You are on page 1of 34

bCâu 1: Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa và mối

quan hệ giữa hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị của hàng hóa.
Với vai trò chủ thể sản xuất, bạn hãy đề xuất ý tưởng hoặc giải
pháp để “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”

1. phân tích hai thuộc tính của hàng hóa và mối quan hệ giữa hai thuộc
tính giá trị sử dụng và giá trị của hàng hóa

– Khái niệm hàng hoá

Hàng hoá là sản phẩm của lao động, nó có thể thoả mãn những nhu cầu
nhất định nào đó của con ngưòi thông qua trao đổi, mua bán.

– Hai thuộc tính của hàng hóa: giá trị sử dụng và giá trị.

Giá trị sử dụng:

+ Khái niệm: Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa có
thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, không kể nhu cầu đó được
thỏa mãn trực tiếp hay gián tiếp.

+ Đặc trưng giá trị sử dụng của hàng hóa:

* Hàng hóa có thể có một hay nhiều giá trị sử dụng hay công dụng khác
nhau. Số lượng giá trị sử dụng của một vật không phải ngay một lúc đã
phát hiện ra được hết, mà nó được phát hiện dần dần trong quá trình phát
triển của khoa học – kỹ thuật.

* Giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn vì giá trị sử dụng hay công
dụng của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa quyết
định.

* Giá trị sử dụng của hàng hóa chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay
tiêu dùng (tiêu dùng cho sản xuất, tiêu dùng cho cá nhân), nó là nội dung
vật chất của của cải, không kể hình thức xã hội của của cải đó như thế
nào.
* Hàng hóa ngày càng phong phú, đa dạng, hiện đại thì giá trị sử dụng
càng cao.

Giá trị hàng hóa:

Một vật, khi đã là hàng hoá thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng.
Nhưng không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hoá.
Như vậy, một vật muốn trở thành hàng hóa thì giá trị sử dụng của nó
phải là vật được sản xuất ra để bán, để trao đổi, cũng có nghĩa là vật đó
phải có giá trị trao đổi. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là cái
mang giá trị trao đổi. Muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị
trao đổi.

+ Giá trị trao đổi:

* Khái niệm: Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ
theo đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử
dụng loại khác.

* Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc

* Hai vật thể khác nhau có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng
phải có cơ sở chung nào đó. Vì các hàng hóa khác nhau về giá trị sử
dụng nên không thể lấy giá trị sử dụng để đo lường các hàng hóa. Các
hàng hóa khác nhau chỉ có một thuộc tính chung làm cho chúng có thể
so sánh được với nhau trong khi trao đổi: các hàng hóa đều là sản phẩm
của lao động, sản phẩm của lao động là do lao động xã hội hao phí để
sản xuất ra hàng hóa đó. Thực chất các chủ thể khi trao đổi hàng hóa với
nhau là trao đổi lao động chứa đựng trong hàng hóa. Trong ví dụ trên,
giả sử người

thợ dệt làm ra được 1 m vải mất 5 giờ, người nông dân làm ra 10 kg thóc
cũng mất 5 giờ. Trao đổi 1 m vải lấy 10 kg thóc thực chất là trao đổi 5
giờ lao động sản xuất ra 1 m vải với 5 giờ lao động sản xuất ra 10 kg
thóc.
Như vậy, hao phí để sản xuất ra hàng hóa là cơ sở chung của trao đổi gọi
là giá trị hàng hóa.

+ Khái niệm: Giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất
kết tinh trong hàng hoá.

+ Đặc trưng của giá trị hàng hóa:

* Giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.

* Giá trị là một phạm trù lịch sử, nghĩa là nó chỉ tồn tại ở những phương
thức sản xuất có sản xuất và trao đổi hàng hóa.

* Giá trị hàng hóa biểu hiện quan hệ sản xuất xã hội, tức là quan hệ kinh
tế giữa những người sản xuất hàng hóa. Trong nền kinh tế dựa trên chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ kinh tế giữa người với người biểu
hiện thành quan hệ giữa vật với vật. Hiện tượng vật thống trị mgười gọi
là sự sùng bái hàng hóa, khi tiền tệ xuất hiện thì đỉnh cao của sự sùng bái
hàng hóa là sự sùng bái tiền tệ.

Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị; giá trị là nội dung,
là cơ sở của giá trị trao đổi. Giá trị thay đổi thì giá trị trao đổi cũng thay
đổi theo.

– Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa

+ Hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị.
Hai thuộc tính trên đều do cùng một lao động sản xuất ra hàng hóa.

+ Hai thuộc tính của hàng hóa là sự thống nhất của các mặt đối lập. Sự
đối lập và mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị thể hiện ở chỗ: người
làm ra hàng hóa đem bán chỉ quan tâm đến giá trị hàng hóa do mình làm
ra, nếu họ có chú ý đến giá trị sử dụng cũng chính là để có được giá trị.
Ngược lại, người mua hàng hóa lại chỉ chú ý đến giá trị sử dụng của
hàng hóa, nhưng muốn tiêu dùng giá trị sử dụng đó người mua phải trả
giá trị của nó cho người bán. Nghĩa là quá trình thực hiện giá trị tách rời
quá trình thực hiện giá trị sử dụng: giá trị được thực hiện trước, sau đó
giá trị sử dụng mới được thực hiện.

2. Với vai trò chủ thể sản xuất, em sẽ đề xuất ý tưởng hoặc giải pháp để
“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” là

-Cải thiện máy móc kĩ thuật để nâng cao năng suất lao động, giúp giảm
giá thành sản phẩm

- nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường

- đẩy mạnh xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm rộng rãi để cho
người tiêu dùng đều biết đến, tạo lòng tin với người tiêu dùng

-khảo sát nắm chắc thị hiếu tiêu dùng và nhu cầu sản phẩm, hàng hoá
của doanh nghiệp trên thị trường;

-thiết lập hệ thống phân phối đưa hàng hoá, dịch vụ đến với người tiêu
dùng và thực hiện các cam kết của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng
(hàng hoá bảo đảm mẫu mã hấp dẫn, tác dụng tốt và đảm bảo an toàn,
bền vững đối với người tiêu dùng, dịch vụ sau bán hàng...).

-Có kế hoạch, giải pháp đưa sản phẩm thương hiệu của doanh nghiệp
cạnh tranh với thị trường thế giới

- tổ chức các lớp đào tạo nâng cao tay nghề người lao động, từ đó chất
lượng sản phẩm và năng suất của sản phẩm tăng lên đồng nghĩa với việc
giá thành sản phẩm cũng sẽ giảm xuốn

Câu 2
1. Lương giá trị hàng hóa
Giá trị của hàng hoá là do lao động xã hội, lao động trừu tượng của
người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá.
Lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng lượng lao động tiêu hao để
sản xuất ra hàng hoá đó. Trên thực tế có nhiều người cùng sản xuất một
loại hàng hoá, nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao
động khác nhau, do đó thời gian lao động để sản xuất ra hàng hoá không
giống nhau, tức hao phí lao động cá biệt khác nhau. Vì vậy, lượng giá trị
hàng hoá không phải tính bằng thời gian lao động cá biệt, mà tính bằng
thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần để sản xuất
ra một hàng hoá nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của
xã hội với trình độ trang thiết bị trung bình, với trình độ thành thạo trung
bình và cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.
a) Trình độ thành thạo trung bình tức trình độ nghề, trình độ kỹ thuật,
mức độ khéo léo của đại đa số người cùng sản xuất mặt hàng nào đó.
b) Cường độ lao động trung bình là cường độ lao động trung bình trong
xã hội, sức lao động phải được tiêu phí với mức căng thẳng trung bình,
thông thường.
c) Điều kiện bình thường của xã hội tức là muốn nói dụng cụ sản xuất
loại gỡ là phổ biến, chất lượng nguyên liệu để chế tạo sản phẩm ở mức
trung bình.
Cũng cần chú ý rằng, trình độ thành thạo trung bình, cường độ trung
bình, điều kiện bình thường của xã hội đối với mỗi nước, mỗi ngành là
khác nhau và thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Thông thường, thời gian lao động xã hội cần thiết gần sát với thời gian
lao động cá biệt (mức hao phí lao động cá biệt) của người sản xuất hàng
hoá nào cung cấp đại bộ phận hàng hoá đó trên thị trường. Thời gian lao
động xã hội cần thiết là một đại lượng không cố định, do đó lượng giá trị
hàng hoá cũng không cố định. Khi thời gian lao động xã hội cần thiết
thay đổi thì lượng giá trị của hàng hoá cũng thay đổi.
Như vậy, chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động
xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá, mới là cái quy định đại lượng
giá trị của hàng hoá ấy.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị
của hàng hoá cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi này tuỳ
thuộc vào năng suất lao động và mức độ phức tạp hay đơn giản của lao
động
a) Năng suất lao động là sức sản xuất của lao động được đo bằng lượng
sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian lao
động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
b) Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động có tác động khác
nhau đối với lượng giá trị hàng hoá. Cường độ lao động là mức độ khẩn
trương, nặng nhọc của lao động trong cùng một thời gian lao động nhất
định và được đo bằng sự tiêu hao năng lực của lao động trên một đơn vị
thời gian và thường được tính bằng số calo hao phí trong một thời gian
nhất định.
c) Tính chất của lao động.
Lao động giản đơn và lao động phức tạp
Lao động giản đơn là lao động mà một người lao động bỡnh thường
không cần phải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được.
Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện
mới có thể tiến hành được.
Liên hệ:
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: là tổng hợp năng lực nắm giữ và
nâng cao thị phần trong sản xuất hàng hóa, dịch vụ và đáp ứng được các
yêu cầu của thị trường. Nói cách khác, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp chính là khai thác thực lực và lợi thế bên trong và bên ngoài của
doanh nghiệp để tối đa hóa lợi ích của mình vừa thỏa mãn tốt nhu cầu
của khách hàng. Đồng thời cải tiến vị thế của doanh nghiệp so với đối
thủ.
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Hiện nay, các doanh nghiệp ở Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, nguồn tài chính vẫn còn hạn hẹp, chính vì vậy mà năng lực
cạnh tranh đối với các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nước ngoài vẫn
còn nhiều hạn chế. Do đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh thì các doanh
nghiệp phải chuẩn bị được nguồn tài chính dồi dào, chủ động đối phó
trước những biến động của nền kinh tế
- Nâng cao năng lực tài chính
- Nâng cao chất lượng nguồn lao động
- Nâng cao chất lượng sản phẩm
- Nâng cao uy tín và thương hiệu sản phẩm

Câu 3
Quy luật giá trị trong kinh tế chính trị Mác - Lênin là quy luật kinh tế cơ
bản của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa. Theo nghiên cứu trong thực
tiễn, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát
triển của hoạt động quy luật về giá trị. Song song với đó, đây còn là cơ
sở quy định bản chất tất cả các quy luật khác của sản xuất hàng hóa. Vận
dụng quy luật giá trị trong thực tiễn là yếu tố chi phối cơ chế thị trường
cũng như chi phối đến một số quy luật kinh tế khác.

a/Nội dung

Việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến hành dựa trên cơ sở
thời gian lao động xã hội cần thiết giản đơn trung bình.

Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần có để sản
xuất hàng hóa trong điều kiện sản xuất bình thường (trung bình) của xã
hội, cùng với trình độ kinh tế, trang thiết bị trung bình, cường độ lao
động và khả năng thành thạo trung bình của xã hội ở thời điểm đó.

b/Yêu cầu

Yêu cầu chung của quy luật giá trị là việc sản xuất và trao đổi hàng hóa
phải dựa trên cơ sở hao phí sức lao động xã hội cần thiết. Cụ thể hơn là:
- Đối với sản xuất: phải sản xuất ra hàng hóa với giá trị cá biệt bằng
hoặc thấp hơn giá trị xã hội hay giá cả thị trường của hàng hóa.

Mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình
nhưng giá trị của hàng hóa được quyết định bởi hao phí lao động xã hội
cần thiết. Vì vậy, người sản xuất muốn bán được hàng hóa trên thị
trường, muốn được

xã hội thừa nhận sản phẩm cũng như bù đắp được chi phí thì phải điều
chỉnh lượng giá trị của hàng hóa cá biệt cho phù hợp với thời gian lao
động xã hội cần thiết. Mức hao phí lao động cá biệt càng thấp thì càng
có khả năng phát triển kinh doanh, thu được nhiều lợi nhuận.

- Đối với lưu thông: phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị
xã hội làm cơ sở, không dựa trên giá trị cá biệt.

Hai hàng hóa được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao
động như nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hóa phải thực hiện với giá
cả bằng giá trị. Tức là hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau, nhưng
có lượng giá trị bằng nhau thì phải trao đổi ngang nhau.

Quy luật giá trị hoạt động và phát huy tác dụng thông qua sự vận động
của giá cả xung quanh giá trị dưới tác động của quan hệ cung - cầu. Sự
tác động của cạnh tranh, cung - cầu, sức mua của đồng tiền,... làm cho
giá cả hàng hóa trên thị trường tách rời giá trị và lên xuống xoay quanh
trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hoá xoay
quanh giá trị hàng hóa là cơ chế tác động của quy luật giá trị. Quy luật
giá trị buộc những người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân theo
yêu cầu hay đòi hỏi của nó thông qua mệnh lệnh của giá cả thị trường

Tác động của quy luật giá trị

a. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa

· Là sự phân phối lại các yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động từ
ngành sản xuất này sang ngành sản xuất khác theo hướng từ nơi có lãi ít
hoặc không lãi sang nơi lãi nhiều.
b. Kích thích lực lượng sản xuất phát triển và năng suất lao động tăng
lên.

· Người sản xuất, kinh doanh muốn thu nhiều lợi nhuận phải tìm cách
cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao tay ngề của người lao
động, hợp lí hóa sản xuất, thực hành tiết kiệm…làm cho giá trị hàng hóa
cá biệt của họ thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa. Việc làm này của các
nhà sản xuất sẽ kích thích lực lượng sản xuất của xã hội phát triển.

c. Phân hóa giàu – nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa

· Những người có điều kiện sản xuất thuận lợi , có trình độ, kiến thức
cao, trang bị kĩ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí
lao động xã hội cần thiết, vận dụng tốt quy luật giá trị. Nhờ đó giàu lên
nhanh chóng, có điều kiện mua sắm thêm tư liệu sản xuất, đổi mới kĩ
thuật, mở rộng sản xuất kinh doanh.

· Những người không có điều kiện thuận lợi làm ăn kém cỏi gặp rủi ro
trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn tới phá sản trở thành nghèo khó.

Vận dụng:

Gợi ý thôi nhé

· Một là, tăng cường năng lực của chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ
quản lý trong các doanh nghiệp về quản trị kinh doanh, quản trị chiến
lược. Trong mọi điều kiện, doanh nhân cần thường xuyên cập nhật tri
thức mới, những kỹ năng cần thiết (kỹ năng quản trị trong cạnh tranh,
lãnh đạo doanh nghiệp, quản lý sự biến đổi, khả năng thuyết trình, đàm
phán và giao tiếp v.v..) để có đủ sức cạnh tranh trên thị trường và tiếp
cận kinh tế tri thức. Đặc biệt chú trọng đến chiến lược cạnh tranh và
những kỹ năng mang tính chiến lược, như quản trị chiến lược, quản trị
rủi ro, tính nhạy cảm trong quản lý, phân tích kinh doanh, dự báo và
định hướng chiến lược phát triển.

· Hai là, chủ động và tích cực thực hiện liên kết, hợp tác giữa các doanh
nghiệp Việt Nam để nâng cao chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh trên
thị trường. Sự liên kết và hợp tác doanh nghiệp cần được thực hiện
thông qua các biện pháp và hình thức phù hợp. Điều quan trọng nhất là
giải quyết hài hòa lợi ích của các bên tham gia liên kết, chỉ như vậy mới
thực sự phát huy

hiệu quả của liên kết hợp tác, tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn bộ
doanh nghiệp trong nền kinh tế nhằm cải thiện năng lực cạnh tranh quốc
gia và hiệu quả hội nhập quốc tế.

· Ba là, đẩy mạnh xây dựng văn hóa doanh nghiệp, tạo môi trường văn
hóa lành mạnh, tích cực, chuyên nghiệp luôn là động lực thúc đẩy sức
sáng tạo và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp.

· Bốn là, chú trọng phát triển nguồn nhân lực doanh nghiệp đáp ứng
được yêu cầu đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất, kinh doanh, tham
gia chuỗi kinh doanh toàn cầu với việc đa dạng hóa các sản phẩm chất
lượng cao, dịch vụ chất lượng quốc tế.

· Năm là, khuyến khích tuyển lao động có trình độ, hiểu biết về công
nghệ, nắm vững các yêu cầu của nhà tuyển dụng trong thời đại công
nghiệp 4.0 hiện nay. Sử dụng thành thạo các trang thiết bị máy móc
công nghệ hiện đại. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn
nhân lực của doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu phát triển doanh
nghiệp theo hướng trang bị những tri thức, kỹ năng mới về chuyên môn
kỹ thuật, nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ, năng lực xử lý và tác nghiệp các
tình huống kinh doanh... phù hợp với các chuẩn mực giáo dục, đào tạo
của khu vực và quốc tế.

Câu 4:
Kinh tế thị trường là gì? Trình bày đặc trưng, ưu thế và khuyết tật của
nền kinh tế thị trường? Theo bạn cần làm gì để phát huy những ưu thế và
hạn chế khuyết tật trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay?

Trả lời:
*Khái niệm:

Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị
trường. Đó là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản
xuất và trao đổi đều được thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều
tiết của các quy luật thị trường.

*Đặc trưng kinh tế thị trường:

- Thứ nhất, có sự đa dạng của các chủ thể kinh tế, nhiều hình thức sở
hữu. Các chủ thể kinh tế bình đẳng trước pháp luật.

- Thứ hai, thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các
nguồn lực xã hội thông qua hoạt động của các thị trường bộ phận như thị
trường hàng hóa, thị trường dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường
tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học - công nghệ...

- Thứ ba, giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường.

- Thứ tư, là nền kinh tế mở, thị trường trong nước quan hệ mật thiết với
thị trường quốc tế.

*Ưu thế của kinh tế thị trường:

- Một là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực cho sự sáng tạo các
chủ thể kinh tế.

- Hai là, nền kinh tế thị trường luôn phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi
chủ thể, các vùng, miền cũng như lợi thế các quốc gia.

- Ba là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn
tối đa nhu cầu của con người, từ đó thúc đẩy sự tiến bộ, văn minh của xã
hội.

*Khuyết tật của kinh tế thị trường:

- Một là, trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những rủi ro khủng
hoảng.
- Hai là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn
kiệt tài nguyên không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi
trường xã hội.

- Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân
hóa sâu sắc trong xã hội.

· Những điều nên làm để phát huy ưu thế và hạn chế những khuyết tật
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:

- Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nội dung và mục đích mới.

- Việc hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam được tập trung vào những tháo gỡ những điểm
nghẽn, những vấn đề quan trọng đang cản trở sự phát triển đất nước như
nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia, xây dựng và thực thi
pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch... Đồng thời, trước yêu cầu
phát triển mới, đặc biệt tác động của cuộc cách mạng lần thứ tư nhiều
ngành nghề mới ra đời cần phải có môi trường pháp lý đảm bảo cho sự
phát triển

- Phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường.

- Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh
tế quốc tế.

- Hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ các nguồn lực, về quản lý, sử
dụng đất đai, tài nguyên, nguồn vốn đầu tư của Nhà nước để việc phẩn
bổ các nguồn lực của Nhà nước được thực hiện theo cơ chế thị trường,
thông qua đấu thầu công khai, minh bạch, có sự tham gia của doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.

- Giải quyết hài hòa mối quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội trong
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển nâng cao hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp.

Câu 7:
Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về hàng hóa sức lao
động. Giả sử sau khi tốt nghiệp đại học và ra trường, bạn muốn bán hàng
hoá sức lao động của mình, hãy trình bày giải pháp nâng cao chất lượng
giá trị hàng hoá sức lao động để bạn bán được với giá cao nhất?

Trả lời:

Sức lao động, theo C. Mác, sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực ở
trong thân thể, trong nhân cách một con người, thể lực và trí lực mà con
người đem ra vận dụng để sản xuất ra những sản phẩm có giá trị sử
dụng. Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản
của sản xuất nhưng không phải trong bất kì điều kiện nào, sức lao động
cũng là hàng hóa. Sức lao động chỉ có thể trở thành hàng hóa khi nó
mang những điều kiện sau: Thứ nhất, người lao động phải được tự đo về
thân thể, làm chủ sức lao động của mình, và có quyền bán sức lao động
của mình như một hàng hóa. Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước
đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, họ trở thành người “vô
sản”. Để tồn tại, người đó buộc phải bán sức lao động của mình để kiếm
sống.

Giá trị hàng hóa sức lao động

Cũng giống như những loại hàng hóa khác, giá trị hàng hóa sức lao động
được xác định dựa trên thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và
tái sản xuất sức lao động. Sức lao động là năng lực sản xuất của người
lao động. Do đó để duy trì và tái sản xuất sức lao động, người lao động
cần phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định bao gồm: ăn
uống, ngủ nghỉ, ở, học nghề… Vì vậy, giá trị hàng hóa sức lao động có
thể được đo lường gián tiếp bằng giá trị của các tư liệu sinh hoạt cần
thiết cho việc tái sản xuất sức lao động.
Khác với hàng hóa thông thường, hàng hóa sức lao động bao gồm cả yếu
tố tinh thần và yếu tố lịch sử của từng quốc gia, từng phong tục tập quán
trong từng thời kỳ, trình độ văn minh, điều kiện địa lý, khí hậu, quá trình
hình thành giai cấp công nhân. Điều này thể hiện ở chỗ ngoài nhu cầu về
vật chất, công nhân còn mong muốn được thỏa mãn về những nhu cầu
về tinh thần như vui chơi, giải trí, học tập, tiếp nhận thông tin, giao lưu
văn hóa... được phân tích rất rõ trong tháp nhu cầu của Maslow. Tuy
nhiên, tại một quốc gia và thời kỳ lịch sử nhất định tư liệu sinh hoạt cần
thiết có thể được xác định dựa trên 3 thành tố:

· Thứ nhất: Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết đủ để duy trì sức lao động
của một người lao động.

· Thứ hai: Chi phí đầu tư vào học việc cho lao động

· Thứ ba: Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết đáp ứng đủ cho nhu cầu gia
đình của người lao động

Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động

Cũng giống như những hàng hóa khác, giá trị sử dụng của hàng hóa sức
lao động chỉ được thể hiện qua quá tình tiêu dùng nó. Tức là quá trình
người công nhân tiến hành lao động sản xuất. Ngoài ra, giá trị sử dụng
sức lao động cũng có những đặc tính riêng:

· Đặc điểm cơ bản nhất của giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động so với
những loại hàng hóa khác là khi tiêu thụ nó tạo ra một giá trị mới lớn
hơn giá trị của bản thân sức lao động, phần lớn đó là giá trị thặng dư.
Như vậy, hàng hóa sức lao động có thuộc tính là nguồn gốc sinh ra giá
trị. Điều này là chìa khóa giải quyết những mâu thuẫn của xã hội tư bản.
Tiền chỉ trở thành tư bản khi sức lao động trở thành hàng hóa.

· Con người là chủ thể của hàng hóa sức lao động, vì vậy các đặc điểm
về tâm lý, kinh tế, xã hội của người lao động quyết định việc cung ứng
sức lao động ra ngoài thị trường.
Câu 8: Vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động của C.Mác để làm rõ
sự cần thiết và yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho
nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở VN.

Theo C.Mác hàng hóa sức lao động chỉ hình thành sau khi chủ nghĩa
tư bản tiến hành cuộc cách mạng về công nghệ sản xuất, nhằm xây dựng
một nền sản xuất đại công nghiệp. Nước ta là một nước phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa tức là tiến tới xây dựng một nền công
nghiệp với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất vì thế thị trường hàng
hóa sức lao động nước ta cũng đang trên đà phát triển để đáp ứng được
nhu cầu, đòi hỏi của nền kinh tế hiện nay. Vậy muốn biết thị trường lao
động nước ta hiện nay đang phát triển theo chiều hướng nào:tích cực hay
tiêu cực thì chúng ta phải đối chiếu thực tế thị trường lao động nước ta
với lý luận về thị trường hàng hóa sức lao động của chủ nghĩa Mác-
Lênin.
Theo C.Mác “Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những
năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người
đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một
giá trị sử dụng nào đó”. Hai điều kiện cần thiết để sức lao động trở thành
hàng hóa thứ nhất là người lao động được tự do về thân thể, thứ hai là
người lao động không có đủ các tư liệu sản xuất cần thiết để tự kết hợp
với sức lao động của mình tạo ra hàng hóa để bán hay còn gọi là vô sản,
cho nên họ phải bán sức lao động.
Cũng như các loại hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai
thuộc tính cơ bản đó là giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của hàng hóa sức
lao động cũng do số lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái
sản xuất ra sức lao động quyết định. Tuy nhiên, giá trị hàng hóa sức lao
động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ nó bao hàm cả yếu tố lịch
sử, tinh thần. Nhưng đối với mỗi quốc gia và một thời kỳ nhất định thì
quy mô những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại
lượng nhất định do đó có thể xác định được lượng giá trị hàng hóa sức
lao động do những bộ phận sau đây hợp thành: Một là, giá trị những tư
liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao
động, duy trì đời sống cá nhân để tái sản xuất sức lao động,duy trì đời
sống của bản thân người công nhân. Hai là,phí tổn đào tạo người công
nhân. Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết
cho con cái, gia đình người công nhân.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng nhằm mục đích thỏa
mãn nhu cầu của người mua, thể hiện rõ trong quá trình sử dụng sức lao
động. Nhưng quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hóa sức lao động
khác với quá trình tiêu dùng hàng hóa thông thường ở chỗ: hàng hóa
thông thường sau quá trình tiêu dùng hay sử dụng thì cả giá trị lẫn giá trị
sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo thời gian, trái lại trong quá trình
lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của
bản thân nó, phần dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư mà
nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao
động có tính chất đặc biệt, nó là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có
thể sinh ra giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó chính là đặc điểm
riêng có của giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động.
Trong lý luận về hàng hóa sức lao động nói trên, ta có thể thấy thị
trường sức lao động với quan hệ cung cầu về lao động và giá cả hàng
hóa sức lao động chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như quy luật cạnh
tranh, quy luật cung cầu,...
Hiện nay nền kinh tế của Việt Nam ngày càng phát triển cùng với nó
là sự phát triển thị trường sức lao động ở nước ta trong thời gian qua
cũng đã thu được những thành quả nhất định. Nước ta đang trong thời kỳ
quá độ, hơn nữa lại chịu tác động do trải qua nhiều năm bị đô hộ, chiếm
đóng của các nước phương bắc và Châu Âu nên vẫn còn lạc hậu và trình
độ lao động vẫn còn thấp kém. Hiện nay, giai đoạn bước vào thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước vì vậy lao động nước ta
mang những sắc thái đặc thù gắn chặt với trình độ phát triển của quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất. Về mặt phát triển kinh tế, nước ta đang
là 1 trong những nước đi trước đón đầu, chuyển từ sản xuất hàng hóa
giản đơn lên sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa có vận dụng thành tựu
sản xuất hàng hóa của tư bản chủ nghĩa. Yếu tố cơ bản để phân biệt sản
xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa với sản xuất hàng hóa theo định hướng
xã hội chủ nghĩa là khả năng phát huy vai trò tạo ra giá trị mới lớn hơn
giá trị bản thân của hàng hóa sức lao động. Đây là vấn đề then chốt trong
việc vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động của C.Mác để có thể xây
dựng một quan hệ lao động tốt đẹp hơn.
Nền kinh tế thị trường nước ta vận động và phát triển gắn liền với
quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa vì vậy khi vận dụng lý luận hàng
hóa sức lao động vào thị trường lao động nước ta chính là giải quyết vấn
đề nguồn lao động chất lượng cao cho quá trình công nghiệp hóa hiện
đại hóa. Mặt khác, trong nền xu thế hội nhập quốc tế nền kinh tế các
nước phát triển là nền kinh tế tri thức. Đây là nền kinh tế đòi hỏi trí tuệ
cao vì vậy người lao động phải biết nắm bắt và xử lí nhanh nhạy đặc biệt
là trong ngành công nghiệp mới vì vậy cần nâng cao giá trị sử dụng của
hàng hóa sức lao động. Tuy nhiên quá trình nhận thức và vận dụng lý
luận hàng hóa sức lao động của C.Mác vẫn còn những giới hạn nhất
định, chưa đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa trong tiến trình toàn cầu hóa kinh tế cụ thể là: về giá trị sử
dụng của hàng hóa sức lao động còn thấp hạn chế phần nào sự cạnh
tranh của nước ta trên thị trường thế giới, giá trị hàng hóa sức lao động
còn bất cập,hệ thống giáo dục-đào tạo chưa đủ khả năng cung ứng nguồn
lao động chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước.

Theo quan điểm của C.Mác cần chăm lo cho công nhân và người
thân của họ, về việc này thì nước ta cũng đã làm được: đời sống xã hội
của công nhân ngày càng được nâng cao đặc biệt là đời sống tinh thần,
được tổ chức, tham gia các hoạt động giao lưu văn hóa văn nghệ, được
chính phủ quan tâm sát sao, khen thưởng những công nhân có thành tích
tốt trong lao động, sản xuất, sáng tạo. Đời sống của người thân công
nhân cũng được chú trọng hơn. Trong các khu công nghiệp, đã xây dựng
các trường học cho con em các công nhân như các trường mầm non, nhà
giữ trẻ, khu vui chơi dành cho thiếu nhi...Đời sống của công nhân và
người thân của họ được đáp ứng đầy đủ hơn về các dịch vụ khác. Việc
làm này giúp cho công nhân có thể yên tâm làm việc, cống hiến hết
mình cho công việc. Đặc biệt đợt covid vừa qua, nhà nước và công ty đã
hỗ trợ, chi phí viện phí, đời sống cho công nhân.
Nhận thấy được tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực, trình độ
cho người công nhân. Nhà nước đẩy mạnh việc nhiều trường đào tạo
nghề được mở ra nhằm phục vụ cho việc học nghể của nhân dân và nâng
cao tay nghẻ của công nhân. Các nhà máy, công ty, xí nghiệp cũng tạo
điều kiện cho công nhân nâng cao trình độ của mình như gửi đi học, đi
du học, tổ chức các lớp huấn luyện cho công nhân nhằm nâng cao tay
nghề từ đó tăng năng suất lao động.
Bên cạnh đó, Việt Nam ta vẫn còn nhiều hạn chế. Lực lượng công
nhân Việt Nam dù là dồi dào nhưng tay nghề chưa cao lao động chủ yếu
bằng cơ bắp, ít lao động trí óc. Mặc dù các trung tâm, các trường đào tạo
nghề được thành lập nhiều nhưng có một số cơ sở vẫn hoạt động không
có hiệu quả công nhân học xong không thể làm việc có hiệu quả, hơn
nữa chi phí học tập còn cao nên không phải ai cũng có điều kiện để có
thể theo học được. Công nhân và gia đình của họ vẫn còn thiếu hiểu biết
về việc nâng cao trình độ do đó khó tiếp cận đến các dịch vụ. Và một
điều đáng lưu ý đó là lao động nước ta tập trung chủ yếu trong lĩnh vực
nông nghiệp. Cụ thể theo FAO số lao động 2010 của nước ta trong nông
nghiêp là 29,63 triệu trong tổng số 46,91 triệu lao động ở Việt Nam.
Trong giai đoạn 2005-2010 mức tăng toàn bộ lực lượng lao động là
1,9%/năm trong đó nông nghiệp là 1,22%/năm. Cơ cấu nông nghiệp tính
bằng phần trăm của tổng lao động vẫn ở mức cao và giảm rất chậm từ
69,37% năm 1995 giảm xuống 67,33% năm 2005 và đến năm 2010 là
63,17%. Nói cách khác, suốt các thời kỳ này cơ cấu lao động nông
nghiệp nước ta giảm cao nhất ở mức 0,66%/năm.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do nền kinh tế nước ta vẫn
còn lạc hậu nên công nhân cũng hạn chế về tay nghề vì họ xuất thân từ
nông dân nên tính kỉ luật chưa cao. Chúng ta chưa vận dụng được các
phương tiện thông tin đại chúng để giới thiệu việc làm, trở thành trung
gian giữa người sử dụng lao động và người lao động, là nơi phản ánh
những hạn chế và ưu điểm của thị trường hàng hóa sức lao động. Những
quy định của nhà nước về thi trường lao động vẫn còn những hạn chế
nhất định. Việc chi trả tiền lương còn thiếu sự công bằng, bình đẳng
giữa các công nhân. Nhiều cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp chưa đủ
điều kiện để xây dựng các khu vui chơi, giải trí cho công nhân và người
thân của họ do thiếu vốn đầu tư.
Để khắc phục tình trạng trên thì chúng ta nên thực hiện một số biện
pháp như: Để khắc phục tình trạng trên và đưa thị trường lao động Việt
Nam phát triển ổn định thì chúng ta phải thực hiện một số biện pháp sau.
Khi vận dụng lí luận hàng hóa sức lao động phải phù hợp với quá trình
hội nhập quốc tế và xu hướng phát triển của nền kinh tế tri thức. Tôn
trọng nhân cách, phát huy vai trò làm chủ, năng động sáng tạo, tinh thần
yêu nước, yêu dân tộc của người lao động. Vận dụng lí luận hàng hóa
sức lao động phải gắn liền với việc hình thành đội ngũ lao động có trình
độ và cơ cấu hợp lí đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước.
Đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề tay nghề về mọi mặt của
người lao động, tạo cho họ những khả năng lao động tự giác và sáng tạo
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Tổ chức tốt việc đào tạo, bồi dưỡng tại trường, tại chức và nhiều hình
thức phương pháp khác để nâng cao tay nghề, mở rộng đào tạo nghề: bồi
dưỡng nhiều người giỏi về khoa học công nghệ, kinh doanh, về quản lí
kinh tế - xã hội. Trước mắt cần giáo dục mọi người yêu quý lao động,
yêu quý nghề nghiệp, lao động có kỉ luật, chống mọi thói xấu lười biếng
ỷ lại, khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi người tự tìm tòi, tự tạo việc
làm cho mình và cho người khác.
cần chú trọng công tác chăm lo cho các nhu cầu vật và tinh thần cho
công nhân và gia đình họ vì khi làm tốt vấn đề này thì người công nhân
mới toàn tâm toàn ý cho công việc. Chú trọng về chính sách tiền lương,
tạo các khu vui chơi giải trí có chất lượng và hoạt động có hiệu quả, tổ
chức nhiều hơn nữa các hoạt động đoàn thể cho công nhân.
Thúc đẩy giao dịch trên thị trường lao độngbằng các hình thức như phát
triển hệ thống thông tin, giới thiệu việc làm, tăng cường quản lí của nhà
nước, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp
xuất khẩu lao động, hoàn thiện hệ thống pháp luật về thị trường lao
động, hoàn thiện bộ máy quản lí và vận hành nó có hiệu quả. Thay đổi
cơ cấu lao động, hạn chế thành phần lao động ở lĩnh vực nông nghiệp.

Câu 9: Đánh giá về thị trường sức lao động trong nước hiện nay, có
quan điểm cho rằng: “ Thị trường hàng hoá sức lao động ở Việt Nam
hiện nay vừa thừa lại vừa thiếu”. Vận dụng lý luận hàng hoá sức lao
động và các quy luật kinh tế, bạn hãy phân tích nguyên nhân của tình
trạng và chỉ ra những tác động tiêu cực của nó đối với kinh tế - xã hội.
Từ đó, hãy nêu lên trách nhiệm của bản thân bạn trong việc nâng cao
chất lượng giá trị hàng hoá sức lao động

SLĐ: toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong 1 cơ thể
con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng trong quá trình
lao động

Điều kiện để SLĐ trở thành hàng hoá:

Người LĐ được tự do về thân thể (ĐK cần)

Người lđ ko có tư liệu sản xuất (ĐK đủ)

Nguyên nhân:

Việt Nam là 1 đất nước có nguồn nhân lực dồi dào và phân bố ko đồng
đều giữa các khu vực trong nước (do mn có xu hướng đổ xô lên thành
phố các khu đô thị để tìm kiếm việc làm) → nới thừa nơi thiếu người lđ,

Người lđ có trình độ cao không nhiều vì vậy những công việc đòi hỏi
phải có trình độ chuyên môn cao thì vẫn còn thiếu nhân lực

Trong nhiều năm qua, Vn vẫn luôn được biết đến với lợi thế nguồn lđ
giá rẻ và dồi dào. tuy nhiên khoa học công nghệ phát triển vượt bậc, đòi
hỏi cả lao động chất lượng cao, có tay nghề, trình độ, chuyên môn sâu
lại là diểm nghẽ khiến nguồn nhân lực trong vài năm tới sẽ vừa thừa (vè
số lượng các nhân công giá rẻ) lại vừa thiếu (lực lượng tay ghề chuyên
môn sâu)

Tác động tiêu cực của nó đến kt-xh:

Do thừa lao động → gia tăng nạn thất nghiệp → đời sống người lđ khó
khăn
Thiếu lao động có trình độ → NSLĐ không cao

Trách nhiệm của bản thân trong việc nâng cao chất lượng hàng hoá sức
lao động:

Nâng cao năng lực bản thân về trình độ chuyên môn, nghiêp vụ,... bằng
cách trau dồi, học hỏi kiến thức, tham gia các khoá học đào tạo nghề,....

=> Nói “ Thị trường hàng hoá SLĐ ở Việt Nam hiện nay vừa thừa lại
vừa thiếu”

Câu 10
Liên hệ

- Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế
vận hành theo các quy luật của thị trường, đồng thời góp phần hướng tới
từng bước xác lập một xã hội mà ở đó, dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo

Việt Nam là quốc gia đi lên từ nền nông nghiệp, canh tác nhỏ lẻ, ta gặp
nhiều khó khăn trong cơ sở vật chất,yếu kém trong công nghệ sản xuất
và năng suất lao động thấp. Trong khi đó, nền kinh tế định hướng xã hội
chủ nghĩa hướng đến một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Do đó, phát triển cơ sở vật chất, kỹ thuật dẫn đến sự cần
thiết của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Và để thực hiện được chủ trương đó, ta cần tiếp tục vận dụng phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư vào các lĩnh vực kinh tế ở nước ta.

Học thuyết giá trị thặng dư của Mác xây dựng dựa trên cơ sở nghiên cứu
nền sản xuất hàng hóa, đặc biệt là nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ
nghĩa. Dù cho nước ta đang thực hiện nền kinh tS định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhưng đã nói đến sản xuất hàng hóa thì ở đâu cũng đều sở hữu
những đặc tính phổ biến, phải kể đến giá trị và giá trị thặng dư. Sự khác
nhau chỉ là trong những quan hệ kinh tế khác nhau thì giá trị và giá trị
thặng dư mang bản chất xã hội khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu và sử
dụng phương pháp án trên nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa vẫn có
ý nghĩa thực tiễn đối với nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa.

-Áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối bằng cách
tăng năng suất lao động. Dưới tác động của các quy luật kinh tế, ta cần
phải không ngừng áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào sản
xuất để nâng cao năng suất lao động, bên cạnh đó cần phải nâng cao
trình độ và chú ý đãi ngộ đối với người lao động giúp giải quyết được
khó khăn về đời sống hoặc hoàn thành mục tiêu đề ra

Ngoài ra, việc tích cực hợp lý hóa quy trình sản xuất, tìm hiểu như cầu
thị trường, nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh cũng góp phần
nâng cao hiệu quả sản xuất.

Tích cực sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch bằng cách áp dụng công
nghệ mới có tác dụng thúc đẩy các nhà tư bản ra sức cải tiến kỹ thuật,
ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mới, từ đó thức đẩy lực lượng
sản xuất phát triển

Giá trị thặng dư tương đối, tuy có tính tạm thời nhưng nó lại là một động
lực mạnh mẽ để thúc đẩy doanh nghiệp đánh bại đối thủ trong cạnh
tranh. Để có thể đem lại của cải vật chất cho xã hội, góp phần phát triển

kinh tế thị trường định hướng XHCN thì ta cần gạt bỏ tính chất tư bản
chủ nghĩa

Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng cần phải cân nhắc khi áp dụng công nghệ
mới vì không phải công nghệ nào áp dụng cũng có thể tạo ra giá trị
thặng dư siêu ngạch, ví dụ: cần phải chọn loại máy móc, công nghệ nào
phù hợp với quá trình sản xuất, ứng với từng khâu.

Bên cạnh việc phát huy tích cực những ưu điểm thì ta cần phải khắc
phục được hạn chế sau vì sức lực con người có hạn, nên ta không thể
kéo dài ngày lao động. Thay vào đó rút ngắn thời gian lao động dựa trên
cơ sở tăng năng suất lao động

Câu 11: Dưới góc độ kinh tế, có quan điểm cho rằng: Đại dịch Covid
– 19 có bản chất kinh tế là sự đứt gãy các dòng chảy vật chất, gián đoạn
chuỗi cung ứng toàn cầu, gây ra cú sốc cung – cầu chưa từng có tiền lệ,
làm suy thoái kinh tế thế giới. Vận dụng quy luật tuần hoàn và chu
chuyển của tư bản đã học, anh (chị) hãy phân tích lý giải hiện tượng này.

Nhắc tới đại dịch Covid-19, một đại dịch khiến chúng ta không thể quên
được nỗi ám ảnh ăn sâu vào trong tiềm thức. Đại dịch Covid-19 làm xáo
trộn hoạt động bình thường của thế giới. Phải coi dịch Covid-19 là một
cuộc đại khủng hoảng lần đầu tiên (chưa có tiền lệ) trong lịch sử thế giới
hiện đại. Đây không phải chỉ là khủng hoảng kinh tế thông thường, mà
là khủng hoảng liên quan trực tiếp đến sinh mệnh (sự sống-chết) của con
người. Khủng hoảng sự sống trước khủng hoảng kinh tế. Vậy nên,
những kinh nghiệm về giải pháp chống suy thoái kinh tế thông thường
lâu nay vẫn áp dụng có thể không đủ. Nếu chúng ta nhìn đại dịch Covid-
19 bằng con mắt kinh tế thì ta sẽ thấy được: Đại dịch Covid-19 là sự đứt
gãy các dòng chảy vật chất, gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu, gây ra
cú sốc cung - cầu chưa từng có tiền lệ, làm suy thoái kinh tế thế giới. Sự
đứt gãy các dòng chảy vật chất ( con người, nguyên vật liệu, thị trường,
tiền vốn , giá trị thặng dư,…) gây ra là do chỉ thị cách ly toàn xã hội để
đẩy lùi Covid-19. Trong bối cảnh các nền kinh tế thế giới đã phụ thuộc
vào nhau rất chặt chẽ, phân công lao động xã hội toàn cầu rất sâu sắc,
việc đứt gãy này đã ảnh hưởng mạnh và trực tiếp đến việc sản xuất, cũng
như đời sống của mỗi con người. Do phải cách ly bắt buộc mà con người
không thể tiếp xúc gần và trực tiếp với nhau, mọi hoạt động sản xuất, xã
hội cũng bị ngừng lại, mọi người đều nhà ai ở nhà ấy, bị cô lập lại với
bên ngoài. Chỉ cần hoạt động của con người bị hạn chế thì dòng chảy
mọi vật chất đều bị chậm lại hoặc đứt gãy. Không có hoạt động của con
người thì đâu thể kiếm được các nguyên vật liệu, con người bị cách ly
thì làm sao có thể trao đổi buôn bán với nhau, thị trường đứt gãy, không
có sản xuất thì làm sao có thể tạo ra giá trị thặng dư, phát triển kinh tế,
làm sao có thể có tiền vốn
được.Theo lý luận tuần hoàn của tư bản, con người không được hoạt
động tập trung nên tư bản tiền tệ ( mua sức lao động) không thể chuẩn bị
cho sản xuất được, tư bản sản xuất không hoạt động ( do không có người
lao động) thì không thể sinh ra giá trị thặng dư, và cũng không có hang
hoá để bán ( tư bản hàng hoá) . Nêú cho dù có hàng hoá nhưng lại không
thể lưu thông do cách ly xã hội thì cũng không thể bán được ( không thể
thực hiện giá trị thặng dư) thì tư bản hàng hoá cũng không thể hoạt động
được. Cả 3 giai đoạn của tuần hoàn tư bản đều bị gián đoạn, nên không
đủ điều kiện để kinh doanh, dẫn đến kinh tế trở nên khủng hoảng, tồi tệ
hơn. Các vấn đề này đều do sự hạn chế hoạt động của con người bởi thi
hành chính sách giãn cách xã hội bắt buộc, chính sách này được ban
hành để xã hội có thể đẩy lùi đại dịch Covid-19. Chính Covid-19 là sự
đứt gãy các dòng chảy vật chất.

Chuỗi cung ứng toàn cầu là một mạng lưới giữa các công ty và các nhà
cung cấp trên toàn cầu, bao gồm các hoạt động, con người, thực thể,
thông tin và những tài nguyên khác nhau, thực hiện một quy trình cần
thiết từ cung cấp nguyên liệu thô đến sản xuất và phân phối sản phẩm
đến tay người tiêu dùng.

Theo quy luật chu chuyển của tư bản là sự tuần hoàn của tư bản nếu xét
nó là một quá trình định kỳ đổi mới, và lặp đi lặp lại không ngừng.
Covid-19 ảnh hưởng đến cả thời gian và tốc độ chu chuyển của tư bản.
Con người phải ở nhà làm việc do những chính sách bắt buộc của nhà
nước thời gian và tốc độ chu chuyển của tư bản bị giảm đi rất nhiều hoặc
thậm chí là ngừng lại ở một số ngành nghề.

Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng nặng nề đến sự tăng trưởng kinh tế và
khối lượng giao dịch toàn cầu. Để tránh lây nhiễm quy mô lớn, một loạt
các biện pháp phòng ngừa nhằm hạn chế sự lây lan của Covid-19 đã
được các chính phủ áp dụng, bao gồm hạn chế đi lại, đóng cửa tạm thời
các nhà máy và cửa hàng, phong tỏa các khu dân cư. Những hạn chế này
dẫn đến tình trạng thiếu lao động và nguyên liệu thô. Do đó, chuỗi cung
ứng toàn cầu đã phải đối mặt với sự
chậm trễ và thiếu hụt hàng tồn kho. Trái ngược với các thảm họa tự
nhiên hoặc nhân tạo hoặc đại dịch truyền nhiễm khác, Covid-19 không
chỉ làm gián đoạn chuỗi cung ứng địa phương mà còn ảnh hưởng sâu sắc
đến các chuỗi cung ứng toàn cầu ở tất cả các khâu, từ nguồn cung ứng
đến khách hàng cuối cùng.

Chúng ta không thể lường trước được diển biến tiếp theo cuộc khủng
hoảng toàn cầu do sự bùng phát Covid-19. Tuy nhiên, các doanh nghiệp
có thể lập kế hoạch giảm thiểu các tác động tiềm tàng bằng cách phát
triển các quy trình chuỗi cung ứng và kế hoạch sẵn sàng phục hồi mạnh
mẽ. Hiệu quả của việc chuẩn bị và ứng phó khẩn cấp phụ thuộc nhiều
vào sự hiểu biết sâu sắc và toàn diện về tác động của Covid-19 đối với
các chuỗi cung ứng toàn cầu. Đại dịch này buộc các công ty phải đánh
giá lại chuỗi cung ứng của họ có đạt được hiệu quả và sự nhanh nhẹn
trong trường hợp có sự cố.

Dưới tác động của dịch covid-19, tình trạng nguồn hàng của các nhà
kinh doanh ngày càng cạn kiệt. Bởi nhiều quốc gia trên thế giới trong đó
có Việt Nam tạm ngừng hoạt động thông thương, đi lại trong vài tháng
thậm trí là cả năm. Điều này làm cho sản xuất trong nước ở một số
ngành nghề sử dụng nguyên liệu nhập khẩu không có nguồn cung
nguyên liệu buộc phải ngưng trệ. Hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài
cũng không được thông quan. Theo lý luận tuần hoàn tư bản, hàng hóa
đang bị gián đoạn, không thực hiện đủ 3 giai đoạn hoặc thực hiện chậm,
từ đó làm kéo dài thời gian chu chuyển của tư bản. Khi thời gian chu
chuyển của tư bản càng kéo dài thì đồng nghĩa với việc lợi nhuận của
doanh nghiệp càng giảm sút. Mặt khác thói quen tiêu dùng của con
người cũng thay đổi để phù hợp với tình hình chung. Nếu như trước đây,
người tiêu dùng sẽ “thỏa mãn” nhu cầu tinh thần của mình bằng việc
mua sắm nhiều sản phẩm khác nhau. Thì trong thời kỳ dịch bệnh, họ chỉ
mua sắm những sản phẩm cần thiết. Từ đó khiến nhiều nhà kinh doanh
các mặt hàng như thời trang, điện tử, … bị ảnh hưởng nặng nề. Đại dịch
Covid-19 đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm lý người dân, thay đổi cách
sinh hoạt trở nên thận trọng hơn, có xu hướng tích trữ
và thắt chặt chi tiêu. Điều này cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến các
hoạt động bán lẻ khi sức mua cá nhân giảm mạnh. Theo báo cáo của
IMF tháng 4/2020 thì kinh tế thế giới năm 2020 sẽ giảm 3% (tháng
6/2020 dự báo giảm tới 4,9%) là khủng hoảng nghiêm trọng nhất sau
Thế chiến 2, hầu hết các quốc gia rơi vào suy thoái nghiêm trọng, kinh tế
và thương mại toàn cầu suy giảm mạnh, trong đó có Việt Nam. Như vậy
đại dịch Covid – 19 có bản chất kinh tế là sự đứt gãy các dòng chảy vật
chất, gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu, gây ra cú sốc cung – cầu chưa
từng có tiền lệ, làm suy thoái kinh tế thế giới.

Câu 12
QUY LUẬT GIÁ TRỊ TRONG SẢN XUẤT VÀ LƯU THÔNG HÀNG
HÓA
Khái niệm:
- là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa, ở đâu có
sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có quy luật giá trị hoạt động.
-Quy luật giá trị yêu cầu, sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ
sở hao phí hao phí lao động xã hội cần thiết.
Cơ chế hoạt động của quy luật giá trị:
+ Quy luật giá trị là trừu tượng, nó vận động thông qua sự biến động của
giá cả hàng hóa. Vì , giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị;
giá trị là cơ sở, quyết định giá cả. Hàng hóa có giá trị cao thì giá cả của
nó cao và ngược lại.
Ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố: cạnh tranh, cung
cầu và sức mua của đồng tiền (giá trị đồng tiền). Sự tác động của các
nhân tố này làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường tách rời với giá trị
và lên xuống xoay quanh trục giá trị, đây chính là cơ chế hoạt động của
quy luật giá trị.
Tác động của quy luật giá trị
+Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
+Kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực
lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh
+Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa
thành người giàu, người nghèo.

LÝ LUẬN TUẦN HOÀN, CHU CHUYỂN CỦA TƯ BẢN


-Tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục của tư bản qua ba giai
đoạn với ba hình thái,thực hiện ba chức năng, rồi quay trở về hình thái
ban đầu cùng với giá trị thặng dư.
-Mô hình của tuần hoàn tư bản được thể hiện như sau
- Giai đoạn thứ nhất - giai đoạn lưu thông:
Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường các yếu tố sản xuất, để mua tư liêu
sản xuất và sức lao động. Quá trình lưu thông đó biểu thị theo sơ đồ sau:
Giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản tiền tệ. Chức năng giai
đoạn này là: mua các yếu tố cho quá trình sản xuất, tức là biến tư bản
tiền tệ thành tư bản sản xuất.
- Giai đoạn thứ hai- giai đoạn sản xuất:
Nhà tư bản tiêu dùng những hàng hoá đã mua, tức là tiến hành sản xuất.
Với sơ đồ:
Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hóa. Chức
năng của giai đoạn này là bán hàng hóa để thu về giá trị và giá trị thặng
dư. Trong giai đoạn này, nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là
người bán hàng. Hàng hoá của nhà tư bản được chuyển hoá thành tiền.
-- Giai đoạn thứ ba- giai đoạn lưu thông:
Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hóa. Chức
năng của giai đoạn này là bán hàng hóa để thu về giá trị và giá trị thặng
dư. Trong giai đoạn này, nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là
người bán hàng. Hàng hoá của nhà tư bản được chuyển hoá thành tiền.
Chu chuyển của tư bản
-Sự tuần hoàn của tư bản nếu xét nó là một quá trình định kỳ đổi mới, và
thường xuyên lặp đi lặp lại thì gọi là chu chuyển của tư bản. Chu chuyển
tư bản phản ánh tốc độ vận động nhanh hay chậm của tư bản
- 3Thời gian chu chuyển là khoảng thời gian kể từ khi tư bản ứng ra dưới
một hình thái nhất địnhcho đến khi thu về dưới hình thái đó có kèm theo
giá trị thặng dư.
- Tốc độ chu chuyển của tư bản thể hiện ở số vòng chu chuyển của tư
bản trong một thời gian nhất định, thường là 1 năm
Công thức tính: n= CH/ ch
Trong đó: n là số vòng chu chuyển trong năm
CH là thời gian trong năm
ch là thời gian cho 1 vòng chu chuyển của tư bản
Ví dụ: Một tư bản có thời gian chu chuyển một vòng là 4 tháng thì số
vòng chu chuyển trong một năm của tư bản đó là : n = 12 tháng : 4 tháng
= 3 vòng.
NGUYÊN NHÂN HIỆN TƯỢNG BLACK FRIDAY DIỄN RA HÀNG
NĂM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI KINH TẾ-XÃ HỘI
-Nguyên nhân:
+Black Friday, hay còn gọi là ngày "Thứ Sáu đen tối" được ấn định
vào thứ 6 đầu tiên sau ngày Lễ Tạ Ơn (một ngày lễ hàng năm được tổ
chức chủ yếu tại Mỹ và Canada). Vì Lễ Tạ Ơn rơi vào ngày thứ 5 lần thứ
4 trong tháng 11, nên Black Friday sẽ rơi vào khoảng ngày 23-29 tháng
11.
Theo nhật báo USA Today, ngày Black Friday bắt đầu được nhắc tới
vào năm 1939, khi Franklin D. Roosevelt - tổng thống thứ 32 của Mỹ
đứng trước sức ép phải chuyển Lễ Tạ Ơn từ ngày thứ 5 cuối cùng lên
thành thứ 5 lần thứ 4 trong tháng 11, với mục đích kéo dài mùa mua sắm
Giáng sinh.
"Khi mùa mua sắm kéo dài, người ta sẽ chi tiêu nhiều hơn, và nền kinh
tế đang khủng hoảng lúc bấy giờ sẽ nhận được một sự thúc đẩy cần
thiết" - đó chính là ý tưởng hình thành nên sự ra đời của Black Friday.
Sự thay đổi của ngày Lễ Tạ Ơn chính thức được công nhận vào năm
1941, nhưng khái niệm Black Friday đã không thực sự nổi bật cho đến
khoảng một thập kỷ sau đó.
+Theo một nguồn tin khác, tên gọi Black Friday được bắt nguồn từ
thành phố Philadelphia của Mỹ. Trong những năm 1950, cảnh sát địa
phương được cho là đã sử dụng thuật ngữ này để mô tả các thứ 6 sau
ngày Lễ Tạ Ơn vì đó là một ngày "đặc biệt khó khăn" đối với họ, do
khối lượng người mua sắm tăng vọt đổ vào thành phố từ các vùng ngoại
ô.
Theo Wiki, cái tên Black Friday bắt đầu được người ta nhắc đến nhiều
sau tình trạng tắc nghẽn giao thông xảy ra vào thứ 6 sau Lễ Tạ Ơn vào
năm 1965 ở Philadelphia, khi hàng trăm nghìn người Mỹ chen chúc
nhau ở các con phố, vỉa hè đi mua sắm để sửa soạn cho Lễ Noel sắp đến.
Đây được xem là ngày bắt đầu cho mùa mua sắm Giáng sinh, tương tự
như ngày Boxing Day ở nhiều quốc gia khác.
Các tín đồ shopping chỉ đợi đến ngày Black Friday để được thỏa sức
mua sắm.
Trong tiếng Anh có thuật ngữ "In The Black" chỉ tình trạng doanh
nghiệp làm ăn có lợi nhuận. Tương phản với "In The Black" là "In The
Red" chỉ tình trạng kinh doanh thua lỗ, buôn bán thất bát. Ngày xưa, để
tiện phân biệt và theo dõi sổ sách, kế toán thường ghi số lợi nhuận bằng
mực đen, số lỗ bằng mực đỏ. Từ đó, người ta đặt tên ngày mua sắm lớn
nhất trong năm là Black Friday, ngụ ý rằng đây là ngày ăn nên làm ra
của các doanh nghiệp.
Vào ngày Black Friday, phần lớn các cơ sở bán lẻ lớn đều mở cửa từ
khoảng 4 giờ sáng hay sớm hơn, với hàng chục ngàn mặt hàng giảm giá
cực lớn. Chúng ta đang nói đến mức giảm giá có thể lên đến 30-40%,
hay thậm chí còn lớn hơn đối với các mặt hàng thông thường như điện
tử, điện lạnh, đồ gia dụng, nội thất, thời trang,... Nhiều chủ doanh nghiệp
thậm chí cho phép nhân viên nghỉ làm như đối với một ngày lễ để đi
mua sắm.

-Tác động:
Vào ngày Black Friday, để kích thích việc mua sắm của khách
hàng, các nhà bán lẻ hay các thương hiệu không ngần ngại việc giảm giá
thành từ 10% đến 30% thậm chí có những sản phẩm giảm giá lên đến
60% để thu hút khách hàng và bán được nhiều hàng hóa vào ngày này
hơn. Cũng có nhiều cửa hàng còn giảm giá với mức siêu khủng tới 90%
cho những khách hàng đến sớm để mua, vào những ngày này cửa hàng
sẽ mở cửa rất sớm từ 4h sáng hoặc là sớm hơn nữa để buôn bán.
Trong ngày Black Friday dù là bán với mức giảm giá khủng nhưng tất cả
các mặt hàng vẫn đảm bảo về chất lượng và nguồn gốc xuất xứ. Nhiều
nhãn hàng của những thương hiệu lớn cũng đều tham gia vào ngày
Black Friday, điều này cũng giúp họ bán ra được sản phẩm và đưa tên
tuổi thương hiệu đến rộng hơn tới khách hàng.
-Black Friday có tác động như thế nào đến mua sắm hàng hóa?
Có thể nói Black Friday là dịp để các thương hiệu thu hút đông đảo
khách hàng ghé thăm và sử dụng sản phẩm của mình, đồng thời giúp
quảng bá thương hiệu một cách hiệu quả. Black Friday như là một chiến
lược Marketing dành cho các shop và doanh nghiệp.
Trong năm 2019 này, Black Friday sẽ rơi vào ngày 29/11, đồng nghĩa
với nhiều trang web, cửa hàng bán lẻ nổi tiếng ở trên thế giới kể cả ở
Việt Nam giờ cũng đang có những bước chuẩn bị chương trình hấp dẫn
để thu hút người tiêu dùng.
Câu 13
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông
hàng hóa
Nội dung:
Thứ nhất: Sản xuất hàng hóa được thực hiện theo sự hao phí sức lao
động xã hội cần thiết
Thứ hai: Trong trao đổi hàng hóa phải tuân theo nguyên tắc ngang giá
Tác động:
Thứ nhất: Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá trên thị trường.
Thứ hai: Thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất
lao động, làm cho lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
Thứ ba: Làm cho sự phân hoá người sản xuất hàng hoá thành người
giàu, người nghèo.
Vận dụng quy luật giá trị để giải thích hiện tượng:
Thứ nhất: hao phí lao động hàng chính hãng > hao phí lao động hàng chính giả (nội
dung thứ nhất)
Đối với một sản phẩm chính hãng thì thời gian lao động ( hao phí lao
động ) của nó bao giờ cũng cao hơn thời gian lao động ( hao phí lao
động) của một sản phẩm giả, nhái. Cho nên, dựa vào điểm này, người
sản xuất, trao đổi hàng nhái, hàng giả đã sản xuất, trao đổi nhiều hơn
để có thể cạnh tranh với hàng chính hãng về số lượng.
Thứ hai: vi phạm nội dung thứ hai vì chúng ta sử dụng hàng giả , hàng
nhái thì chúng ta đnag trao đổi không ngang giá . có 2 trường hợp : thứ
nhất chúng ta phải trả giá ngang với giá của hàng chính hãng nhưng
chất lượng chúng ta nhận lại là hàng nhái , thứ hai là chúng ta đang sử
dụng sản phẩm mang tên thương hiệu nổi tiếng nhưng có những lỗi và
chúng ta trả 1 cái giá rẻ hơn so với hàng chính hãng
Phân tích hiện tượng này
 Thực trạng :
 Nguyên nhân :
o Do sự bất cập trong cơ chế quản lý
o Do sự “ tiếp tay” của người tiêu dùng
o Do người tiêu dùng ngại động chamh đến việc kiện cáo

- Thứ nhất: Do thói quen sử dụng tình cảm, niềm tin


trong giao dịch nên phần nhiều người dân Việt Nam đều
tiến hành giao mua bán hàng hóa theo kiểu thấy ưng là mặc
cả, mặc cả xong là mua.
- Thứ hai: Do xuất phát từ gốc của nền văn minh nông
nghiệp và văn hóa trọng tình truyền thống nên người Việt
Nam có quan niệm “Một bồ cái lý không bằng một tý cái
tình”. Bởi vậy mà ngay cả những người “cầm cân nảy mực”
ở nhiều nơi vẫn có tư tưởng thiên về khuyến khích các
đương sự “tự dàn xếp”. Và cuối cùng họ tự giải quyết mâu
thuẫn trong hòa bình bằng cách “tự thỏa thuận, hòa giải”.
- Thứ ba: Do vẫn mang nặng tâm lý tiểu nông chỉ thấy
lợi ích trước mắt, không thấy lợi ích lâu dài. Chỉ thấy lợi ích
cá nhân, không thấy lợi ích tập thể, cộng đồng nên người
tiêu dùng rất dễ bị “bịt miệng” bằng vật chất, bằng vũ lực
của những kẻ sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng nhái, hàng
kém chất lượng.
- Thứ tư: Do phần đông người dân hiểu và nắm luật
rất hạn chế nên có muốn kiện họ cũng không biết nên bắt
đầu từ đâu, thủ tục thế nào, cộng thêm quan niệm sai lầm
"vô phúc đáo tụng đình" nên nếu có mua dính phải hàng
“lởm” nhiều người chỉ “ngậm bồ hòn làm ngọt” bụng bảo
dạ “lần sau chừa cái mặt nó ra” chứ rỗi hơi mà đi “kiện củ
khoai” vừa mất thời gian, tiền bạc, không khéo lại… vác
họa vào thân.
- Thứ năm: Đi khiếu nại đồng nghĩa với mất công, mất
buổi, mất chi phí đi lại, công việc tồn đọng… Do đó, đối với
những mặt hàng có giá trị không lớn (vài trăm ngàn) thì dù
có thắng kiện đi chăng nữa có khi vẫn… lỗ.
- Thứ sáu: Những người thực sự có tâm huyết, muốn
“chiến đấu” đến cùng với vấn nạn hàng giả, hàng nhái,
hàng kém chất lượng thì bị cản trở rất nhiều bởi nạn tham
ô, tham nhũng; từ các thế lực của “xã hội đen” đe dọa và
đặc biệt là từ sự khó khăn về nguồn tài chính để thuê các
dịch vụ pháp lý, thuê luật sư, theo đuổi vụ kiện…
 Do ý thức tự bảo vệ mình từ phía doanh nghiệp
 Do mâu thuẫn giữa cung và cầu
 Do mâu thuẫn giữa nhu cầu lao động và nạn thất nghiệp
 Do điều kiện địa hình biên giới nước ta
- Tác động tiêu cực
-Gây thiệt hại kinh tế lẫn sức khoẻ của con người
-Các bệnh nguy hiểm ngày càng xuất hiện nhiều hơn trên cơ
thể do thói quen ăn uống , ham rẻ
-Nhiều nhãn hàng bị làm giả làm nhái -> ảnh hưởng tới
thương hiệu , lợi nhuận bị ảnh hưởng lớn
-Suy giảm niềm tin của khách hàng đến tính minh bạch của
thị trường
- Giải pháp :
- Về phía các Chi cục, đoàn thể chức trách
- lực lượng Quản lý thị trường đẩy mạnh ứng dụng
các giải pháp công nghệ để phòng, chống hàng lậu, hàng giả, hàng
kém chất lượng…
- đấu tranh, xử lý nghiêm các hành vi sản xuất, tàng
trữ, mua bán hàng giả; truyền thông tốt để người tiêu dùng tẩy
chay, lên án hoạt động sản xuất, buôn bán hàng giả.
-Điều 192 Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung
năm 2017 đã quy định rõ về Tội sản xuất, buôn bán
hàng giả; trong đó, khung hình phạt cao nhất của tội
danh này là 15 năm tù giam.
_ Về phía người tiêu dùng:
+ Lựa chọn nơi mua bán, trao đổi ủy tín có chứng nhận của Chi
cục, nhất là mỹ phẩm, thuốc thì cần có chứng nhận của Bộ y tế
+ Kiểm tra xuất xứ hạn sử dụng in trên bao bì 1 cách kĩ lượng. Nếu
thấy có vấn đề báo lại với cơ quan quản lý
+ Tự giác nâng cao ý thức tuyên truyền về việc cảnh giác khi mua
hàng
* Tuy nhiên hiện nay những việc như quét mã vạch hay qr ko còn
uy tín và chắc chắn
Nên tẩy chay hàng giả, hàng nhái
 thường xuyên tham khảo, tìm hiểu về cách phân biệt
hàng giả và thật
Có thể nói tiền nào của nấy nhưng vẫn có nhiều hàng giả bán với giá
cao để lừa người tiêu dùng, vì vậy, cách tốt nhất là nên tìm hiểu kĩ sản
phẩm trước khi mua. Ngoài ra người VN ta vẫn mang trong mình 1 suy
nghĩ là “phải rẻ nhưng phải đẹp, phải xịn” vì thế, việc xóa bỏ nạn buôn
lậu hàng giả hàng nhái mất rất nhiều thời gian để có thể loại bỏ hoặc
không

You might also like