. Thực trạng năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.........................5
2.2. Những thách thức hiện hữu........................................................................6
III . Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam..............7
KẾT LUẬN..............................................................................................................9
DANH MỤC THAM KHẢO................................................................................10

2
MỞ ĐẦU
Sản xuất hàng hóa là hoạt động tất yếu được thực hiện trong nền kinh tế. Thông
qua sản xuất, con người tiếp cận được đa dạng các sản phẩm trong nhu cầu sử
dụng. Để có thể thực hiện sản xuất, phải tính toán trong nhu cầu, chức năng và chất
lượng với loại hàng hóa đó. Cũng như thông qua các nhu cầu đó mà hoạt động sản
xuất cũng được thúc đẩy. Sản xuất gắn liền với kinh doanh và tìm kiếm các lợi
nhuận từ hàng hóa. Hoạt động này được thực hiện bởi kinh nghiệm lao động trong
xã hội. Các chủ thể tham gia vào sản xuất hàng hóa tìm được các lợi ích kinh tế
khác nhau.
NỘI DUNG
I . Khái quát chung về sản xuất hàng hóa
1.1.Khái niệm sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa là một khái niệm được sử dụng trong kinh tế chính trị Mác-
Lênin dùng để chỉ về kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra
không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra
nó mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi,
mua bán. Hay nói một cách khác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà sản
phẩm sản xuất ra là để bán.
1.2.Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại dựa trên 2 điều kiện:
1.2.1. Phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội có nghĩa là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao
động xã hội ra thành các lĩnh vực sản xuất, các ngành khác nhau. Phân công lao
động xã hội là cơ sở và tiền đề của sản xuất hàng hóa.
Phân công lao động xã hội càng phát triển, sản xuất và trao đổi hàng hóa ngày càng
mở rộng và đa dạng hơn.

3
Do có sự phân công lao động xã hội nên việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu.
Khi có sự phân công lao động xã hội, mỗi người chỉ làm hoặc sản xuất một vài sản
phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của cuộc sống lại đòi hỏi họ phải làm nhiều loại
sản phẩm khác nhau. Để có những sản phẩm khác nhau, buộc họ phải trao đổi với
nhau.
Phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất làm cho năng suất lao động
tăng lên, đồng thời sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều, giúp thúc đẩy sự trao đổi
sản phẩm.
1.2.2. Sự tách biệt kinh tế
Sự tách biệt kinh tế giữa những người sản xuất có nghĩa là những người sản xuất
trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với nhau. Vì thế, sản phẩm làm ra
sẽ thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế, nếu muốn tiêu dùng sản phẩm của
người khác cần phải trao đổi mua bán hàng hóa.
Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư hữu tư liệu sản xuất quy
định. Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của
mỗi cá nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Cụ thể, sản
xuất hàng hoá ra đời trong chế độ chiếm hữu nô lệ.
Từ 2 điều kiện trên cho ta thấy, phân công lao động xã hội làm cho những người
sản xuất phụ thuộc lẫn nhau. Còn với sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa
những người sản xuất thì lại chia rẽ họ, làm cho họ độc lập với nhau. Đây chính là
một mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn này bằng cách trao đổi mua bán sản phẩm
của nhau. Đây là điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hóa.
Ta rút ra được, cả 2 điều kiện không được thiết điều kiện nào, nếu thiếu 1 trong 2
điều đó sẽ không có sản xuất hàng hóa.
1.3.Đặc trưng của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa có hai đặc trưng cơ bản như sau:
1.3.1. Sản xuất hàng hóa là sản xuất dùng để trao đổi, mua bán
4
Trong lịch sử có 2 kiểu tổ chức kinh tế là sản xuất tự cung tự cấp và sản xuất hàng
hóa. Sản xuất tự cung tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế khi sản phẩm sản xuất chỉ có
thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người sản xuất ra nó. Còn sản xuất hàng
hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà sản xuất sản phẩm ra để trao đổi mua bán.
1.3.2. Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa có tính tư nhân, vừa có
tính xã hội
Lao động của người sản xuất có tính xã hội, được thể hiện ở chỗ sản phẩm được
làm ra để phục vụ nhu cầu của con người trong xã hội. Còn thể hiện tính tư nhân
khi sản xuất cái gì và bằng cách thức ra sao đều là công việc riêng, có sự độc lập
của mỗi người. tính chất tư nhân có thể phù hợp hoặc không phù hợp với tính chất
xã hội.
Từ đó tạo ra mâu thuẫn của sản xuất hàng hóa. Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân
và lao động xã hội là nguyên nhân gây nên khủng hoảng trong nền kinh tế hàng
hóa.
1.4.Ưu thế của sản xuất hàng hóa
So với hình thức sản xuất tự cung tự cấp thì sản xuất hàng hóa mang nhiều ưu thế
vượt trội hơn hẳn.
 Quy mô của sản xuất mở rộng, không bị giới hạn tạo điều kiện thuận lợi cho
việc đưa các ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, thúc đẩy phát triển
sản xuất.
 Tạo điều kiện khai thác tốt những lợi thế của tự nhiên xã hội, thiên nhiên, kỹ
thuật của từng cá nhân, khu vực, địa phương và của từng quốc gia.
 Trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa, sự tác động từ các quy luật sẵn có của sản
xuất và trao đổi mua bán hàng hóa như cung cầu, quy luật giá trị, cạnh tranh khiến
cho người sản xuất hàng hóa luôn biến hóa thay đổi, năng động, nhạy bén, cải tiến
kỹ thuật để nâng cao chất lượng và năng suất. Từ đó, làm tăng hiệu quả kinh tế, cải

5
tiến quy trình, giảm thiểu chi phí sản xuất để đáp ứng thị hiếu, nhu cầu của người
dùng.
 Trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa, việc phát triển sản xuất sẽ giúp cho đời
sống vật chất, văn hóa, tinh thần ngày một được nâng cao, phong phú và đa dạng.
II . Vận dụng lý luận về sản xuất hàng hoá của Karl Marx vào việc nâng cao
năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam

2.1. Thực trạng năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam
Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã trở thành một xu thế tất yếu của quá trình
hội nhập và toàn cầu hóa, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế và đã được nhiều quốc
gia lựa chọn. Theo thống kê của Ban thư ký WTO, tính đến ngày 17 tháng 01 năm
2020, cả thế giới đã có 303 hiệp định FTA có hiệu lực trong tổng số 483 hiệp định
FTA được các nước thành viên thông báo lên WTO.
Không nằm ngoài quá trình đó, Việt Nam hiện là thành viên của nhiều FTA. Trong
số 13 FTA đã có hiệu lực và đang triển khai, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến
bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là FTA thế hệ mới đầu tiên mà Việt Nam
tham gia, tiếp theo đó là Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu
Âu (EVFTA).
Việc tham gia các FTA đã giúp thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng và đa
dạng hóa; thị trường dịch vụ tài chính phát triển hơn với sự tham gia của nhiều nhà
đầu tư nước ngoài; hệ thống thể chế, chính sách cũng từng bước được hoàn thiện
nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực thi cam kết trong các FTA... Cùng với việc
gia nhập WTO từ năm 2007, việc tham gia các FTA đã góp phần thúc đẩy GDP
của Việt Nam tăng hơn 300%, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 350%.
Trong khi đó, dịch bệnh Covid-19 đã và đang tiếp tục diễn biến phức tạp trên toàn
thế giới. Khi thế giới phải phong tỏa vì dịch bệnh, nguồn cung và nhu cầu bị gián

6
đoạn, nhiều chỉ số kinh tế sụt giảm so với cùng kỳ thì bán lẻ hàng hóa nổi lên là
một trong những điểm sáng của kinh tế vĩ mô.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng quý III/2020 ước tính đạt 1.305,8 nghìn tỷ đồng, tăng 14,4% so với
quý II/2020 và tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước. Xét theo ngành hoạt động,
doanh thu bán lẻ hàng hóa 9 tháng năm 2020 đạt 2.907,1 nghìn tỷ đồng, chiếm
79,1% tổng mức và tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước.
“Đây là kết quả tích cực, thể hiện rõ vai trò của nguồn cung hàng hóa nội địa trong
các bối cảnh dịch bệnh, thiên tai diễn biến khó lường. Đồng thời thể hiện rõ vai trò
của hàng Việt tại thị trường nội địa khi ngày càng được người tiêu dùng ưa
chuộng” – Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải khẳng định.
Hàng Việt vẫn đang được đánh giá cao và được các nhà phân phối, bán lẻ ưu tiên
trong cơ cấu hàng hóa bày bán trong siêu thị. Tỷ lệ hàng Việt tại các hệ thống phân
phối hiện đại được duy trì ở mức cao. Cụ thể, hàng hóa Việt ở Co.opmart chiếm
90%-93%, Satra 90%-95%, Vinmart 96%, Vissan 95%, Hapro 95%…
2.2. Những thách thức hiện hữu
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích do các FTA mang lại, các doanh nghiệp Việt
cũng đứng trước nhiều thách thức khi hàng hóa của nhiều quốc gia sẽ tăng nhập
khẩu vào Việt Nam nhờ được hưởng ưu đãi thuế quan.
Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải cho rằng, hiện nay, trình độ phát triển của Việt Nam vẫn
đang ở mức trung bình và thấp. Việc Việt Nam mở cửa thị trường cho hàng hóa,
dịch vụ đến từ các nước đối tác khiến thị trường trong nước không còn là khái
niệm “sân nhà”. Đặc biệt, đối với những nhóm ngành hàng mà Việt Nam có sức
cạnh tranh chưa cao như nông nghiệp, chăn nuôi, thủy sản và một số ngành dịch vụ
sẽ gặp không ít những thách thức.
Cũng tại diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông thẳng thắn
chia sẻ, mặc dù là động lực phát triển quan trọng của nền kinh tế và chiếm tới gần
7
98% tổng số doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế nhưng đa số là các doanh
nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Do quy mô không lớn nên khả năng tích tụ và tập trung
vốn để đầu tư, đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao trình độ
quản lý... của doanh nghiệp Việt Nam bị hạn chế. Chưa kể, ý chí và nhận thức của
chủ doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV còn ở mức ngắn hạn, chưa có tư duy
chiến lược dài hạn, bài bản. Nhận thức về việc phải phát triển đội ngũ nguồn nhân
lực chất lượng cao chưa được đề cao, đặc biệt là với các doanh nghiệp khu vực
phía Bắc.
Còn theo bà Lê Việt Nga - Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước, Bộ Công
Thương, cho biết, với thị trường EU, trong giai đoạn hậu dịch Covid-19, hàng chất
lượng cao từ EU sẽ gia tăng tại thị trường Việt Nam. Chẳng hạn, ngành thực phẩm
sẽ rất cạnh cạnh với hàng nhập khẩu từ EU, hiện không khó để tìm mua các loại
trái cây ngoại như táo, nho, lê, cherry, việt quất, cam… trong các siêu thị, cửa hàng
tiện lợi trên khắp Việt Nam.
III . Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam
* Chú trọng ứng dụng công nghệ vào sản xuất
Để nâng cao sức cạnh tranh với hàng ngoại, hàng Việt cần đổi mới, ứng dụng khoa
học - công nghệ cao trong sản xuất để nâng chất lượng sản phẩm, đi đôi với xây
dựng thương hiệu, chuỗi cung ứng từ khâu sản xuất, đưa hàng hóa lưu thông ra thị
trường…
Trên thực tế, trong thời gian qua, nhiều DN ngày càng chú trọng đầu tư trang thiết
bị, máy móc, dây chuyền công nghệ hiện đại để sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng
tiêu chuẩn quốc tế, hướng tới phát triển theo xu thế hội nhập, nâng cao chất lượng
cũng như tạo nên giá trị thương hiệu của sản phẩm địa phương.
Doanh nghiệp cần chủ động tiếp cận các thông tin, kiến thức về hàng rào kỹ thuật,
pháp lý liên quan đến các hiệp định thương mại tự do (FTA) để có kế hoạch sản
xuất, đầu tư công nghệ phù hợp, đáp ứng các tiêu chuẩn cần thiết…
8
Việc ứng dụng công nghệ vào sản xuất là xu hướng tất yếu trong bối cảnh cạnh
tranh và hội nhập như hiện nay. Công ty luôn chủ động áp dụng khoa học - công
nghệ vào sản xuất nhằm hướng tới quy trình sản xuất khép kín, an toàn, nâng cao
sức cạnh tranh cho sản phẩm.
Bên cạnh đó, đại dịch Covid-19 đã tác động tới thói quen mua hàng của người tiêu
dùng Việt Nam. Điều này đòi hỏi các DN trong nước cần thích nghi, cập nhật
thường xuyên thị hiếu của khách hàng. Đồng thời, các DN cần chú trọng nâng cao
hàm lượng “xanh - sạch - an toàn” trong sản xuất và phân phối để đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của người tiêu dùng.
Kinh doanh trách nhiệm, tiêu dùng bền vững được thể hiện ở việc chú trọng về
chất lượng, tiện ích của sản phẩm, hướng đến việc truy xuất nguồn gốc của sản
phẩm, nêu cao nhận thức về tính xanh - sạch - an toàn, hướng tới sử dụng nguồn tài
nguyên thiên nhiên có hiệu quả, tiết kiệm...
* Cần thêm nhiều giải pháp đồng bộ
Vào tháng 3-2021, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 386/QĐ-TTg phê duyệt
đề án Phát triển thị trường trong nước gắn với cuộc vận động Người Việt Nam ưu
tiên dùng hàng Việt Nam giai đoạn 2021-2025. Đề án đưa ra 4 nhóm nhiệm vụ
chính cần thực hiện, trong đó có nhóm nhiệm vụ nâng cao năng lực cạnh tranh cho
hàng Việt, DN Việt.
Trong nhóm nhiệm vụ này, đề án chú trọng xây dựng các chương trình hành động,
tổ chức các hoạt động hỗ trợ DN, nhà sản xuất Việt Nam nâng cao năng lực sản
xuất, phân phối và tiêu thụ sản phẩm mang thương hiệu Việt; nâng cao hiệu quả
kết nối giữa nhà sản xuất và nhà phân phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
Đồng thời, đề án hướng tới xây dựng các chương trình tổng thể và đồng bộ nhằm
ứng dụng thương mại điện tử, công nghệ 4.0 và các giải pháp hỗ trợ DN, đặc biệt
là các DN nhỏ và vừa ứng dụng mô hình công nghệ số tại thị trường trong nước.

9
Đặc biệt, trong vòng 1 năm qua, Việt Nam đã tham gia 3 FTA, mở ra thị trường
rộng lớn chưa từng có gồm: Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh
châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và Hiệp
định Thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA), nâng tổng số
FTA mà Việt Nam đã ký kết lên con số 15.
Các FTA, nhất là các FTA thế hệ mới sẽ mang lại nhiều cơ hội lớn cho các DN
trong nước mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao sức cạnh tranh… Cùng với đó là
những thách thức mà các DN, nhất là các DN nhỏ và vừa sẽ phải đối mặt ngay trên
“sân nhà”. Các DN trong nước cần tích cực cập nhật những kiến thức về hội nhập,
chủ động nâng cao trình độ quản lý, công nghệ, đảm bảo các yêu cầu về nguồn
gốc, quy trình sản xuất, phân phối... để có thể tận dụng tốt hơn những lợi ích từ các
FTA.
KẾT LUẬN
Hàng hoá hiện hữu ở khắp mọi nơi trên thế giới.Chúng có thể ở dạng hữu hình
hoặc vô hình.Mục đích chính của bất kể nền kinh tế nào cuối cùng cũng là sản xuất
ra hàng hoá đáp ứng nhu cầu con người,chính vì thế hàng hoá có vai trò rất quan
trọng,ngày càng được quan tâm phát triển tiên tiến.Quốc gia nào muốn trở thành
một cường quốc thì không chỉ cần chính trị.xã hội vững mạnh mà còn cần một nền
kinh tế phát triển mạnh mẽ.Và đẻ nền kinh tế phát triển mạnh mẽ thì nền kinh tế đó
ắt hẳn phải có năng lực cạnh tranh hàng hoá cao đủ sức thâu tóm thị trường mang
về nguồn lợi nhuận lớn.Cạnh tranh hàng hoá có mặt tốt và cũng có mặt xấu.Bất kì
nhà nước chính phủ nào hiện nay cũng cố gắng xây dựng nền kinh tế nước mình
trở nên hung` mạnh giảm thiểu dần những tiêu cực của cạnh tranh hàng hoá mang
lại bằng những chính sách khoa học thiết thực.Việt Nam cũng vậy,với nền kinh tế
đang phát triển nhanh chóng thì việc nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hoá đẩy
nền kinh tế lên những bước khởi sắc sẽ giúp Việt Nam nhanh chóng trở thành nước
phát triển sánh ngang tầm với Trung Quốc,Hàn Quốc,Singapo,..Nền kinh tế Việt
10
Nam đang được các nhà đầu tư coi như là một ngôi sao đang lên của Châu Á. Song
song với việc phát triển kinh tế chúng ta cần đảm bảo sự hài hoà giữa các yếu tố
phát triển và bền vững, đặc biệt là giải quyết các vấn đề xã hội, khắc phục khoảng
cách chênh lệch giàu nghèo, giải quyết tình trạng lãng phí và ô nhiễm tài nguyên
môi trường…như thế một tương lai không xa chúng ta có thể chứng kiến một sự
chuyển mình ngoạn mục của đất nước Việt Nam.
DANH MỤC THAM KHẢO
1. Báo Tạp chí Cộng sản
2. Báo Tạp chí Lý luận chính trị
3. Báo Nghiên cứu kinh tế
4. Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong hội
nhập kinh tế quốc tế / Nguyễn Vĩnh Thanh. - Hà Nội : Lao động - Xã hội, 2005 –
324tr
5. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu hoá / Trần Sửu.
- Hà Nội : Lao Động, 2006. - 283Tr
6. Các ngành dịch vụ Việt Nam năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế
Nguyễn Hữu Khải, Vũ Thị Hiền. - Hà Nội : Thống kê, 2007. - 335Tr
7. Chiến lược kinh doanh trong kinh tế tri thức / Trần Xuân Kiên, Lê Minh Hà,
Trần Minh Đức. - Hà Nội : Hà Nội, 2002. - 207Tr
8. Môi trường xã hội nền kinh tế tri thức : Những nguyên lý cơ bản / Trần Cao
Sơn. - Hà Nội : Khoa học Xã Hội, 2004. - 219Tr
9. Giáo trình KTCT chuyên và không chuyên kinh tế của Bộ GD&ĐT;
10. Giáo trình KTCT của Hội đồng lý luận Trung Ương.

11

You might also like