Professional Documents
Culture Documents
Phần II: Vai trò sản xuất hàng hoá đối với nền kinh tế Việt Nam
1. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa Việt Nam
1.1. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa Việt Nam trước đổi
mới (1975 - 1986)
Việt Nam thời kỳ bao cấp chủ yếu gồm các ngành đó là nông nghiệp, công
nghiệp và thương nghiệp. Công nghiệp được chia thành công nghiệp nặng (như
điện, than, gang thép, chế tạo máy công cụ,… ); công nghiệp hóa chất; công
nghiệp nhẹ; công nghiệp thực phẩm (thuốc lá, đường mật, rượu bia, đồ hộp,… ).
Lực lượng lao động gồm công nhân, nông dân và lao động tri thức. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IV khẳng định sản xuất xã hội chủ nghĩa tức là nền kinh
tế dựa vào hai thành phần kinh tế cơ bản: quốc doanh (trong công và thương
nghiệp) và tập thể (trong nông nghiệp với hợp tác xã cấp cao làm nòng cốt). Các
nước đi theo con đường chủ nghĩa xã hội trong đó có Việt Nam với mục đích là
xây dựng chế độ công hữu, xóa bỏ chế độ tư hữu. Với quan niệm rằng sản xuất
hàng hóa không tồn tại trong chế độ công hữu hay không tồn tại trong chế độ
xã hội, các quốc gia đi theo con đường chủ nghĩa xã hội (trong đó có Việt Nam)
áp dụng cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, phủ nhân sự tồn tại của sản xuất
hàng hóa, phủ nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế tư nhân. Vì thế, trong thời
kỳ bao cấp ở Việt Nam, sản xuất hàng hóa chỉ mang tính hình thức, có sự phân
công lao động nhưng không có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những
người sản xuất. Vì vậy, rất nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát
minh sáng chế, tư liệu sản xuất quan trọng không được coi là hàng hóa về mặt
pháp lý. Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị
trường, chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị
trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa nhận trên
thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy
kinh tế quốc doanh, và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư
nhân và kinh tế cá thể, tư nhân. Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng
hoảng.
Như vậy, các cơ chế chính sách trong thời bao cấp của Việt Nam không phù
hợp với quy luật của sản xuất hàng hóa, thậm chí đi ngược lại với quy luật của
sản xuất hàng hóa.
1.2. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa Việt Nam sau thời kỳ
đổi mới (từ năm 1986 đến nay).
Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế -
xã hội, tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI, Việt Nam đã quyết định xóa bỏ cơ chế
quản lý cũ, bắt đầu thực hiện phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất được thể hiện rất rõ
trong thời kỳ Việt Nam sau đổi mới. Việt Nam thừa nhận sự xuất hiện của tư
hữu.
Sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng trực tiếp tư liệu sản xuất
cũng được thể hiện rõ ràng. Đó là quyết định chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh
doanh, kế hoạch đầu tư; quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc đề nghị bổ
nhiệm, miễn nhiệm đối với các chức danh quản lý quan trọng trong công ty;
quyết định góp vốn, tăng giảm của công ty tại doanh nghiệp khác; quyết định
tổ chức lại, chuyển đổi sở hữu, giải thể công ty; quy định quy chế quản lý nội
bộ, tổ chức, quản lý điều hành doanh nghiệp tuân thủ đúng quy định của pháp
luật,…
Như vậy, Việt Nam hiện nay tồn tại đầy đủ hai điệu kiện của sản xuất hàng
hóa. Do đó, sản xuất hàng hóa tồn tại ở Việt Nam là một tất yếu. Tuy nhiên, sản
xuất hàng hóa lại mang tính hai mặt.
2. Thực trạng nền sản xuất hàng hoá ở nước ta
Trong khoảng thời gian gần đây, nền kinh tế hàng hóa Việt Nam có xu hướng
sụt giảm. Tuy khủng hoảng trong thời gian dài nhưng năm 2013, nền kinh tế
nước ta đã có những dấu hiệu hồi phục. Tốc độ tăng trưởng năm 2011 là 6,24%,
năm 2012 là 5,25% và năm 2013 là 5.42%.
Cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam từ sau khi đổi mới tới nay đã có nhiều thay
đổi đáng mừng. Có sự chuyển đổi tích cực từ khu vực I (nông lâm nghiệp và
thủy sản) sang khu vực II (công nghiệp và xây dựng) và khu vực III (dịch vụ).
Tuy đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng nền kinh tế hàng hóa Việt
Nam vẫn chưa thể hiện được một cách triệt để những ưu thế của mình. Bên cạnh
đó là sự tồn đọng những hạn chế của nền sản xuất hàng hóa nước ta cần được
sớm giải quyết.
- Về thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: Lực lượng sản xuất của Việt
Nam dù đã có sự phát triển lớn so với trước khi đổi mới, song hiện nay
trình độ lao động của Việt Nam còn kém. “Theo đánh giá mới nhất của
Ngân hàng Thế giới, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam chỉ đạt mức
3,79 điểm (theo thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12 nước Châu tham
gia xếp hạng.”
- Về đẩy mạnh quá trình xã hội hóa sản xuất: Năng suất lao động xã hội ở
Việt Nam còn thấp. Việc xuất khẩu hàng Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó
khăn.
3. Giải pháp
- Phát triển nền sản xuất hàng hóa cho xuất khẩu nhằm mở rộng thị trường:
Nước ta có vị trí địa lý thuận lợi cho việc giao thương. Nguồn lao động
dồi dào, giá rẻ. Điều này cho thấy lực lượng lao động của nước ta hoàn
toàn có đủ điều kiện để sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Hiện nay, nhiều mặt
hàng xuất khẩu như gạo, cá tra, cá basa đang đóng góp một phần không
nhỏ cho GDP nước ta.
- Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần sở hữu trên nền tảng công hữu: Là
một quốc gia đi theo con đường xã hội chủ nghĩa nên việc coi trọng công
hữu là không thể bỏ qua. Nhưng với việc phát triển kinh tế nhiều thành
phần sở hữu trên nền tảng công hữu giúp chúng ta vừa phát triển được nền
kinh tế thị trường vừa phát triển được chính trị theo hướng xã hội chủ
nghĩa.
- Hoàn thiện thể chế thị trường chặt chẽ và phù hợp: Qua bài học từ Trung
Quốc, chúng ta cần đặt ra nhiệm vụ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
chặt chẽ và phù hợp hơn với nền kinh tế trong nước để giúp nước ta dễ
dàng kiểm soát được tình hình, nhanh chóng nắm bắt được thời cơ giúp
nước ta kịp thời đưa ra các cách giải quyết phù hợp để phát triển kinh tế.
Đây là việc rất quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hóa.
- Tập trung đào tạo lực lượng lao động có trình độ cao: Tỷ lệ lao động thất
nghiệp ở Việt Nam rất cao nhưng lại không đủ số lao động có tay nghề,
trình độ cao.
- Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm: Việc xây dựng các vùng kinh tế
trọng điểm giúp ta tận dụng lợi thế từng vùng để phát triển hợp lý. Hiện
nay nước ta đã có tới 24 vùng kinh tế trọng điểm với các cách phát triển
kinh tế khác nhau. Đây là cách nhanh chóng sẽ giúp đẩy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế của nước ta.
- Hoàn thiện công tác quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển.
- Kiểm soát lạm phát và giá cả Việc giá cả leo thang và lạm phát kéo dài
ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế và cuộc sống hàng ngày của người lao động.
Nhà nước cần kiểm soát tình hình này. Đồng thời, áp giá sản cho các sản
phẩm nông sản mua tại vườn, tại ruộng để bảo vệ quyền lợi cho nông dân,
tránh tình trạng rớt giá xuống quá thấp khiến nhà nông khốn đốn trong
thời gian qua
- Giải quyết vấn đề tiền lương Vấn đề tiền lương một khi chưa được giải
quyết sẽ còn gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Giải
quyết vấn đề tiền lương hợp lý sẽ giúp tăng sức lao động và kích cầu khiến
nền kinh tế hàng hóa phát triển.
KẾT LUẬN
Như vậy, ta có thể kết luận rằng sự ra đời của nền kinh tế sản xuất hàng
hoá là một sự cứu tinh cho nền kinh tế của toàn nhân loại. Nếu như trong nền
kinh tế tự cung tự cấp, nhu cầu và nguyện vọng của con người bị giới hạn ở
những mức độ nhất định thì trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, con người có
thể được đáp ứng những nhu cầu của mình một cách đầy đủ và chất lượng hơn.
Chính nền kinh tế sản xuất hàng hoá đã tạo ra những động lực tưởng chừng như
vô hình nhưng rất đỗi lớn lao đối với sự hình thành và phát triển của các công
cuộc công nghệ hoá, hiện đại hoá nước nhà.
Nhờ có lý luận chính trị của Mác-Lênin, Việt Nam có thể áp dụng chúng
để hình thành nên nhận thức, tư tưởng, sau đó vận dụng vào nền kinh tế sản xuất
hàng hoá trong thực tiễn. Kể từ thời điểm sản xuất hàng hoá xuất hiện tại ở Việt
Nam, nền kinh tế Việt Nam chứng kiến một sự phát triển không nhỏ trên nhiều
lĩnh vực. Đến ngày hôm nay, khi các khía cạnh về chính trị và tổ chức nhà nước
được ổn định, sản xuất hàng hoá đóng vai trò làm nhân tố không thể thiếu để
thúc đẩy sự phát triền lớn mạnh của nước nhà.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019) - Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin.
- Tuyết Mai (2013) - Người Việt có lười lao động?
- Thời báo kinh tế (2006) - Kinh tế Việt Nam 61 năm sau Cách mạng
- Tổng cục thống kê (2006) - Mục tiêu tăng trưởng kinh tế 20062010 với
tám điều lý giải về thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao nhất (1991-1995) trong
20 năm đổi mới
- https://luatminhkhue.vn/dieu-kien-ra-doi-va-ton-tai-cua-san-xuat-hang-
hoa.aspx
- https://luanvan2s.com/san-xuat-hang-hoa-la-gi-bid283.html
- https://tuoitre.vn/doanh-nghiep-san-xuat-hang-thiet-yeu-gap-kho-khan-
vi-thieu-nhan-luc-va-luu-thong-20210810140522083.htm
- https://giacatloi.net.vn/san-xuat-hang-hoa-dieu-kien-ra-doi-dac-trung-
uu-the/
- https://finvest.vn/dieu-kien-ra-doi-dac-trung-va-uu-the-cua-san-xuat-
hang-hoa/