You are on page 1of 13

I.

Hàng hóa và hai khái niệm của hàng hóa


1. Khái niệm hàng hóa

Theo định nghĩa của Karl Marx, hàng hoá là sản phẩm của lao động, thông qua

trao đổi, mua bán có thể thỏa mãn một số nhu cầu nhất định của con người. Hàng hóa

có thể đáp ứng nhu cầu cá nhân hoặc nhu cầu sản xuất và có thể tồn tại dưới dạng vật

thể hoặc phi vật thể. Từ khái niệm này, ta có thể rút ra kết luận một đồ vật muốn trở

thành hàng hoá cần phải thỏa mãn 3 yếu tố:

 Hàng hóa là sản phẩm của lao động


 Hàng hóa có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người
 Thông qua trao đổi, mua bán.

Hàng hoá có thể được phân thành nhiều loại như:

 Hàng hóa đặc biệt


 Hàng hóa thông thường
 Hàng hóa thứ cấp
 Hàng hóa hữu hình
 Hàng hóa vô hình
 Hàng hóa công cộng
 Hàng hóa tư nhân.
2. Hai thuộc tính của hàng hóa
1.1. Giá trị của hàng hoá

Giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh bên trong
hàng hóa. Giá trị là nội dung bên trong của hàng hóa, nó được biểu hiện ra bên ngoài
bằng việc hai hàng hóa có thể trao đổi được với nhau. Giá trị hàng hóa có những đặc
trưng cơ bản như sau:

 Biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa
 Là phạm trù lịch sử chỉ tồn tại ở kinh tế hàng hóa.
Giá trị hàng hoá = hao phí sức lao động = thời gian lao động của người sản xuất để
sản xuất ra hàng hoá.

 Là sức lao động của người sản xuất hàng hoá bị hao phí kết tinh trong hàng
hoá
 Là mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hoá
 Trao đổi là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị còn giá trị là nội
dung, cơ sở của trao đổi.
1.2. Giá trị sử dụng của hàng hoá

Giá trị sử dụng là công dụng của hàng hóa có thể thỏa mãn một số nhu cầu nào đó
của con người. (có thể là nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần, nhu cầu cá nhân, nhu cầu
tiêu dùng cho sản xuất…). Đối với giá trị sử dụng, hàng hóa có các đặc điểm như sau:

 Giá trị sử dụng do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa quyết định
 Hàng hóa không nhất thiết chỉ có một giá trị sử dụng duy nhất. Khi khoa
học kỹ thuật càng phát triển người ta càng phát hiện ra nhiều thuộc tính mới
của hàng hóa và sử dụng chúng cho nhiều mục đích khác nhau
 Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì nó tồn tại trong mọi phương thức
hoặc mọi kiểu tổ chức sản xuất.
 Giá trị sử dụng không dành cho bản thân người sản xuất hàng hóa mà cho
người tiêu dùng hàng hóa (xã hội). Người mua có quyền sở hữu và sử dụng
hàng hóa theo mục đích của họ. Hay nói cách khác, sản phẩm hàng hóa đáp
ứng nhu cầu của xã hội
1.3. Mối liên hệ giữa hai thuộc tính của hàng hoá

Giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau:

 Mặt thống nhất: Hai thuộc tính này tồn tại đồng thời trong một sản phẩm, hàng
hóa. Phải có đủ hai thuộc tính này sản phẩm, vật phẩm đó mới đượcgọi là hàng
hóa. Nếu thiếu một trong hai thuộc tính, thì sản phẩm, vật phẩm không được coi là
hàng hóa
 Mặt mâu thuẫn: Người sản xuất làm ra hàng hóa để bán, mục đích của họ là mặt
giá trị (tức là lợi nhuận) chứ không phải là giá trị sử dụng. Trong tay người bán có
giá trị sử dụng, tuy nhiên cái mà họ quan tâm là giá trị hàng hóa. Ngược lại, đối
với người mua, họ lại rất cần giá trị sử dụng. Nhưng để có giá trị sử dụng, trước
hết họ cần thực hiện giá trị hàng hóa sau đó mới có thể chi phối giá trị sử dụng. Vì
vậy mâu thuẫn giữa hai thuộc tính này chính là “quá trình thực hiện giá trị sử dụng
và giá trị hàng hóa là hai quá trình khác nhau về thời gian và không gian. Quá
trình thực hiện giá trị được thực hiện trước (trên thị trường), quá trình thực hiện
giá trị sử dụng diễn ra sau (trong tiêu dùng). Nếu giá trị của hàng hóa không được
thực hiện thì sẽ dẫn đến khủng hoảng sản xuất.”
3. Thực trạng của hàng hoá Việt Nam

Theo quan điểm của C.Mác thì kinh tế hàng hóa không phải là một phương thức sản xuất độc
lập mà là một hình thức tổ chức kinh tế tồn tại trong các phương thức xã hội. Với phạm vi và
mức độ khác nhau, tuy cùng là nền kinh tế hàng hóa nhưng bản chất của xã hội sẽ quy định đặc
điểm của kinh tế hàng hóa của xã hội đó. Bên cạnh đó, vai trò quản lý của nhà nước định hướng
nền kinh tế hàng hóa theo chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là do nước ta là nhà nước xã hội chủ
nghĩa.

Trước đây, nước ta vốn phát triển lực lượng sản xuất xã hội rất thấp nên cơ sở sản xuất, chế
biến nông, thủy sản ở nước ta còn lạc hậu, trong khi thị trường quốc tế lại khó tính, đòi hỏi cao
về chất lượng của sản phẩm. Nếu chúng ta không tiến lên trình độ sản xuất lớn, hiện đại thì nền
kinh tế của nước ta sẽ không thể khắc phục được sự lạc hậu. Chính vì vậy, nhà nước ta khẳng
định chỉ có thể phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần mới phát triển được lực lượng sản
xuất; thúc đẩy sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa; đẩy lùi được kinh tế tự nhiên; khắc
phục được hậu quả của kinh tế kế hoạch hóa tập trung; làm cho kinh tế nước ta hòa nhập vào
kinh tế khu vực và thế giới. Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho
quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần được nâng cao, phong phú và đa dạng hơn đều
nhờ vào sự phát triển sản xuất, mở rộng và giao lưu kinh tế giữ các cá nhân, các vùng các
nước,...

Nền kinh tế nước ta đã từng là nền kinh tế hàng hóa kém phát triển và chịu ảnh hưởng của cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp. Chất lượng sản phẩm của hầu hết các doanh nghiệp còn thấp
kém đều do hệ thống công cụ thủ công lạc hậu và lao động thủ công còn nhiều. Các doanh
nghiệp phải chấp nhận sự cạnh tranh để tồn tại và chất lượng hàng hóa, dịch vụ trở thành vấn đề
quyết định. Do đó, các đơn vị sản xuất, kinh doanh không ngừng đưa ra thị trường nhiều loại
hàng hóa với mẫu mã khác nhau và chất lượng sẽ ngày càng được nâng cao. Vì vậy khả năng
cạnh tranh trên thị trường của hàng hóa sẽ tốt hơn và người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn
khi mua hàng hóa.

Dựa vào đặc điểm của từng loại hàng hóa và mục đích sử dụng chúng ta có thể chia hàng hóa
hiện nay ra thành 3 loại: hàng công nghiệp, hàng nông, lâm thủy sản và hàng dịch vụ.

- Hàng công nghiệp: Một số sản phẩm công nghiệp có chỉ số sản xuất tăng cao như: mặt
hàng điện thoại di động, ô tô, tivi, giày dép da, thức ăn cho thủy sản, sơn hóa học, thức ăn cho
gia súc, điện sản xuất,...

- Hàng nông sản: Nước ta là một nước nông nghiệp, diện tích đất đai nông nghiệp dùng để
canh tác là rất lớn... Sản phẩm nông nghiệp lại chia thành hai nhóm chính là trồng trọt và chăn
nuôi.

- Hàng thủy sản: Đất nước ta luôn tự hào với đường bờ biển dài với nhiều ngư trương đánh
cá quan trọng để cung cấp một lượng lớn để phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu. Tuy nhiên, sản
lượng nuôi trồng có xu hướng tăng mạnh hơn do ngư dân đã tập trung hơn vào việc nuôi trồng
để tránh làm cạn kiệt nguồn tài nguyên biển.

- Hàng lâm sản: So với hai ngành còn lại, lâm sản cũng có những bước phát triển nhất định
với chất lượng ngày càng nâng cao hơn.

Tuy nhiên , nếu hàng hóa mà chỉ chăm chú vào phát triển sản lượng thì hàng hóa của nước ta
sẽ không thể đứng vững trên thị trường, muốn tồn tại và phát triển ta cần phải nâng cao chất
lượng hàng hóa. Chất lượng chính là sự đáp ứng yêu cầu của người sử dụng tức là hàng sản xuất
ra phải phù hợp với mục đích và điều kiện sử dụng trong những hoàn cảnh cụ thể. Do đó, việc
quản lý Nhà nước về quản lý chất lượng hàng hóa, dịch vụ bao gồm:

- Nhà nước định hướng sự phát triển nâng cao chất lượng hàng hóa , dịch vụ xây dựng kế
hoạch, quy hoạch về chất lượng, ban hành luật và các chính sách khuyến khích chất lượng.

- Nhà nước quy định chế độ, thể lệ và quản lý chất lượng , ban hành tiêu chuẩn Việt Nam và
tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến chất lượng hàng hóa, dịch vụ.

- Nhà nước xác nhận tính hợp pháp của hàng hóa, dịch vụ về mặt chất lượng của các hệ
thống quản lý chất lượng, của các phòng thử nghiệm chất lượng hàng hóa bằng việc cấp đăng kí,
chứng nhận và công nhận.
- Nhà nước giám sát sự thực hiện những quy định quản lý qua thanh tra Nhà nước về chất
lượng hàng hóa và xử lý vi phạm pháp luật về chất lượng hàng hóa, thiết lập trật tự kỉ cương
trong lĩnh chất lượng hàng hóa, bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các doanh nghiệp và người tiêu
dùng.

II. Sản xuất hàng hóa


1. Khái niệm

Theo C.Mac là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó, những người sản xuất ra sản
phẩm nhằm mục đích trao đổi, mua bán.

2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa:

- Điều kiện thứ nhất, phân công lao động xã hội.

Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các ngành, các
lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người sản xuất thành
những ngành, nghề khác nhau. Khi đó, mỗi người thực hiện sản xuất một hoặc một số loại
sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của họ lại yêu cầu nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để
thỏa mãn nhu cầu của mình, tất yếu những người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau.

- Điều kiện thứ hai, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất.

Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa những người sản xuất
độc lập với nhau, có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này muốn tiêu dùng
sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán, tức là phải trao đổi dưới hình
thức hàng hóa. C.Mác viết: “chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không
phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa”. Sự tách biệt về mặt kinh
tế giữa những người sản xuất là điều kiện đủ để nền sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển.

3. Tính hai mặt của hàng hóa

Nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa với lao động sản xuất hàng hóa,
C.Mác phát hiện ra rằng, sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính là do lao động của người sản xuất
hàng hóa có tính hai mặt: mặt cụ thể và mặt trừu tượng của lao động.

- Lao động cụ thể


Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên
môn nhất định.

Mỗi lao động cụ thể có mục đích, đối tượng lao động, công cụ, phương pháp lao động riêng
và kết quả riêng. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá.

Các loại lao động cụ thể khác nhau tạo ra những sản phẩm có giá trị sử dụng khác nhau.
Phân công lao động xã hội càng phát triể, xã hội càng nhiều ngành nghề khác nhau , các hình
thức lao động cụ thể càng phong phú, đa dạng, càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau.

- Lao động trừu tượng

Lao động trừu tượng là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá không kể đến hình thức
cụ thể của nó, đó là sự hao phí sức lao động nói chung của người sản xuất hàng hoá về cơ
bắp, thần kinh, trí óc.

Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá.

Lao động cụ thể phản ánh tính chất tự nhân của lao động sản xuất hàng hóa bởi việc sản xuất
cái gì, như thế nào là việc riêng của mỗi chủ thể sản xuất.

Lao động trừu tượng phản ánh tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa, bởi lao động
của mỗi người là một bộ phận của lao động xã hội, nằm trong hệ thống phân công lao động
xã hội.

III. Lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
1. Lượng giá trị hàng hóa

Để đo lường lượng giá trị của một hàng hóa nhất định, sử dụng đơn vị thời gian hao phí
lao động để sản xuất ra hàng hóa đó. Tuy nhiên, không phải là đơn vị thời gian bất kỳ mà là
thời gian lao động xã hội cần thiết. TGLĐXHCT là thời gian đời hỏi để sản xuất ra một giá
trị sử dụng nào đó trong những điều kiện bình thường của xã hội với một trình độ thành thạo
trung bình, cường độ lao động trung bình.

Vậy, lượng giá trị của một đơn vị sản xuất hàng hóa là lượng thời gian hao phí lao động
xã hội cần thiết để sản xuất ra đơn vị hàng hóa đó.

2. Các nhân tố ảnh hưởng:

+ Một là, năng suất lao động.


Năng suất lao động là là năng lực sản xuất của người lao động, được tính bằng số lượng
sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, hay số lượng thời gian hao phí để sản xuất
ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động tăng lên sẽ làm giảm lượng thời gian hao phí lao
động cần thiết trong một đơn vị hàng hóa. Do vậy, năng suất lao động tăng lên, sẽ làm cho
lượng giá trị trong một đơn vị hàng hóa giảm xuống.

Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động gồm:

 Trình độ khéo léo trung bình của người lao động


 Mức độ phát triển của khoa học và trình độ áp dụng khoa học vào quy trình công
nghệ
 Sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất
 Quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất; và các điều kiện tự nhiên

Khi xem xét về mối quan hệ giữa tăng năng suất với lượng giá trị của một đơn vị hàng
hóa, cần chú ý thêm về mối quan hệ giữa tăng cường độ lao động với lượng giá trị của
một đơn vị hàng hóa. Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt động
lao động trong sản xuất. Tăng cường độ lao động là tăng mức độ khẩn trương, tích cực
của hoạt động lao động.

+ Hai là, tính chất phức tạp của lao động.

Căn cứ vào mức độ phức tạp của lao động mà chia thành lao động gian đơn và lao
động phức tạp.

* Lao động giản đơn là lao động không đòi hỏi có quá trình đào tạo một cách hệ
thống, chuyên sâu về chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ cũng có thể thao tác được.

* Lao động phức tạp là những hoạt động lao động yêu cầu phải trải qua một quá
trình đào tạo về kỹ năng, nghiệp vụ theo yêu cầu của những nghề nghiệp chuyên môn
nhất định.

3. Thực trạng nền sản xuất hàng hóa ở nước ta hiện nay

Trong khoảng thời gian gần đây, nền kinh tế hàng hóa Việt Nam có xu hướng sụt giảm. Tuy
khủng ho
ảng trong thời gian dài nhưng năm 2013, nền kinh tế nước ta đã có những dấu hiệu hồi phục.
Tốc độ tăng trưởng năm 2011 là 6,24%, năm 2012 là 5,25% và năm 2013 là 5.42%. 11 Việc
GDP năm 2013 có sự tăng nhẹ cho chúng ta niềm tin rằng: “Kinh tế Việt Nam đã vượt qua
nhiều khó khăn, đang phục hồi và hướng tới tốc độ tăng trưởng cao hơn,” Thủ tướng Chính
phủ Nguyễn Tấn Dũng đưa ra trong bài phát biểu tại Diễn đàn Đối tác Phát triển Việt Nam
(VDPF) 2013 tổ chức sáng 5/12 tại Hà Nội.12

Cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam từ sau khi đổi mới tới nay đã có nhiều thay đổi đáng mừng.
Có sự chuyển đổi tích cực từ khu vực I (nông lâm nghiệp và thủy sản) sang khu vực II (công
nghiệp và xây dựng) và khu vưc III (dịch vụ).

Cơ cấu thành phần kinh tế của nước ta cũng đã có sự tiến bộ. Từ nền kinh tế mang nặng tính
công hữu, lấy kinh tế quốc doanh là hình thức cao nhất, đến nay, nước ta đã có nền kinh tế
nhiều thành phần với sự tham gia ngày càng mạnh mẽ của kinh tế ngoài Nhà nước và khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài.

Tuy đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng nền kinh tế hàng hóa Việt Nam vẫn chưa
thể hiện được một cách triệt để những ưu thế của mình. Bên cạnh đó là sự tồn đọng những
hạn chế của nền sản xuất hàng hóa nước ta cần được sớm giải quyết.

 Về thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: Lực lượng sản xuất của Việt Nam dù đã có
sự phát triển lớn so với trước khi đổi mới, song hiện nay trình độ lao động của Việt
Nam còn kém. “Theo đánh giá mới nhất của Ngân hàng Thế giới, chất lượng nguồn
nhân lực Việt Nam chỉ đạt mức 3,79 điểm (theo thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số
12 nước Châu Á tham gia xếp hạng”.
 Về đẩy mạnh quá trình xã hội hóa sản xuất: Năng suất lao động xã hội ở Việt Nam
còn thấp. Việc xuất khẩu hàng Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn do giá thành
cao, bị kiện bán phá giá hay bị kiểm soát ở thị trường một số nước như Hoa Kì.
 • Về đáp ứng nhu cầu đa dạng cho xã hội: Nước ta đã đáp ứng khá tốt cả về mẫu mã
và chất lượng. Tuy nhiên sự xuất hiện của hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng
trên thị trường ngày càng nhiều. Giá các mặt hàng thiết yếu như điện, nước liên tục
tăng.
IV. Nền Kinh Tế Thị Trường
1. Khái niệm
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà ở đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình
sở hữu cùng tham gia, cùng vận động và phát triển trong một cơ chế cạnh tranh bình đẳng và
ổn định.

Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận động theo các quy luật của thị trường, trong đó quy
luật giá trị đóng vai trò chi phối và được biểu hiện bằng quan hệ cung cầu trên thị trường.

Trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về kinh tế thị trường. Theo Xmit (Adam
Smith), với lí thuyết “bàn tay vô hình" thì nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự điều tiết,
vận động theo quy luật của thị trường, hầu như không có sự can thiệp của Nhà nước. Kinh tế
thị trường được hiểu dưới góc độ khác là có sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước “bàn tay
hữu hình" mà đại diện cho thuyết này là Kâynơ (J. M. Keynes) với “Lí thuyết chung về việc
làm, lãi suất và tiền tệ".

2. Ưu điểm

Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá cả
hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng lượng
cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao
hơn, cho phép họ tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía
những người sản xuất hiệu quả. Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có
tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào
thải.

Do đó, nền kinh tế thị trường tạo ra động lực để các doanh nghiệp có thể đổi mới, phát
triển mình, bởi khi các doanh nghiệp đó muốn cạnh tranh và đáp ứng tốt nhu cầu của thị
trường thì đòi hỏi họ phải đổi mới về công nghệ, về quy trình sản xuất, quản lý, về các sản
phẩm của mình.

Ở nền kinh tế thị trường thì con người mong muốn tìm ra phương án cải tiến cho phương
thức làm việc, đúc rút cho bản thân nhiều kinh nghiệm. Kinh tế thị trường là nơi để phát
hiện, đào tạo, tuyển chọn, sử dụng những người có năng lực tốt, nâng cao quy trình quản lý
kinh doanh, cũng là nơi để đào thải những nhà quản lý chưa đạt được hiệu quả cao.

Kinh tế thị trường tạo xu thế liên doanh, liên kết đẩy mạnh giao lưu kinh tế, các nước
đang phát triển có cơ hội được tiếp xúc được chuyển giao công nghệ sản xuất, công nghệ
quản lý từ các nước phát triển để thúc đẩy công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở nước
mình. Trong thương mại quốc tế, mức độ thị trường hóa nền kinh tế có thể được sử dụng làm
tiêu chí trong xác định điều kiện thương mại giữa hai bên.

3. Khuyết điểm

Nền kinh tế thị trường mang tính tự phát, tìm kiếm lợi nhuận bằng bất kỳ giá nào, không
đi đúng hướng của kế hoạch Nhà nước, mục tiêu về phát triển kinh tế vĩ mô của nền kinh tế.
Tính tự phát của thị trường còn dẫn đến tập trung hóa cao độ, sinh ra độc quyền, cạnh tranh,
làm giảm hiệu quả chung và tính tự điều chỉnh của nền kinh tế.

Kinh tế thị trường phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho thành phần kinh tế phát triển, lúc
đó vai trò của kinh tế nhà nước bị giảm sút và chịu sức ép mạnh mẽ từ các thành phần kinh tế
khác.

Nền kinh tế thị trường do các nhà sản xuất hàng hóa dịch vụ chạy theo lợi nhuận gây ra
hậu quả về môi trường sinh thái làm giảm tốc độ tăng trưởng bền vững của quốc gia.

Mặt trái của kinh tế thị trường là các tệ nạn xã hội mới nảy sinh càng ngày càng tăng.

4. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

- Về chủ thể kinh tế: Các chủ thể kinh tế được tự do sản xuất kinh doanh theo luật pháp và
được bình đẳng không phân biệt đối xử. Các chủ thể kinh tế đều có cơ hội để tiếp cận các
nguồn lực phát triển có hiệu quả.

- Về thị trường: Thực hiện các giải pháp để tạo lập và phát triển các yếu tố thị trường cơ bản
như thị trường hàng hóa và dịch vụ; thị trường vốn, tiền tệ; thị trường khoa học, công nghệ;
thị trường lao động, thị trường bất động sản và lành mạnh hóa các yếu tố thị trường đó nhằm
tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định, bền vững và bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa.

- Về cơ chế vận hành: Tôn trọng tính khách quan của các quy luật kinh tế thị trường; tính
năng động của cơ chế thị trường.

- Về vai trò của Nhà nước: Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường trên cơ sở vận dụng các
quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường vào điều kiện Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế để định hướng phát triển nền kinh tế, tạo lập môi trường cho nền kinh tế phát
triển ổn định, bền vững và hạn chế mặt trái của cơ chế thị trường.

5. Những đặc trưng riêng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam

- Về hệ thống mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rỏ: phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, thực hiện: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để thực hiện được
mục tiêu đó trong phát triển nền kinh tế thị trường, phải tạo điều kiện để giải phóng mạnh mẽ
sức sản xuất và không ngừng phát triển lực lượng sản xuất; phát triển lực lượng sản xuất hiện
đại gắn với xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý
và phân phối; phát triển kinh tế thị trường để từng bước xây dựng hạ tầng kinh tế cho chủ
nghĩa xã hội; cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.

Mục tiêu kinh tế - xã hội - văn hóa mà nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta phải đạt là:

Làm cho dân giàu: Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP đầu người tăng
nhanh trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu, nghèo trong xã hội ngày càng được thu
hẹp.

Làm cho nước mạnh: Thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị trường cho ngân
sách quốc gia; ở sự gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở sự sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các
nguồn tài nguyên quốc gia; ở sự bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ các bí mật quốc gia về
tiềm lực kinh tế, khoa học, công nghệ và an ninh, quốc phòng.

Làm cho xã hội công bằng, văn minh: Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi ích ngay trong
nội bộ nền kinh tế thị trường, ở đó việc góp phần to lớn vào giải quyết các vấn đề xã hội, ở
việc cung ứng các hàng hóa và dịch vụ có giá trị không chỉ về kinh tế mà còn có giá trị cao
về văn hóa, xã hội.
Về mục tiêu chính trị: Làm cho xã hội dân chủ, biểu hiện ở chỗ dân chủ hóa nền kinh tế, mọi
người, mọi thành phần kinh tế có quyền tham gia vào hoạt động kinh tế, vào sản xuất kinh
doanh, có quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của mình; quyền của người sản xuất và người
tiêu dùng được bảo vệ trên cơ sở pháp luật của nhà nước.

- Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế: Nền kinh tế có nhiều thành phần, với nhiều
hình thức sở hữu. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh với nhau trên cơ sở pháp luật của nhà nước, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo và kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân; chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, từng bước được xác lập
và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội về cơ bản được xây dựng xong.

- Về chế độ phân phối: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta,
thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; đồng thời có các
hình thức phân phối khác nữa (phân phối theo vốn, theo tài năng cùng các nguồn lực khác
đóng góp vào sản xuất kinh doanh), vừa khuyến khích lao động, vừa bảo đảm phúc lợi xã hội
cơ bản, bảo đảm sự phân phối công bằng, hợp lý và hạn chế sự bất bình đẳng trong xã hội.

- Về vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, sự quản lý và điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, sự quản lý của nhà nước trong nền
kinh tế thị trường phải định hướng cho nền kinh tế phát triển có hiệu quả trên cơ sở đảm bảo
lợi ích quốc gia, lợi ích của nhân dân lao động thông qua hệ thống pháp luật, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời, có sử dụng cơ chế thị
trường (vận dụng các quy luật kinh tế thị trường để đưa ra những công cụ tác động vào thị
trường) kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt
tiêu cực của cơ chế thị trường.
Sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường nhằm giải quyết mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, cải thiện đời sống nhân
dân. Nhà nước thực hiện chính sách xã hội, một mặt, khuyến khích làm giàu hợp pháp, mặt
khác phải thực hiện xóa đói, giảm nghèo.

- Về nguyên tắc giải quyết các mối quan hệ chủ yếu: Kết hợp ngay từ đầu giữa lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất, bảo đảm giải phóng sức sản xuất; xây dựng lực lượng sản xuất kết
hợp với củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới XHCN, nhằm phục vụ cho phát triển
sản xuất và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữa phát triển sản xuất với từng bước
cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân; giải quyết tốt các vấn đề xã hội và công bằng xã
hội, ngăn chặn các tệ nạn xã hội; giải quyết tốt các nhiệm vụ chính trị, xã hội, văn hóa, môi
trường và an ninh, quốc phòng.

- Về tính cộng đồng và tính dân tộc: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta mang tính cộng đồng cao theo truyền thống của xã hội Việt Nam, phát triển kinh tế thị
trường có sự tham gia của cộng đồng và vì lợi ích của cộng đồng, hướng tới xây dựng một
cộng đồng xã hội Việt Nam giàu có, đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh thần, dân chủ,
công bằng, văn minh, đảm bảo cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho nhân dân.

- Về quan hệ quốc tế: Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta dựa vào sự phát huy
tối đa nguồn lực trong nước và triệt để tranh thủ nguồn lực nước ngoài theo phương châm
“Kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại” và sử dụng các nguồn lực đó một
cách hợp lý, đạt hiệu quả cao, để phát triển nền kinh tế đất nước với tốc độ nhanh, hiện đại
và bền vững.

You might also like