You are on page 1of 39

Đề cương môn nguyên lý 2

C1. Khái niệm hàng hóa và hai thuộc tính của hàng hóa
A, Khái niệm hàng hóa:
“Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người thông qua trao đổi, mua bán”
Hành hóa có hai hình dạng:
 Dạng vật thể (Hữu hình), ví dụ như sách, tiền, quần áo, đồ ăn.
 Dạng phi vật thể (Dịch vụ vô hình), ví dụ như sức lao động, chất xám.
Theo định nghĩa của Các-Mác:
“Hành hóa có khả năng trở thành đồ vật nhằm thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người”
Để được như vậy thì hàng hóa cần phải có 3 tính chất sau:
 Tính ích dụng đối với người tiêu dung
 Giá trị kinh tế, có nghĩa là bị ảnh hưởng bởi yếu tố lao động
 Sự hạn chế để đạt được nó, có nghĩa là bị ảnh hưởng bởi yếu tố khan hiếm của
hàng hóa.
B, Hai thuộc tính của hàng hóa
Theo Đa-vít Ri-các-đô thì hàng hóa có hai thuộc tính cơ bản, dù là ở trong
mỗi hình thái kinh tế-xã hội khác nhau thì việc sản xuất hàng hóa cũng có bản chất
khác nhau, nhưng mỗi một vật phẩm sản xuất ra khi đã mang hình thái là hàng hóa
thì đều có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị
Giá trị sử dụng:
Công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con
người, ví dụ như là, giá trị sử dụng của cơm là để ăn, của áo là để mặc, của
máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu là để sản xuất và phục vụ cho sản
xuất.
Hàng hóa cũng rất nhiều công dụng và công dụng tạo ra cho nó giá trị sử
dụng, ví dụ như là, công dụng của gạo là để nấu ăn và gạo có giá trị sử dụng
như một món hàng hóa không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày của con
người.
 Số lượng giá trị sử dụng của một vật không phải ngay một lúc đã phát hiện ra
được hết, mà nó được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học
kỹ thuật
 Giá trị sử dụng hay công dụng của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của vật
thể hành hóa quyết định, với ý nghĩa này thì giá trị sử dụng của hàng hóa là
một phạm trù vĩnh viễn.
 Giá trị sử dụng chỉ được thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng, nó là
vật chất của của cải, không kể hình thức xã hội của của cái đó như thế nào
 Con người ở bất kỳ một thời đại nào cũng đều cần đến các giá trị sử dụng khác
nhau của vật phẩm để thỏa mãn những nhu cầu muôn vẻ của mình
Một vật, khi đã có giá trị hàng hóa thì nhất thiết phải có giá trị sử dụng, nhưng
không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng thì cũng là hàng hóa, ví dụ như là tất cả
những thứ có trong tự nhiên như không khí, cây cỏ, suối, quả dại.
Một vật muốn trở thành hàng hóa thì giá trị sử dụng của nó phải là thứ được sản
xuất ra để bán và trao đổi, có nghĩa là vật đó phải có giá trị trao đổi, trong kinh tế
hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang lại giá trị trao đổi
Giá trị:
Muốn hiểu được về giá trị của hàng hóa thì phải đi từ giá trị trao đổi, theo
Các-mác:
“Giá trị trao đổi trước hết được biểu hiện như là một quan hệ về số lượng, là một
tỷ lệ mà theo đó những giá trị sử dụng của loại này được trao đổi với những giá trị sử
dụng của loại khác”
Ví dụ như, 1 mét mải = 10kg thóc
Vấn đề ở đây là, chúng ta đã biết vải vài thóc là hai loại hàng hóa có giá trị
sử dụng khác nhau nhưng tại sao chúng lại có thể trao đổi được với nhau, hơn nữa là
lại là trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định?
Chúng ta có một cơ sở chung để có thể xác định là, vải với thóc có thể trao đổi
được với nhau, đó là phải biết được vải với thóc đều là sản phẩm của người lao động,
để tạo ra chúng thì người thợ thủ công và nông dân đều phải tiêu tốn hao phí lao động
của bản thân, chính vì vậy mà hao phí lao động là cơ sở chung để so sánh vải với
thóc, để làm cơ sở cho sự trao đổi giữa chúng với nhau.
Còn vì sao phải trao đổi theo một tỷ lệ nhất định (1m vải = 10kg thóc), thì người ta
cho rằng, hao phí lao động được sử dụng để tạo ra 1m vải bằng hao phí lao động sản
xuất ra 10kg thóc, hao phí lao động để sản xuất ra hàng hóa ẩn giấu trong hàng hóa
chính là giá trị của hàng hóa, từ đây thì chúng ta có kết luận sau:
“Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng
hóa”
Giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá. Vì vậy, giá trị
là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá.
C2. Khái niệm lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng
giá trị hàng hóa
Khái niệm:
Lượng giá trị hàng hóa là một khái niệm thuộc học thuyết Kinh tế chính trị của
Mác và Lê-nin nói về một đại lượng được đo bằng một lượng hao phí lao động bị tiêu
hao để sản xuất ra hàng hóa:
=> Lượng hao phí bị lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó được tính bằng
thời gian lao động xã hội, cụ thể là thời gian lao động xã hội cần thiết, bên cạnh lượng lao
động xã hội cần thiết, chúng sản sinh ra hàng hóa mới và quyết định lượng giá trị của
hàng hóa đó.
Trong thực tế, có nhiều người cùng tham gia sản xuất hàng hóa, nhưng sự ảnh
hưởng của các yếu tố như điều kiện sản xuất và trình độ tay nghề dẫn tới việc thời gian
lao động mà họ sử dụng là khác nhau, tức là cũng khác nhau luôn về hao phí lao động cá
biệt, nhưng lượng giá trị hàng hóa không phải do những yếu tố này quyết định mà thứ
quyết định chính là thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để một người hay nhiều
người tham gia sản xuất để tạo ra hàng hóa, trong một điều kiện là môi trường lao động
trung bình, vật chất kỹ thuật trung bình, một trình độ lao động trung bình với một cường
độ lao động trung bình, chính vì vậy mà thời gian lao động xã hội cần thiết cũng là một
mức hao phí lao động xã hội trung bình hay còn là thời gian lao động xã hội trung bình
để sản xuất ra hàng hóa. Thời gian lao động xã hội cần thiết có thể thay đổi, do đó mà
lượng giá trị hàng hóa cũng có thể thay đổi.
Các yếu tố chính ảnh hưởng đến giá trị hàng hóa:
Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng
hóa cũng là một đại lượng không cố định, sự thay đổi của lượng giá trị hàng hóa
tùy thuộc vào những nhân tố sau:
 Năng suất lao động:

Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, được tính bằng
số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời
gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm
Có hai loại năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội, trên thị
trường, hàng hóa được trao đổi không phải theo giá trị cá biệt mà là giá trị xã
hội, vì vậy, năng suất lao động có ảnh hưởng đến giá trị xã hội của hàng hóa
chính là năng suất lao động xã hội

Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết để
sản xuất ra hàng hóa càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít,
ngược lại, năng suất lao động xã hội càng giảm, thời gian lao động xã hội cần
thiết để sản xuất ra hàng hóa càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản
phẩm càng nhiều.

Giá trị hàng hóa có tỷ lệ nghịch với năng suất lao động, mặt khác thì năng
suất lao động cũng phụ thuộc vào nhiều nhân tố đa dạng khác nhau.

 Mức độ phức tạp của lao động:

J;Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến số lượng giá trị
của hàng hóa, theo mức độ phức tạp của lao động, có thể chia lao động thành lao
động phức tạp và lao động giản đơn

Lao động phức tạp:


Lao động đòi hỏi một người nào đó phải trải qua một giai đoạn được đào tạo và
huấn luyện thành lao động chuyên môn lành nghề
Ví dụ như, để tuyển chọn một giảng viên đại học thì các trường đại học
luôn đòi hỏi những sinh viên muốn tham gia ứng tuyển phải trải qua 4 năm
được học tập, rèn luyện đầy khắc nghiệt trong môi trường đại học và có một
kết quả vừa đủ tốt trong bảng điểm tổng kết.
Lao động giản đơn
Lao động mà bất kỳ một người bình thường nào cũng có thể thực hiện được
Ví dụ như, bất kỳ ai cũng có thể trở thành công dân tốt và tích cực đóng
góp cho sự phát triển của cộng đồng, xã hội, đất nước.
C3. Nội dung của quy luật sản xuất giá trị và tác động của nó
Khái niệm về quy luật giá trị:
Quy luật giá trị là quy luật cơ bản trong học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác-
lênin và cũng là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hóa, cụ thể là:
 Nó quy định bản chất của sản xuất hàng hóa
 Là cơ sở cho tất cả các quy luật sản xuất khác của hàng hóa
Nội dung chính của quy luật giá trị:
Việc sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa
trên hao phí lao động xã hội cần thiết, cụ thể là:
 Trong quá trình sản xuất, quy luật giá trị buộc người sản xuất phải hạ thấp mức
hao phí lao động cá biệt của mình sao cho nó phù hợp với mức hao phí lao
động cá biệt của xã hội cần thiết, như vậy thì họ mới có thể tồn tại được.
 Trong quá trình trao đổi và lưu thông thì phải thực hiện theo nguyên tắc ngang
giá, hai hàng hóa được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao động
như nhau hoặc trao đổi và khi mua bán hàng hoá phải thực hiện với giá cả bằng
giá trị
 Cơ chế tác động của quy luật giá trị thể hiện cả trong trường hợp giá cả bằng
giá trị, cả trong trường hợp giá cả lên xuống xung quanh giá trị. và giá trị như
cái trục của giá cả.
Các tác động từ quy luật giá trị:
Trong nền sản xuất, quy luật giá trị có các tác động chủ yếu sau:
1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa

Quy luật điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa thể hiện trong hai trường hợp
sau:

Trường hợp 1
Nếu như có một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị thì hàng hóa sẽ bán
chạy và đem lại lãi cao cho người sản xuất, từ đây họ có sẽ có thêm vốn để mua
thêm tư liệu nhằm phục vụ cho việc sản xuất và đầu tư sức lao động, họ cũng có
thể thu hút những người khác tham gia vào góp vốn đầu tư sản xuất vào ngành này
chung với họ, từ đây thì tư liệu, sức lao động cũng tăng lên, quy mô sản xuất cũng
được mở rộng ra.
Trường hợp 2
Nếu như có một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị thì hàng hóa sẽ
không thể bán chạy được và làm cho người sản xuất bị lỗ vốn, từ đây thì họ sẽ rơi
vào hoàn cảnh bắt buộc phải thu hẹp sản xuất hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng
khác, tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này giảm đi nhưng lại tăng lên ở
ngành khác, còn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có
thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này.
 Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và
sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó thu
hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá cả cao hơn, và do đó, góp
phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.

2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động và
hạ giá thành sản phẩm:
Các hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó, có
mức hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hóa
đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết.
Vậy người sản xuất hàng hóa nào mà có mức hao phí lao động thấp hơn
mức hao phí lao động xã hội cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn
càng lãi. Điều đó kích thích họ cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến tổ
chức quản lý, thực hiện tiết kiệm... nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản
xuất.
Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ
hơn. Nếu người sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ
năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không
ngừng giảm xuống.

Phân hóa sản xuất:

Quy luật này phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo.
Những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn
mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo mức hao phí lao
động xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm
thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí thuê lao động trở
thành ông chủ.
Ngược lại, những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá
biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa sẽ rơi vào
tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê.
Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa và cũng là cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.
C4. So sánh công thức lưu thông của tư bản với công thức lưu thông
của hàng hóa
 Công thức chung của tư bản:
Tiền được coi là sản vật cuối cùng của hàng hóa và cũng là biểu hiện đầu tiên của
tư bản:
 Có nghĩa là tư bản khởi đầu từ dưới hình thái của một số tiền nhất định, tiền trở
thành tư bản khi chúng được sử dụng cho mục đích bóc lột giai cấp công nhân

Một số công thức chung:

 H-T-H (Hàng-tiền-hàng) là công thức biểu hiện cho đơn vị tiền thông thường

 T-H-T (Tiền-hàng-tiền) là công thức biểu hiện cho đơn vị tiền của tư bản

Bất cứ đơn vị tiền nào hoạt động theo công thức T-H-T đều biểu hiện cho sự
chuyển hóa của nó thành tư bản.
So sánh công thức H-T-H và T-H-T

Điểm giống nhau:

 Hai công thức biểu hiện cho hai sự vận động được hình thành từ hai giai đoạn
đối lập là mua và bán
 Mỗi giai đoạn đều có hai nhân tố vật chất đối diện nhau để tạo ra quan hệ kinh
tế là người mua và người bán với tiền và hàng hóa.

Điểm khác nhau:

Giữa hai công thức có sự khác nhau về chất:

 Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng việc bán (H-T) và kết thúc bằng
việc mua (T-H), điểm xuất phát và kết thúc của quá trình này là hàng hóa, tiền
giữ vai trò trung gian.
 Lưu thông tư bản bắt đầu bằng việc mua (T-H) và kết thúc bằng việc bán (H-
T), điểm xuất phát và kết thúc của quá trình này là tiền, hàng hóa giữ vai trò
trung gian, tiền ở đây không phải là dứt khoát để cho đi hết mà là để ứng ra rồi
thu về.

Giữa hai công thức có sự khác nhau về mục đích:

 Mục đích sau cùng của lưu thông hàng hóa là tạo ra giá trị sử dụng để thỏa
mãn nhu cầu của người tiêu dùng cho nên các hàng hóa trao đổi phải có giá trị
sử dụng khác nhau
 Mục đích sau cùng của lưu thông tư bản không phải là tạo ra giá trị sử dụng mà
phải là giá trị và hơn nữa lại là giá trị tăng thêm với số tiền thu về lớn hơn nên
lưu thông tư bản lại có thêm một công thức khác được coi là công thức vận
động đầy đủ của tư bản:

T’= T+AlphaT
Với một số tiền thu về lớn hơn với so với số tiền ứng ra, Các-Mác gọi đó là giá trị
thặng dư với ký hiệu là M và số tiền ứng ra ban đầu chuyển hết thành tư bản.
Vậy, tư bản mong muốn tạo ra giá trị thặng dư và mục đích lưu thông của tư bản là
sự lớn lên của giá trị thặng dư nên sự vận động của tư bản là không có giới hạn.
Các-Mác gọi công thức T-H-T’ là công thức chung của tư bản vì mọi sự vận động
và mọi biểu hiện trong quá trình lưu thông tư bản đều xoay quanh công thức khái quát
đấy
C5. Khái niệm hàng hóa sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành
hàng hóa
Khái niệm sức lao động:
Khái niệm sức lao động là một khái niệm trong một số học thuyết chính trị, sức
lao động là toàn bộ những yếu tố về thể chất, trí lực và tinh thần của người lao động và
sức lao động được sử dụng khi người lao động sản xuất ra một giá trị thặng dư nào đó.
Khái quát hơn, sức lao động biểu thị cho khả năng của một người lao động và là
điều kiện tiên quyết của mọi quá trình sản xuất của xã hội.
Hai điều kiện để sức lao động để sức lao động trở thành hàng hóa:
Điều kiện 1:
 Người lao động phải có quyền tự do về thân thể và quyền sở hữu năng lực lao
động, từ đó thì họ mới có khả năng chi phối và điều tiết sức lao động của mình
và sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hóa do người
lao động tạo ra.
 Việc biến sức lao động thành hàng hóa có nguồn gốc từ chế độ chiếm hữu nô
lệ và chế độ phong kiến.

Điều kiện 2:

Người lao động bị tước đoạt hết quyền tự do về thân thể và quyền sở hữu năng
lực lao động, từ đó thì họ đánh mất khả năng chi phối và điều tiết sức lao động
của mình, họ không thể biến sức lao động thành hàng hóa và họ thậm chí phải
bán sức lao động của mình đi để có thể tồn tại.

Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu đẫn đến chỗ sức lao động
biến thành hàng hoá.
Điều đó đã tạo ra khả năng khách quan cho sự phát triển tự do cá nhân của
các công dân và đánh dấu một trình độ mới trong sự phát triển của văn minh nhân
loại. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện chủ yếu quyết định sự chuyển
hoá tiền thành tư bản.
C6. Trình bày và phân tích hai thuộc tính của hàng hóa và sức lao động
Thuộc tính thứ nhất, giá trị hàng hóa sức lao động:
Cũng giống như giá trị của các loại hàng hóa khác, giá trị hàng hóa của sức
lao động được quyết định bởi yếu tố:
 Số lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức
lao động
Sức lao động chỉ tồn tại trong cơ thể của người lao động, để có thể có thể sản
xuất và tái sản xuất ra sức lao động, người lao động cũng phải tiêu hao một số
lượng tư liệu sinh hoạt nhất định cho nên là:
 Số lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức
lao động sẽ chuyển hóa thành thời gian lao động xã hội cần thiết để tạo ra số
lượng tư liệu sinh hoạt của người lao động
 Số lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức
lao động được xác định bằng số lượng tư liệu sinh hoạt được dùng để duy trì
cuộc sống của người lao động trong trạng thái bình thường hàng ngày.
Khác với giá trị hàng hóa thông thường, giá trị hàng hóa sức lao động đã bao
hàm cả yếu tố lịch sử, điều đó thể hiện ở chỗ
 Người lao động không chỉ có nhu cầu về vật chất mà còn có cả những nhu cầu
về tinh thần và nó phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của từng thời kỳ cũng
như của một đất nước.

Thuộc tính thứ hai, giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động:

Cũng giống như giá trị của các loại hàng hóa khác, giá trị sử dụng của hàng
hóa sức lao động được thể hiện thông qua quá trình tiêu dùng sức lao động:

 Đó là quá trình người lao động tiến hành dùng sức lao động để sản xuất ra
hàng hóa

Tính chất đặc biệt của giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động được thể hiện ở
hai đặc điểm sau:

 Đặc điểm thứ nhất

Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động đã tạo ra sự khác biệt với giá trị hàng
hóa sức lao động ở chỗ, khi tiêu dùng hàng hóa sức lao động thì nó đã tạo ra
một giá trị mới còn lớn hơn cả chính bản thân nó, giá trị mới đó chính là giá trị
thặng dư.

Giá trị sử dùng hàng hóa sức lao động là nguồn gốc tạo ra mọi giá trị và đây
cũng là đặc điểm cơ bản nhất khiến nó khác biệt so với các loại giá trị hàng hóa
khác, nó cũng là chìa khóa để giải quyết mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản,
ngoài ra thì đặc điểm này cũng biến giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động trở
thành điều kiện để tiền tệ chuyển hóa thành tư bản.

 Đặc điểm thứ hai


Người lao động được coi là chủ thế của giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động,
chính vì vậy mà việc sức lao động được tạo ra cũng phụ thuộc vào mọi yếu tố mà
người lao động đang có.
Tóm lại:
Sự phát triển của hàng hóa sức lao động và thị trường sức lao động một là điều tất
yếu mang tính chất khách quan, việc thừa nhận sức lao động hàng hóa không cản trở điều
gì mà trái lại thì nó còn kích thích người lao động tích cực hơn trong việc đóng góp công
sức cho sự phát triển của đất nước.
Kết luận:
Sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt, trong thời gian tới cần phải có
những giải pháp hoàn thiện cơ chế chính sách đi đôi với nâng cao chất lượng
nguồn lao động tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người lao động được tự do bán sức
lao động, tự do di chuyển sức lao động giữa các vùng, các miền khác nhau nhằm
phát huy hết tiềm năng nguồn lực lao động của nước ta với mục đích xây dựng
một thị trường lao động sôi động, ổn định và có hiệu quả tác động tích cực đến sự
phát triển kinh tế.
C7. Khái niệm giá trị thặng dư và so sánh hai phương pháp sản xuất
giá trị tương đối và tuyệt đối
Khái niệm giá trị thặng dư:
Giá trị thặng dư là một khái niệm cơ bản trong học thuyết kinh tế chính trị
của Mác và Mác đã nghiên cứu để đưa ra một số công thức tính toán cơ bản xung
quanh nó xong Mác đã đưa ra một nhận định như sau:
“Giá trị thặng dư là một phần sức lao động của giai cấp công nhân bị các
nhà tư bản chiếm đoạt để làm nền tảng cho sự tích lũy tư bản”
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
=> Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất
ra giá trị thặng dư được thực hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của
giai cấp công nhân trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không đổi.
Phương pháp này xuất hiện trong giai đoạn phát triển đầu tiên của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa để sản xuất giá trị thặng dư bằng cách kéo dài ngày lao động
của giai cấp công nhân khi kỹ thuật sản xuất còn thấp và có tiến độ vô cùng chậm
chạp.
Các nhà tư bản tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động nhưng lại bị vấp
phải những giới hạn nhất định liên quan đến vấn đề thể chất và tinh thần của giai
cấp công nhân.
Cũng từ những giới hạn đó nên chúng ta có thể thấy là độ dài ngày lao
động của giai cấp công nhân là một đại lượng không cố định và có nhiều mức độ
khác nhau, cụ thể là:
- Độ dài của ngày lao động xuất phát từ cuộc đấu tranh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng.
- Độ dài của ngày lao động tiêu chuẩn là 8 giờ và được lựa chọn trong rất
nhiều cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trong lịch sử.
=> Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản
xuất ra giá trị thặng dư được thực hiện bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất
yếu để kéo dài một cách tương ứng thời gian lao động thặng dư trên cơ sở tăng
năng suất lao động xã hội trong điều kiện ngày lao động không đổi.
Làm thế nào để rút ngắn được thời gian lao động tất yếu? Thời gian lao
động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động, từ đây suy ra muốn rút ngắn thời
gian lao động tất yếu thì phải giảm giá trị sức lao động, muốn giảm giá trị sức lao
động thì phải giảm giá trị của các khối tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu chuẩn
của công nhân và điều đó chỉ có thể thực hiện bằng cách tăng năng suất lao động
xã hội.
Chủ nghĩa tư bản coi phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là
phương pháp sản xuất trọng tâm ở giai đoạn phát triển đầu tiên và ở giai đoạn phát
triển sau thì họ chuyển sang sử dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương
đối khi kỹ thuật sản xuất có sự phát triển.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được chủ nghĩa tư bản
sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao khả năng bóc lột giai cấp công nhân trong
quá trình phát triển của mình.
C8. Trình bày bản chất của tư bản? Vai trò của tư bản khả biến và tư
bản bất biến trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư
Bản chất của tư bản:
Các nhà kinh tế học của giai cấp tư sản thường cho rằng mọi công cụ lao
động, mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản nhưng thực ra chúng không phải là tư bản
mà trái lại thì chúng còn là một trong những yếu tố cơ bản hình thành mọi nền sản
xuất trong xã hội.
Công cụ lao động và tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi chúng trở
thành tài sản của các nhà tư bản xong các nhà tư bản dùng chúng để bóc lột giai
cấp công nhân và tầng lớp nhân dân lao động và chỉ khi các nhà tư bản không còn
tồn tại nữa thì công cụ lao động và tư liệu sản xuất mới không còn là tư bản.
=> Tư bản không phải là một vật mà chỉ là một quan hệ sản xuất nhất định
giữa người với người trong quá trình sản xuất và có tính chất tạm thời trong lịch
sử.
Qua nhiều nghiên cứu thì chúng ta có thể định nghĩa chính xác tư bản phản
ánh một quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị
thặng dư của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động:
“Giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột không công giai cấp
công nhân và tầng lớp nhân dân lao động”
Hai bộ phận của tư bản:
Trước khi tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng ra số tư bản tiền tệ dùng
để mua tư liệu sản xuất và sức lao động, tức là biến tư bản tiền tệ thành các yếu tố
của quá trình sản xuất và thành các hình thức tồn tại khác nhau của tư bản sản
xuất.
Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất và tư liệu sản xuất thì
rất đa dạng và có hai bộ phận chính:
=> Bộ phận tư bản bất biến
Về bản chất thì bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị của nó
được bảo toàn và chuyển vào sản phẩm, tức là không bị thay đổi về lượng giá trị
được Các-mác gọi là tư bản bất biến với ký hiệu là C.
Về vai trò thì bộ phận tư bản bất biến không phải là bộ phận trực tiếp tạo ra
giá trị thặng dư nhưng nó lại là bộ phận không thể thiếu được trong quá trình tạo
ra giá trị thặng dư vì nó quyết định năng suất lao động của giai cấp công nhân và
tầng lớp nhân dân lao động.
=> Bộ phận tư bản khả biến
Xét về bản chất thì bộ phận tư bản biến thành sức lao động nhưng không tái
hiện ra xong nó thông qua lao động trừu tượng của giai cấp công nhân và tầng lớp
nhân dân lao động để dần tăng lên, tức là biến đổi về lượng được Các-mác gọi là
tư bản khả biến với ký hiệu là V. Bộ phận tư bản khả biến chuyển thành tư liệu
tiêu dùng và mất đi trong quá trình giai cấp công nhân và tầng lớp nhân dân lao
động tham gia quá trình sản xuất, tuy nhiên là với lao động trừu tượng, họ có thể
tạo ra được một lượng giá trị mới lớn hơn so với giá trị sức lao động và giá trị này
bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.
Về vai trò thì bộ phận tư bản khả biến là bộ phận trực tiếp tạo ra giá trị
thặng dư và bộ phận tư bản khả biến cũng chỉ rõ ra là nguồn gốc của giá trị thặng
dư là từ sức lao động của giai cấp công nhân và tầng lớp nhân dân lao động bị giai
cấp tư bản chiếm đoạt.
Kết luận:
Bộ phận tư bản khả biến là điều kiện cần thiết và không thể thiếu được để
sản xuất ra giá trị thặng dư và còn tư bản khả biến giữ vai trò quyết định vì nó là
bộ phận tư bản đã lớn lên.
Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa đã giúp Các-
Mác tìm ra chiếc chìa khóa để xác định sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư
bản khả biến và ông cũng là người đầu tiên phân chia chúng thành hai bộ phận của
tư bản dựa vào căn cứ là vai trò của chúng trong quá trình tạo ra giá trị thặng dư và
góp phần vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản xong chỉ có sức lao động
của giai cấp công nhân và tầng lớp nhân dân lao động mới tạo ra giá trị thặng dư
cho nhà tư bản.

C9. Tại sao quy luật giá trị sản xuất thặng dư được coi là quy luật kinh tế tuyệt đối
của chủ nghĩa tư bản?
Khái niệm quy luật sản xuất giá trị thặng dư:
Trong học thuyết kinh tế chính trị, quy luật sản xuất giá trị thặng dư được coi là
một trong những quy luật kinh tế cơ bản nhất của chủ nghĩa tư bản, về mặt nội dung thì
có thể khái quát ngắn gọn như sau:
“Tăng cường sản xuất nhiều hơn và ngày càng tạo ra nhiều giá trị thặng dư bằng
cách tích cực bóc lột công nhân làm thuê”
Có thể coi, nếu quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa là quy luật giá trị thì
quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản là quy luật sản xuất giá trị thặng dư.
Chủ nghĩa tư bản coi giá trị thặng dư là một giá trị mới và cũng là nguồn gốc tạo
ra sự giàu có nên phải có cách để duy trì nó, chính vì vậy, những giai cấp có quyền lực
của của chủ nghĩa này đã đi theo xu hướng chung là càng tạo ra càng nhiều giá trị thặng
dư thì càng tốt qua việc tích cực đẩy mạnh quá trình sản xuất và bóc lột giai cấp công
nhân, những gì mà họ thu được như lợi tức, tiền bạc đều được đưa vào phục vụ cho kế
hoạch tái sản xuất, đầu tư, thuê nhân lực, mua nhà xưởng, mua công cụ lao động để tiếp
tục vận hành quá trình sản xuất giá trị thặng dư.
Nội dung chính:
Quy luật sản xuất giá trị thặng dư gần như quyết định toàn bộ bản chất và chi phối
mọi mặt trong đời sống kinh tế xã hội và nền sản xuất mang tính chất chủ nghĩa tư bản.
 Không có quy luật sản xuất giá trị thặng dư thì không có chủ nghĩa tư bản
Các mác đã đưa ra một nhận định như sau:
“Sản xuất ra giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư
bản”
 Ở đâu có sản xuất ra giá trị thặng dư thì ở đó chủ nghĩa tư bản và ngược lại thì
ở đâu có chủ nghĩa tư bản thì ở đó cũng sẽ có sản xuất giá trị thặng dư.
Theo Lê-nin:
“Quy luật sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ
nghĩa tư bản”
 Động lực thường xuyên để hướng đến nhiều mục tiêu lớn của chủ nghĩa tư bản
chính là tạo ra càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt và giá trị thặng dư cũng đảm
bảo cho sự tồn tại, phát triển và vận hành thường xuyên của chủ nghĩa tư bản
xong ngoài ra thì nó cũng khiến cho mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản bản ngày
càng sâu sắc hơn, điều này tạo tiền đề cho sự ra đời của một xã hội ở cấp độ
cao hơn để dần thay thế cho chủ nghĩa tư bản trong tương lai.
 Mâu thuẫn do giá trị thặng dư tạo ra được nhắc đến chính là mâu thuẫn giữa
các giai cấp, tư bản và lao động, tư sản và công nhân.
Quy luật sản xuất giá trị thặng dư còn đứng đằng sau nhiều sự đối đầu trong
chủ nghĩa tư bản, cụ thể, là các nhà tư bản liên tục tạo ra nhiều sự cạnh tranh, thậm
chí là sẵn sàng tiêu diệt nhau để xem ai đạt được mục đích sau cùng là tạo ra và
thu về nhiều giá trị thặng dư nhất, sau đó là sở hữu trong tay quy mô giá trị thặng
dư lớn hơn và tỉ suất giá trị thặng dư cao hơn
Để có thể tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư hơn, chủ nghĩa tư bản hiện
nay đã bắt đầu áp dụng những thành tựu của khoa công nghệ và khoa học kỹ thuật
để thúc đẩy quá trình sản xuất, từ đây thì lực lượng sản xuất cũng dần lớn mạnh
lên và phát triển mạnh mẽ hơn, nền sản xuất mang tính xã hội hóa cũng ngày càng
cao, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội với hình thức chiếm hữu tư nhân của chủ
nghĩa tư bản ngày càng gay gắt.
C10. Khái niệm tích lũy tư bản và các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích
lũy tư bản
Khái niệm tích lũy tư bản:
Theo học thuyết kinh tế chính trị của chủ nghĩa Mác-Lênin:
“Tích lũy tư bản được hiểu như là quá trình mà một bộ phận giá trị thặng dư
chuyển hóa thành tư bản, thực chất đây là sự chuyển hóa một phần cúa giá trị
thặng dư thành tư bản hoặc theo hướng ngược lại là tư bản chuyển hóa thành giá
trị thặng dư”
Còn theo các học thuyết kinh tế học khác:
“Tích lũy tư bản là sự hình thành tư bản với sự tăng lượng dưới hai hình thức
tư bản cố định và tư bản lưu kho của chính phủ và tư nhân”
Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư bản:
Nhân tố thứ nhất:
 Trình độ bóc lột giá trị thặng dư: khi nhà tư bản không chấp nhận tuyển thêm
nhân công mà bắt buộc số lượng nhân công hiện có phải gia tăng cường độ lao
động và sức lao động từ việc tận dụng một cách triệt để những thứ sẵn có như
tư liệu sản xuất, máy móc, nhà xưởng, công cụ nhằm mở rộng quy mô tích lũy
tư bản.
 Năng suất lao động: năng suất lao động tăng lên thì lượng giá cả của tư liệu sản
xuất và tư liệu tiêu dùng giảm xuống, nó sẽ đem lại hai hệ quả sau:
Hệ quả thứ nhất => với khối lượng giá cả thặng dư nhất định, phần dành
cho tích lũy có thể lấn sang phần tiêu dùng, trong khi sự tiêu dùng của nhà
tư bản không giảm mà vẫn có thể bằng hoặc cao hơn trước.
Hệ quả thứ hai => một lượng khối lượng giá trị thặng dư nhất định dành
cho tích lũy cũng có thể chuyển hóa thành tư liệu sản xuất.

Nhân tố thứ hai:

 Tư bản sử dụng: là khối lượng giá trị của những tư liệu lao động mà toàn bộ
qui mô hiện vật của chúng đều hoạt động trong quá trình sản xuất sản phẩm.
 Tư bản tiêu dùng: là phần giá trị những tư liệu lao động ấy được chuyển vào
sản phẩm theo từng chu kì sản xuất dưới dạng khấu hao.
 Giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng luôn có sự chênh lệch
 Nếu máy móc càng hiện đại thì sau khi khấu hao hết, máy móc coi như phục
vụ không công cho nhà tư bản, tức là tạo ra nhiều giá trị thặng dư, nhờ đó tăng
qui mô tích lũy tư bản

Nhân tố thứ ba:

 Đại lượng tư bản ứng trước: đại lượng tư bản ứng trước càng lớn thì qui mô
sản xuất càng được mở rộng cả theo chiều rộng lẫn chiều sâu, khối lượng thặng
dư tăng lên càng nhiều
C11. Phân biệt tư bản cố định và tư bản lưu động
Khái niệm tư bản cố định:
Tư bản cố định là một khái niệm trong học thuyết kinh tế chính trị cổ điển
dùng để chỉ một bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái giá trị của vật chất
 Ví dụ như, các loại máy móc, công cụ, nhà xưởng.

Tư bản cố định trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất nhưng nó sẽ không
lập tức chuyển hết giá trị của mình vào sản phẩm mà sẽ chuyển từ từ theo quá
trình hao mòn trong từng phần một.

Có hai loại hao mòn:


 Hao mòn vô hình là loại hao mòn hao mòn tuần tuý về mặt giá trị do xuất hiện
những máy móc hiện đại hơn, rẻ hơn hoặc có công suất lớn hơn
 Hao mòn hữu hình là loại hao mòn về vật chất và về giá trị sử dụng do tác
động của tự nhiên
Khái niệm tư bản lưu động:
Tư bản lưu động là một khái niệm trong học thuyết kinh tế chính trị cổ điển
dùng để chỉ một bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới hình thái tư bản bất biến
 Ví dụ như, các nguyên liệu, nhiệt liệu, vật liệu và sức lao động
Tư bản lưu động được tiêu dùng hoàn toàn trong một chu kỳ sản xuất và toàn
bộ giá trị của nó đều được chuyển vào sản phẩm trong quá trình sản xuất.
Tư bản lưu động có tốc độ chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định và việc tăng
tốc độ chu chuyển của nó cũng đem lại ý nghĩa quan trọng, nó giúp cho việc tích
lũy tư bản ứng trước và tăng tỷ suất giá trị thặng dư trong một năm.

CHƯƠNG VI:
HỌC THUYẾT VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN VÀ CHỦ
NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC

I. Chủ nghĩa tư bản độc quyền


C12. Những nguyên nhân chuyển biến của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh
tranh thành chủ nghĩa tư bản độc quyền
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển qua hai giai đoạn:
 Giai đoạn thứ nhất là chủ nghĩa tư bản cạnh tranh
 Giai đoạn thứ hai là chủ nghĩa tư bản độc quyền
Theo nghiên cứu trước đó của Các-Mác và Ăng-ghen thì hai người đã dự báo
rằng, giữa hai giai đoạn này có một mối liên hệ chặt chẽ với nhau, cụ thể là:

 Chủ nghĩa tư bản cạnh tranh theo hướng tự do sẽ sinh ra sự tích tụ và tập trung
sản xuất và khi đạt đến một mức độ cao nhất thì chúng sẽ phát triển thành chủ
nghĩa tư bản độc quyền
Kế thừa và tiếp thu những thành quả từ nghiên cứu trên của hai người cộng sự,
Lê-nin đã vận dụng một cách linh hoạt chúng vào điều kiện lịch sử mới của thế
giới và chứng minh điều sau:
 Chủ nghĩa tư bản đã bước sang một giai đoạn mới là chủ nghĩa tư bản độc
quyền

Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền được xác định qua các đặc điểm kinh
tế cơ bản được xác định từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX:

 Đặc điểm thứ nhất, khả năng tiến bộ và phát triển mạnh mẽ của các lực lượng
sản xuất dưới ảnh hưởng của các cuộc cách mạnh khoa học kỹ thuật đã đẩy
nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất qua việc hình thành các xí nghiệp
có quy mô lớn.

 Đặc điểm thứ hai, vào 30 năm cuối thế kỷ XIX, có nhiều thành tựu được ra đời
từ các cuộc cách mạnh khoa học kỹ thuật và một số ngành sản xuất mới xuất
hiện đòi hỏi các xí nghiệp phải mở rộng quy mô lớn hơn. Mặt khác thì năng
suất lao động, khả năng tích lũy tư bản cũng tăng lên và thúc đẩy quá trình sản
xuất.

 Đặc điểm thứ ba, trong khi các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang diễn ra
thì sự tác động và ảnh hưởng của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản
ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội, buộc chủ nghĩa tư
bản phải đi theo hướng tập trung sản xuất với quy mô lớn để có thể tồn tại.

 Đặc điểm thứ tư, sự cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải
tiến kỹ thuật và mở rộng quy mô tích lũy để giành lợi thế. Ảnh hưởng của sự
cạnh tranh làm các nhà tư bản vừa và nhỏ thất bại xong dẫn đến phá sản, các
nhà tư bản lớn giành chiến thắng, ngày càng phát tài hơn, họ làm giàu với số
vốn tư bản sẵn có và ngày càng mở rộng xí nghiệp của mình để nó to lớn hơn
nữa.
 Đặc điểm thứ năm, cuộc khủng khoảng kinh tế thế giới năm 1873 đã đẩy các xí
nghiệp nhỏ đi đến con đường phá sản và giúp tư bản chủ nghĩa thúc đẩy nhanh
quá trình tập trung tích tụ và tập trung tư bản

 Đặc điểm thứ sáu, sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở
thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất.
C13. Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền
Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sinh sự tích tụ và tập trung sản xuất và khi
chúng đạt đến một mức độ cao nhất thì hình thành nên tổ chức độc quyền, đây được coi
là một trong những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc, tổ chức độc quyền
xuất hiện từ năm 1900 ở Châu Âu, từ cái bắt tay theo khuynh hướng thỏa hiệp với nhau
để nắm độc quyền giữa các xí nghiệp lớn.
Tổ chức độc quyền là một liên minh lớn của các nhà tư bản có mục đích chung là
sử dụng phần lớn khả năng sản xuất mà mình có để tiêu thụ một số loại hàng hóa nào đó
nhằm mục đích thu được khoản lợi nhuận mang tính chất độc quyền cao.
Trong khoảng thời gian đầu tiên khi bắt đầu xây dựng liên minh và thực hiện quá
trình độc quyền hóa, các tổ chức độc quyền đi theo hướng liên kết ngang, nghĩa là chỉ
liên kết các doanh nghiệp trong một ngành, về sau thì họ tạo dựng dây chuyền để đi theo
hướng liên kết dọc để mở rộng liên kết với các doanh nghiệp trong nhiều ngành khác
A, Có 4 hình thức tổ chức độc quyền cơ bản là Cartel, Syndicate, Trust, Consortium
=> Cartel là hình thức tổ chức độc quyền xuất hiện khi các nhà tư bản ký hiệp định thỏa
thuận với nhau để thực hiện một quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nào đó
=> Syndicate là hình thức tổ chức độc quyền phát triển lớn hơn và ổn định hơn so với
Cartel
=> Trust là hình thức tổ chức độc quyền đứng trên cả Cartel và Syndicate
=> Consortium là hình thức tổ chức độc quyền cuối cùng và có mọi yếu tố hơn hẳn ba tổ
chức độc quyền xuất hiện trước nó.
B, Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính
Tư bản tài chính là một loại tư bản được hình thành trong quá trình xâm nhập và
dung hòa giữa hai loại tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp:
=> Tư bản ngân hàng dựa trên vai trò và địa vị mà mình đang có đã cử người tham
gia vào các tổ chức độc quyền của tư bản công nghiệp để theo dõi việc vay vốn.
=> Tư bản công nghiệp buộc phải can thiệp để tìm cách chống lại sự chi phối của
tư bản ngân hàng, họ thu mua cổ phiếu riêng và cũng tự tạo ra tư bản ngân hàng khác cho
riêng mình.
Hai quá trình xâm nhập và dung hòa này đã góp phần làm tiền đề cho sự xuất hiện
của tư bản tài chính và tư bản tài chính thực hiện việc thao túng đời sống kinh tê, chính trị
ở các nước tư bản.
Sự phát triển của tư bản tài chính cũng dẫn đến sự ra đời của một nhóm nhỏ độc
quyền, nhóm nhỏ này chi phối toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị của xã hội và được gọi
là đầu sỏ tài chính:
=> Đầu sỏ tài chính thiết lập sự chi phối của mình thông qua chế độ tham dự, chế độ
tham dự có nhiều sức mạnh và quyền lực vô cùng lớn về mọi mặt từ việc sở hữu số cổ
phiếu mang tính chất khống chế, nhờ chúng mà chế độ tham dự thâu tóm rất nhiều các
công ty từ lớn đến bé.
Nhờ có một hệ thống tổ chức chế độ theo kiểu móc xích theo phương pháp như
vậy mà chế độ tham dự cũng giúp cho các nhà tư bản của tổ chức độc quyền tài chính có
thể khống chế và điều tiết một lượng tư bản lớn hơn rất nhiều lần
=> Đầu sỏ tài chính không chỉ sử dụng chế độ tham dự mà còn vô số thủ đoạn
mưu mô khác để thu lợi nhuận độc quyền cao
=> Đầu sỏ tài chính coi sự thống trị về kinh tế là tiền đề để thống trị về chính trị và
các mặt khác
C, Xuất khẩu tư bản:
Theo Lê-nin, xuất khẩu hàng hóa là đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do
cạnh tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Xuất khẩu tư bản nếu xét về hình thức đầu tư thì có thể phân chia thành:
=> Xuất khẩu tư bản hoạt động (Đầu tư trực tiếp), đưa tư bản ra nước ngoài để
kinh doanh trực tiếp để thu lợi nhuận cao
=> Xuất khẩu tư bản cho vay (Đầu tư gián tiếp), cho vay để thu lợi tức
Xét về chủ sở hữu tư bản, có thể phân thia thành:
=> Xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất khẩu tư bản tư nhân
Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước
ngoài và là công cụ chủ yếu để bành trước sự thống trị, bóc lột, nô dịch của giới tư bản tài
chính trên phạm vi thế giới.
D, Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền
Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản cũng tăng lên
cả về quy mô và phạm vi nên tất yếu dẫn đến sự phân thia thế giới về mặt kinh tế trong
giới tư bản độc quyền và hình thành nên một hình thái của tổ chức độc quyền, đó là tổ
chức độc quyền quốc tế.
Lượng hàng hóa được sản xuất tăng chóng mặt, làm nảy sinh nhu cầu về thị trường
và nguyên liệu ngoài nước giữa các nước đế quốc diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt để
giành giật thị trường thế giới
E, Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc
Sự phân chia về lãnh thổ là một hệ quả tất yếu từ việc phân chia thế giới về kinh tế
và nó biểu hiện ở chỗ, các nước đế quốc thuộc chủ nghĩa tư bản liên tục đi xâm lược và
triển khai kế hoạch biến các nước nhỏ hơn mình thành thuộc địa để chiếm lấy các nguồn
tài nguyên, mở rộng thị trường và lập nên các căn cứ quân sự.
Nhưng, các nhà triết học nhìn nhận khách quan từ vấn đề trên và đưa ra quan
điểm, sự phân chia lãnh thổ không đồng đều đã vô tình dẫn đến các cuộc chiến tranh đòi
phân chia lại toàn bộ thế giới, điển hình hai cuộc chiến tranh thế giới từ năm 1914 đến
năm 1945
C14. Nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:
Nguyên nhân ra đời:
Đầu thế kỷ XX, Lê-nin đã chỉ rõ:
“Chủ nghĩa tư bản độc quyền trở thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một
khuynh hướng tất yếu”
Phải đến những năm 50 của thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước mới
đạt đến một trạng thái hoàn chỉnh và trở thành đặc trưng của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Theo quan điểm của Lê-nin thì chúng ta có thể nhận thấy có đến bốn nguyên nhân
chính dẫn đến sự hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:
Một là, sự tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì sẽ dẫn đến sự tích tụ và tập trung
sản xuất ngày càng cao, từ đây sẽ hình thành nên cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi một sự
điều tiết xã hội hợp lý đối với sản xuất và phân phối, thực hiện kế hoạch hóa tập trung từ
một trung tâm.
Hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số ngành
mà các tổ chức độc quyền tư nhân không thể hoặc không muốn kinh doanh vì nếu đầu tư
lớn thì họ sẽ thu hồi vốn chậm và có quá ít lợi nhuận, nhất là với một số ngành liên quan
đến kết cấu hạ tầng, chúng đòi hỏi nhà nước phải trực tiếp đứng ra đảm nhiệm việc kinh
doanh để các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có lợi hơn.
Ba là, sự thống trị của các tổ chức độc quyền đã làm sự mâu thuẫn và sự đối kháng
giữa hai giai cấp vô sản, tư sản và nhân dân lao động thêm sâu sắc hơn, điều này đòi hỏi
nhà nước phải có những chính sách thiết thực để để xoa dịu sự mẫu thuẫn và sự đối
kháng của các giai cấp trên.
Bốn là, đi cùng với xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế là sự bành trướng của
các liên minh độc quyền quốc tế nhưng lại vướng phải hàng rào mang tên quốc gia dân
tộc và sự xung đột lợi ích với những đối thủ trên thị trường thế giới. Tình hình này đòi
hỏi phải có sự phối hợp giữa các nhà nước của các quốc gia để điều tiết quan hệ chính trị
và kinh tế quốc tế
Năm là, bùng nổ của chiến tranh thế giới và tham vọng giành chiến thắng của một
số nước xong sau đó là sự phát triển của hệ thống chủ nghĩa xã hội sau cuộc Cách mạng
tháng mười Nga lịch sử là một tiếng chuông báo hiệu thời đại mới bắt đầu và nhà nước tổ
chức độc quyền bắt đầu can thiệp vào kinh tế.
Bản chất:
Xét về bản chất thì chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp giữa
sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản
thành một thiết chế và thể chế thống nhất, trong đó thì nhà nước tư sản bị phụ
thuộc vào các tổ chức độc quyền và chấp nhận can thiệp vào các quá trình kinh tế
nhằm bảo vệ lợi ích của họ và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản.
C15. Biểu hiện của chủ nghĩa độc quyền tư bản nhà nước:
A, Sự kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền và nhà nước
Lê-nin từng nhấn mạnh, sự liên minh của các cá nhân của ngân hàng với công
nghiệp ở giai đoạn kế tiếp là liên minh với chính phủ:
“Hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng, hôm nay là chủ ngân hàng,
ngày mai là bộ trưởng”
Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện thông qua các liên minh có nhiều tên gọi
khác nhau của những người quản lý xí nghiệp và các đảng phải tư sản, sự tồn tại của họ
đã góp phần tạo ra cho chủ nghĩa tư bản độc quyền một cơ sở để duy trì sự thống trị xã
hội và xây dựng hệ thống điều hành cho bộ máy nhà nước.
B, Sự hình thành và phát triển của sở hữu tư bản độc quyền nhà nước
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước có đủ quyền lực để thống trị xã hội và nổi
bật nhất là khi các tổ chức độc quyền và nhà nước cùng can thiệp một lúc vào các lĩnh
vực liên quan đến kinh tế và quá trình tái sản xuất
Cơ sở của sự can thiệp này nằm ở sự thay đổi của các quan hệ sở hữu và không chỉ
biểu hiện ở sự tăng lên không ngừng của các quan hệ sở hữu mà còn là ở sự tăng cường
mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước tư sản và sở hữu độc quyền tư bản tư nhân, hai sở hữu
này liên kết với nhau trong quá trình chu chuyển của tổng tư bản xã hội.
Sở hữu tư bản độc quyền nhà nước hình thành và phát triển qua các hình thức chủ
yếu sau:
=> Xây dựng các doanh nghiệp thuộc quyền quản lý của nhà nước bằng vốn được
trích ra từ ngân sách chung
=> Quốc hữu hóa các xí nghiệp của tư bản tư nhân bằng cách mua lại
=> Nhà nước tổ chức thu mua cổ phiếu của các xí nghiệp của tư bản tư nhân
=> Mở rộng các doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích lũy của các doanh nghiệp
tư nhân
C, sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản
Đây được coi là một trong những hình thức biểu hiện quan trọng của chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước khi nhà nước tư sản trực tiếp tham gia vào quá trình thực hiện
việc điều hành hệ thống điều tiết kinh tế.
Hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản là một tổng thể bao gồm thiết chế
và thể chế kinh tế của nhà nước trong một bộ máy quản lý gắn liền với hệ thống chính
sách, công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và tái
sản xuất xã hội theo hướng có lợi cho các tầng lớp tư bản độc quyền.
Các chính sách kinh tế của nhà nước tư sản đã thể hiện rõ ràng nhất sự điều tiết
kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trong giai đoạn hiện nay và được sử
dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau trên thế giới.

LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

CHƯƠNG VII
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
C16. Khái niệm giai cấp công nhân, nội dung về điều kiện khách quan quy định sứ
mệnh lịch sử của giải cấp công nhân
Khái niệm giai cấp công nhân:
Khi bàn về khái niệm giai cấp công nhân, Các-mác và Ăng-ghen đã dùng rất nhiều
các thuật ngữ khác nhau để dễ hình dung về khái niệm đó như giai cấp vô sản, giai cấp vô
sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp.
Về cơ bản thì những thuật ngữ trên đều biểu thị cho một khái niệm chung nhất:
“Giai cấp công nhân hiện đại, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp tư bản
chủ nghĩa và cũng là giai cấp đại diện cho các lực lượng sản xuất tiên tiến và các
phương thức sản xuất hiện đại”
Trong phạm vi của việc sử dụng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp
công nhân có hai đặc trưng cơ bản:
=> Phương thức về lao động của giai cấp công nhân
=> Địa vị của giai cấp công nhân trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
Khái quát hơn thì chúng ta có thể đưa ra một nhận định chung nhất xuất phát từ
nghiên cứu về giai cấp công nhân của nhiều nhà triết học kinh điển:
“Giai cấp công nhân được coi là một tổ chức xã hội ổn định, họ hình thành và
thay đổi theo thời gian cùng với quá trình đi lên của nền công nghiệp hiện đại qua các
giai đoạn lịch sử và với nhịp độ phát triển của lực lượng xã hội có tính chất xã hội hóa
cao.
Giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến trong vật chất và cải
tạo các quan hệ xã hội xong cũng là động lực chính của việc thực hiện bước di chuyển
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”
Nội dung và điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Nội dung:
Giai cấp công nhân hướng đến xu hướng phát triển nền công nghiệp hiện đại và
phương thức sản xuất mới trong tương lai, chính vì vậy về mặt khách quan thì chúng ta
có thể hiểu vì sao giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử:
“Giai cấp công nhân nắm trong tay lá cờ lãnh đạo nhân dân lao động đứng lên
đấu tranh chống lại chế độ tư bản chủ nghĩa và xóa bỏ mọi sự áp bức, bóc lột do chúng
tạo ra để xây dựng nên một xã hội bình đẳng với hình thái của chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản”
Các-Mác và Ăng-ghen tiếp tục bàn về giai cấp công nhân và lần này là sứ mệnh
lịch sử của họ, theo tác phẩm “Chống Đuyrinh”:
=> Giai cấp công nhân bắt buộc phải hoàn thành sứ mệnh lịch sử nếu không thì họ
sẽ bị diệt vọng
=> Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là sự nghiệp giải phóng thế giới
=> Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là một phần lịch sử của giai cấp
vô sản hiện đại
Và cũng theo quan điểm của Các-Mác và Ăng-ghen, quá trình thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân phải trải qua hai giai đoạn:
=> Giai đoạn 1: Giai cấp vô sản trở thành kẻ thống trị và chiếm lấy chính quyền từ
tay nhà nước
=> Giai đoạn 2: Giai cấp vô sản dùng sức mạnh của mình để đánh bại giai cấp tư
sản và cả tư bản nhằm chiếm đoạt toàn bộ những gì chúng đang có và sau đó là sử dụng
bộ máy chính quyền của nhà nước để xây dựng nên một xã hội mới.
Hai giai đoạn này có một mối liên hệ chặt chẽ với nhau, không thể thực hiện được
bước thứ nhất thì giai cấp công nhân không thể thực hiện được thứ hai và bước thứ hai là
điều kiện quan trọng nhất để giúp giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử.
Ngoài ra, giai cấp công nhân cũng cần phải tập hợp được sức mạnh và sự đoàn kết
của mọi tầng lớp trong xã hội để có thể xóa bỏ hoàn toàn xã hội cũ và xây dựng xã hội
mới nhưng đó là một quá trình lịch sử lâu dài có rất nhiều khó khăn.
Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
A, Địa vị về kinh tế và xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê-nin, lực lượng lao động có một vai trò vô
cùng quan trọng trong xã hội và nhất là với nền sản xuất đại công nghiệp đang ngày càng
phát triển và giai cấp công nhân được coi là một thành phần nòng cốt của lực lượng lao
động:
“Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân và người lao
động”
Trong nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân có hai vai trò chính:
=> Chủ thể trực tiếp nhất
=> Sản phẩm căn bản nhất
Ngoài ra thì giai cấp công nhân muốn tồn tại thì phải đáp ứng được một số yêu cầu của
nền sản xuất đại công nghiệp:
=> Giai cấp công nhân chỉ có thể tồn tại khi họ kiếm được việc làm và khả năng lao động
của họ phải làm tăng thêm giá trị tư bản và từ đây thì giai cấp công nhân phải không
ngừng trau dồi kỹ năng lẫn học tập để dần vươn lên nhằm tiến bộ hơn.
Trong nền sản xuất của giai cấp tư bản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân không có
hoặc có rất ít tư liệu sản xuất và có vai trò làm thuê, giai cấp công nhân cũng phải gánh
chịu hết sự rủi ro và ảnh hưởng từ những biến động của thị trường ở nhiều mức độ khác
nhau.
Giai cấp công nhân cũng có sự trái ngược với giai cấp tư bản chủ nghĩa về lợi ích
mà cả hai phe mong muốn đạt được, chúng ta có hiểu rõ hơn như sau:
=> Giai cấp tư bản chủ nghĩa muốn duy trì các chế độ cũ để đàn áp giai cấp công
nhân và các quần chúng lao động
=> Giai cấp công nhân muốn loại bỏ hoàn toàn các chế độ cũ để xây dựng xã hội
mới không còn sự hiện hữu của giai cấp tư bản chủ nghĩa
Trong nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân có nhiều điều kiện để có
thể đoàn kết với chặt chẽ với nhau hơn nhằm chống lại chủ nghĩa tư bản.
B, những đặc điểm chính trị xã hội của giai cấp công nhân
Địa vị kinh tế và xã hội đã tạo ra cho giai cấp công nhân những đặc điểm chính trị
xã hội mà những giai cấp khác không thể có được và đó là bốn đặc điểm sau;
=> Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng vì họ đại biểu cho các
phương thức sản xuất tiên tiến gắn liền với những thành tựu khoa học và công nghệ hiện
đại và được trang bị một lý luận cách mạng có tính khoa học, họ luôn đi đầu trong các
phong trào đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa cách mạng lạc hậu, xây dựng một xã hội mới tiến
bộ và thu hút được rất nhiều các giai cấp và tầng lớp khác tham gia phong trào đấu tranh.
=> Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất
thời đại ngày nay
Lịch sử đã ghi giai cấp tư sản là một giai cấp từng đấu tranh để chống lại chế độ
phong kiến và khi giành được chính quyền thì họ quay ra để tìm cách đàn áp, bóc lột giai
cấp công nhân và nông dân, hai giai cấp đã cùng kề vai sát cánh với họ.
Giai cấp công nhân và giai cấp tư sản là hai giai cấp đối lập trực tiếp và giai cấp
công nhân đã sớm nhận ra là họ phải thực hiện sứ mệnh lịch sử, giải phóng chính mình,
giải phóng toàn bộ xã hội khỏi giai cấp tư sản và xóa bỏ toàn bộ chủ nghĩa tư bản một
cách triệt để.
=> Thứ ba, giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao
Nền sản xuất đại công nghiệp và cuộc sống đô thị tập trung đã góp phần giúp giai
cấp công nhân hình thành ý thức tổ chức kỷ luật lao động và kỷ luật chặt chẽ và ý thức
này chỉ thực sự được gia cố và phát triển lên khi giai cấp công nhân trở thành một lực
lượng đấu tranh chính trị lớn mạnh, có tổ chức rõ ràng và được dẫn dắt bởi một chính
đảng duy nhất là Đảng cộng sản.
Giai cấp công nhân không có ý thức tổ chức kỷ luật cao thì không thể thực hiện
được sứ mệnh lịch sử của mình là chống lại giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới.
=> Thứ tư, giai cấp có bản chất quốc tế
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin thì giai cấp tư sản là một lực lượng quốc tế vì họ
không chỉ bóc lột giai cấp công nhân ở chính đất nước của mình mà còn ở nhiều nước
thuộc địa khác và đây cũng được coi là một xu thế khách quan của thời đại. Nhiều sản
phẩm không phải do một nước sản xuất ra mà còn là một kết quả lao động của nhiều quốc
gia, vì vậy mà giai cấp công nhân không chỉ tổ chức các phong trào đấu tranh trong một
nước mà còn là trên phạm vi thế giới để liên kết với các phong trào đấu tranh khác nhằm
tạo thành liên minh quốc tế nhằm xóa bỏ toàn bộ chủ nghĩa tư bản trên toàn thế giới.

C17. Trình bày quy luật ra đời của Đảng cộng sản, vai trò của Đảng cộng sản
với việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Khái niệm Đảng cộng sản:
Địa vị kinh tế xã hội quyết định việc giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử
của họ nhưng giai cấp công nhân cũng cần đến một vài nhân tố chủ quan và chính từ đây
thì sự ra đời của Đảng cộng sản chính là nhân tố chủ quan giữ vai trò quyết định nhất để
đảm bảo cho giai cấp công nhân có thể thực hiện sứ mệnh ấy.
Đảng cộng sản được coi là một chính đảng đầu tiên của giai cấp công nhân và
chính đảng này nắm giữ nhiều vai trò như là một đội tiên phong, cơ quan tham mưu, tổ
chức vững mạnh về lý luận chính trị, tư tưởng và luôn trung thành với lợi ích của giai cấp
công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động và cả một dân tộc.
Đảng cộng sản lấy học thuyết Mác-Lênin làm kim chỉ nam cho hành động của
mình và coi trọng nguyên tắc cơ bản nhất dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ.
Như vậy, Đảng cộng sản có nguồn gốc từ giai cấp công nhân và cũng không thể
tách rời khỏi giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động và cả một dân tộc.
Quy luật ra đời của Đảng cộng sản:
Sự thâm nhập của Chủ nghĩa Mác-Lênin vào đời sống hằng ngày và các phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân đã manh nha dẫn đến việc hình thành một chính
đảng mới, theo như Lê-nin đã nhận định:
“Đảng cộng sản là sự kết hợp của Chủ nghĩa Mác-Lênin với các phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân”
Trên thế giới thì sự kết hợp ấy lại diễn ra theo nhiều cách tùy vào điều kiện và
hoàn cảnh của từng nước, nhất là với các nước thuộc địa lẫn nửa thuộc địa thì Đảng cộng
sản được coi là một sự kết hợp của Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân và các phong trào yêu nước.
Đảng cộng sản ra đời đã đánh dấu bước nhảy vọt của Giai cấp công nhân từ phong
trào đấu tranh tự phát lên tự giác với sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, điều này cũng dẫn
đến việc giai cấp công nhân tiếp tục đấu tranh nhằm tiến đến việc loại bỏ hoàn toàn chủ
nghĩa tư bản đã và giai cấp công nhân chuyển sang sử dụng một hình thức mới là phong
trào đấu tranh chính trị.
Vai trò của Đảng cộng sản trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân:
Đảng cộng sản được coi là nhân tố chủ quan đầu tiên quyết định sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân, lịch sử đã chứng minh rằng giai cấp công nhân không thể phát
động các phong trào đấu tranh chống lại giai cấp tư sản nếu không có sự lãnh đạo của
một chính đảng và đó sẽ chỉ là các phong trào đấu tranh tự phát vì quyền lợi kinh tế chứ
không phải là các phong trào đấu tranh tự giác vì chính trị cho nên chính vì vậy mà sự
lãnh đạo của Đảng luôn quyết định tất cả.
Đảng cộng sản và giai cấp công nhân luôn có sự thống nhất nhưng Đảng cộng sản
lại có trình độ lý luận và tổ chức cao hơn giai cấp công nhân và có đủ khả năng để lãnh
đạo giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động và cả một dân tộc đứng lên thực
hiện sứ mệnh lịch sử.

C18. Khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa và nguyên nhân bùng nổ của
cách mạng xã hội chủ nghĩa
Khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa:
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng hướng đến mục tiêu đánh bại
chế độ tư bản chủ nghĩa lỗi thời và thay chế chúng bằng chế độ xã hội chủ nghĩa nhằm
xây dựng nên một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh do giai cấp công nhân lãnh đạo
cùng với quần chúng nhân dân lao động.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu theo hai nghĩa:
=> Nghĩa hẹp, cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng chính trị được đúc
kết bằng việc giai cấp công nhân cùng với quần chúng nhân dân lao động giành được
chính quyền và thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô sản, một nhà nước của chính giai
cấp côn nhân và quần chúng nhân dân lao động.
=> Nghĩa rộng, cách mạng xã hội chủ nghĩa trải qua hai thời kỳ, thời kỳ đầu tiên là
thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản và thời kỳ thứ hai là giai cấp công nhân cùng
quần chúng nhân dân lao động sử dụng nhà nước chuyên chính vô sản để cải tạo xã hội
cũ và xây dựng nên xã hội mới về mọi mặt nhằm thực hiện các thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản.
Nguyên nhân bùng nổ của cách mạng xã hội chủ nghĩa:
Nguyên nhân bùng nổ của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa xuất phát từ mâu
thuẫn gay gắt giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ
sản xuất cũ đã trở nên lỗi thời.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa không thuận theo tự nhiên mà diễn ra mà bắt
đầu từ lúc giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động khi họ đã có đủ điều kiện
để tự giác đứng lên tổ chức các phong trào đấu tranh để xây dựng xã hội mới.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa giành thắng lợi được hay không thì tùy vào cách
mà giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động chớp lấy thời cơ cách mạng.
Khái quát chung, Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa bùng nổ do nguyên nhân sâu
xa từ mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất có tính xã hội hóa cao với lực lượng sản
xuất có tính tư nhân của tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất cho nên chính vì vậy mà
chừng nào còn duy trì được quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thì Cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa vẫn sẽ mãi tồn tại.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một yếu tố khách quan trong tiến trình phát
triển của lịch sử nhân loại và trong giai đoạn hiện nay thì giai cấp công nhân đang gặp
phải rất nhiều khó khăn rất lớn cho nên Cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa có điều
kiện để nổ ra.
C19. Trình bày tính tất yếu và đặc điểm của thời kỳ quá độ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội.
Để thực hiện quá trình xã hội của chủ nghĩa tư bản chuyển hóa thành xã hội của
chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng chính là chủ nghĩa xã hội cần phải trải qua một bước
di chuyển quá độ nhất định.
Tính tất yếu của bước di chuyển quá độ được nhìn nhận từ các căn cứ sau:
- Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội có sự khác nhau về bản chất.
- Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trong nền sản xuất đại công nghiệp có
trình độ cao.
- Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng
chủ nghĩa tư bản vì chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa.
- Bốn là, xây dựng xã hội chủ nghĩa xã hội là một công cuộc mới mẻ, khó khăn,
phức tạp, cần phải có thời gian để giai cấp công nhân và tầng lớp nhân dân lao động làm
quen dần với điều này,
Bước di chuyển quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh
tế xã hội khác nhau có thể kéo dài hơn hoặc ngắn hơn khác nhau.
Đặc điểm và thực chất của quá trình thực hiện bước di chuyển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội:
Đăc điểm nổi bật nhất của quá trình thực hiện bước di chuyển quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại của những tàn dư còn đọng lại từ xã hội cũ bên
cạnh những nhân tố mới, chúng tồn tại trong một mối quan hệ vừa có sự thống nhất và
vừa có sự đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội.
- Một là, trong lĩnh vực kinh tế, quá trình thực hiện bước di chuyển quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội luôn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần trong một
hệ thống quản lý kinh tế thống nhất.
- Hai là, trong lĩnh vực chính trị, quá trình thực hiện bước di chuyển quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội luôn có sự xuất hiện những giai cấp xã hội đa dạng,
phức tạp.
- Ba là, trong lĩnh vực tư tưởng và văn hóa, quá trình thực hiện bước di chuyển
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội luôn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn
hóa khác nhau.
C20. Trình bày những đặc trưng cơ bản của xã hội của xã hội chủ nghĩa
Xã hội của xã hội chủ nghĩa (chủ nghĩa xã hội ở trong giai đoạn thấp nhất của chủ
nghĩa cộng sản) là một xã hội có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, mọi yếu tố liên quan đến cơ sở vật chất và kỹ thuật của xã hội xã hội
chủ nghĩa đều liên quan đến nền đại công nghiệp được xây dựng nên từ nền tảng chính là
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội đã xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân của tư bản chủ nghĩa và
thiết lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Thứ ba, xã hội xã hội chủ nghĩa được coi là một chế độ xã hội tạo ra cách tổ chức
lao động và kỷ luật lao động mới.
Thứ tư, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội thực hiện theo nguyên tắc
phân phối theo lao động và đây được coi là nguyên tắc cơ bản nhất.
Thứ năm, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà ở đó nhà nước mang bản chất
của giai cấp công nhân, có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
Thứ sáu, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội hướng đến mục tiêu giải phóng con
người khỏi ách áp bức, bóc lột, thực hiện bình đẳng xã hội và tạo điều kiện cho con người
phát triển.
C21. Trình bày tính tất yếu, nội dung, nguyên tắc của liên minh giữa giai cấp công
nhân giai cấp nông dân với các giai cấp khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tính tất yếu:
Liên minh công – nông – trí thức vừa là một quy luật khách quan vừa là vấn đề
mang tính chiến lược của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là ở những nước
nông nghiệp lạc hậu.
Tính tất yếu của liên minh công – nông – trí thức được thể hiện ở những cơ sở
khách quan của liên minh này.
Liên minh này là sự thống nhất những lực lượng chính trị xã hội cơ bản nhất của
cách mạng, là nền tảng vững chắc của nhà nước xã hội chủ nghĩa, đảm bảo được vai trò
lãnh đạo của giai cấp công nhân, là diều kiện quyết định thắng lợi của công cuộc cải tạo
và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Liên minh công – nông – trí thức xuất phát từ mối liên hệ tự nhiên gắn bó và sự
thống nhất những lợi ích căn bản của các giai cấp và tầng lớp trong liên minh, sự thống
nhất ấy do bản chất của chủ nghĩa xã hội quy định.
Liên minh công – nông – trí thức là sự thể hiện về mặt xã hội của sự gắn bó thống
nhất giữa công nghiệp, nông nghiệp và khoa học công nghệ trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Nội dung:
Liên minh chính trị:
Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, mục tiêu mà liên minh công-nông-trí
thức nhắm đến là giành được chính quyền về tay giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân
dân lao động.
Liên minh công-nông-trí thức trở thành cơ sở vững chắc cho nhà nước xã hội chủ
nghĩa và tạo thành nòng cốt quan trọng để thực hiện các khối liên minh rộng rãi khác với
các giai cấp khác trong mặt trận thống nhất
Liên minh kinh tế:
Đây là một nội dung quan trọng, theo Lê-nin thì trước đó liên minh công-nông-trí
thức trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền tập trung vào liên minh về quân sự và sau
khi bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội thì tập trung vào liên minh về kinh tế.
Thực hiện liên minh kinh tế là luôn phải kết hợp đúng đắn lợi ích giữa hai giai cấp,
đảm bảo lợi ích của nhà nước, xã hội, quan tâm lợi ích của giai cấp nông dân và sự kết
hợp đúng đắn này cũng góp phần biến liên minh kinh tế trở thành động lực xong vừa trở
thành lực cản đối với sự phát triển xã hội
Tư tưởng văn hóa:
Một là, liên minh công-nông-trí thức phải tích cực học tập và trau dồi kiến thức
nhằm nâng cao tư tưởng văn hóa để xây dựng chủ nghĩa xã hội trên nền tảng của nền sản
xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Hai là, liên minh công-nông-trí thức phải tích cực học cực học tập và trau dồi kiến
thức nhằm nâng cao tư tưởng văn hóa để phát triển các quan hệ hữu nghị, tương trợ, giúp
đỡ lẫn nhau giữa con người với con người, dân tộc với dân tộc.
Ba là, liên minh công-nông-trí thức phải tích cực học cực học tập và trau dồi kiến
thức nhằm nâng cao tư tưởng văn hóa để hiểu biết hơn về chính sách, pháp luật để tham
gia quản lý kinh tế, xã hội, nhà nước.
Nguyên tắc:
Liên minh công-nông-trí thức muốn xây dựng được khối liên minh vững chắc
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần đảm bảo được ba nguyên tắc:
- Nguyên tắc 1, phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.
- Nguyên tắc 2, phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện.
- Nguyên tắc 3, phải đảm bảo kết hợp đúng đắn các lợi ích.
C21. Trình bày khái niệm và bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Khái niệm:
Trong một xã hội có giai cấp và nhà nước thì quyền lực của nhân dân được thể chế
hóa bằng chế độ nhà nước với một hệ thống pháp luật đặc trưng xong từ khi xã hội có
giai cấp và trở nên dân chủ hơn thì chuyển qua hình thái nhà nước là tổ chức nhà nước
mới với tên gọi là “chính thể dân chủ” hoặc “nền dân chủ”.
Đây được coi là một hình thái nhà nước gắn liền với bản chất và tính chất của nhà
nước, là hình thái được xác định trong điều kiện lịch sử cụ thể của một xã hội có giai cấp
và hình thái này do giai cấp thống trị lập ra và được thể chế hóa bằng pháp luật.
Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa
Theo chủ nghĩa Mác-lênin thì hình thái nhà nước chuyên chính vô sản và hình thái
nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa về căn bản là có sự thống nhất, cụ thể là ngay từ đại
hội VII năm 1986 thì Đảng ta đã thống nhất hình thái nhà nước chuyên chính vô sản với
hình thái nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn phải thực hiện nội dung cơ bản
của hình thái nhà nước chuyên chính vô sản vì Đảng ta quan niệm rằng:
“Hình thái nhà nước chuyên chính vô sản biểu trưng cho một đất nước do toàn
thể nhân dân lao động làm chủ dưới sự quản lý của nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng”.
Về bản chất chính trị:
Bản chất chính trị của hình thái nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện qua
các phong trào đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân với sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản nhưng giai cấp công nhân không hề đấu tranh vì quyền lợi của mình mà là vì các tầng
lớp nhân dân lao động.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ rằng:
“Quá trình xây dựng chủ nghĩa hội thì bao nhiêu quyền lợi, sức mạnh, quyền lực
đều vì nhân nhân và nhà nước chủ nghĩa xã hội hay chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa
cũng đều thuộc về nhân dân, do dân và vì dân”
Hình thái nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa luôn tạo điều kiện cho các tầng lớp
nhân dân lao động tham gia công việc nhà nước do vậy hình thái này cũng mang bản chất
của giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.
Về bản chất kinh tế:
Hình thái nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu để đáp ứng các
điều kiện ngày càng cao của lực lượng sản xuất với sự phát triển của khoa học công nghệ
hiện đại để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của các tầng lớp nhân dân lao động.
Bản chất kinh tế của hình thái nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa có thể khác so
với bản chất kinh tế của các hình thái nhà nước khác cũng như toàn bộ nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa nhưng nó cũng mang tính kế thừa và phát triển lên từ các thành tựu của nhân
loại qua các giai đoạn lịch sử.
Về bản chất tư tưởng, văn hóa:
Hình thái nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy học thuyết Mác-Lênin làm kim
chỉ nam và kế thừa các tinh hoa về tư tưởng, văn hóa của nhân loại và đồng thời đời sống
tư tưởng văn, hóa của hình thái nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng rất phong phú,
đa dạng, toàn diện xong trở thành, mục tiêu, động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội bởi
nó phát huy cao độ tính tự giác cùng sự sáng tạo không ngừng của các tầng lớp nhân dân
lao động.
Câu 23. Trình bày khái niệm dân tộc và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác -
Lênin trong giải quyết vấn đề dân tộc.
Khái niệm dân tộc
Dân tộc là một hình thức tổ chức cộng đồng người có tính chất ổn định được hình
thành qua các giai đoạn lịch sử của một đất nước, trước dân tộc là các thị tộc, bộ tộc, bộ
lạc.
Khái niệm dân tộc được hiểu theo hai nghĩa:
Nghĩa thứ nhất, khái niệm dân tộc được dùng để chỉ cộng đồng người cụ thể có
nhiều mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ chung và
trong sinh hoạt văn hóa có nhiều nét đặc thù tạo nên sự khác biệt so với những cộng đồng
khác và xuất hiện sau thị tộc, bộ tộc, bộ lạc xong thể hiện thành ý thức tự giác của các
thành viên trong cộng đồng đó.
Nghĩa thứ hai, khái niệm dân tộc được dùng để chỉ cộng đồng người ổn định và
bền vững hợp thành một bộ phận của một quốc gia có lãnh thổ chung, có một nền kinh tế
thống nhất, có ngôn ngữ chung, có truyền thống văn hóa, truyền thống đấu tranh chung
trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin trong giải quyết vấn đề dân tộc
Nguyên tắc thứ nhất là dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Quyền bình đẳng dân tộc là mục tiêu trong các phong trào đấu tranh của các dân
tộc trong các giai đoạn lịch sử.
Quyền bình đẳng dân tộc đảm bảo cho các dân tộc dù ở trong bất cứ điều kiện hay
hoàn cảnh nào thì cũng có mọi quyền được phát triển như nhau.
Quyền bình dân tộc chỉ được duy trì khi các dân dộc đứng lên đấu tranh chống lại
các thế lực lớn như chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chủ
nghĩa phát xít mới.
Nguyên tắc thứ hai là dân tộc được quyền tự quyết:
Quyền tự quyết là quyền được làm chủ của mỗi dân tộc và cũng quyền được tự
quyết trên con đường phát triển trong nhiều lĩnh vực khác nhau của mọi dân tộc.
Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do phân lập và quyền tự nguyên liên hiệp với
các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng.
Quyền tự quyết được xem xét để giải quyết trên cơ sở phải đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân là ủng hộ các phong trào đấu tranh tiến bộ, kiên quyết đấu
tranh chống lại những âm mưu toan tính lợi dùng quyền tự quyết để can thiệp vào nội bộ
các nước nhằm chia rẽ mọi dân dộc.
Nguyên tắc thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc:
Đây là tư tưởng và nội dung cơ bản trong bản “Cương lĩnh dân tộc” của Lênin, nó
thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, phong trào công nhân và phản ánh tính
thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc giải phóng giai cấp với giải phóng nhân
loại.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin là một bộ phận trong cương lĩnh
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách dân tộc của
các Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Câu 24. Trình bày khái niệm tôn giáo, những nguyên nhân tồn tại của tôn
giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Khái niệm tôn giáo:
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội trong lịch sử nhân loại và nó gắn liền với sự
phát triển của cộng đồng loài người trong hàng ngàn năm lịch sử.
Tôn giáo còn được biết đến với tư cách là hình thái ý thức xã hội phản ánh sự
hoang đường và sự hư ảo trong hiện thực khách quan và là sản phẩm của con người với
tư cách là một hiện tượng xã hội.
Tôn giáo ra đời từ nhiều nguồn gốc khác nhau, nó hoàn thiện và biến đổi cùng với
sự phát triển của lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị.
Những nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội:
Trong tiến hình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội chủ nghĩa, tôn giáo vẫn
luôn luôn tồn tại bởi năm nguyên nhân chính sau:
- Nguyên nhân nhận thức:
Trong tiến hình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội chủ nghĩa vẫn còn có
nhiều hiện tượng xã hội và tự nhiên mà khoa học chưa thể giải thích được trong khi trình
độ dân trí vẫn còn thấp.
Nhân dân và nhân dân xã hội chủ nghĩa luôn nghĩ mình bị ảnh hưởng bởi sức
mạnh tự phát từ chính những hiện tượng đó nên một bộ phận trong bọn họ đi tìm sự an ủi,
che chở từ các thế lực siêu nhiên như Thần linh, Thánh, Phật và tôn giáo tất yếu trở thành
tinh thần của một thế giới không có tinh thần.
- Nguyên nhân kinh tế:
Trong tiến hình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội chủ nghĩa vẫn còn tồn
tại nền kinh tế nhiều thành phần kinh tế với nhiều tầng lớp và giai cấp trong xã hội và
luôn diễn ra nhiều sự bất bình đẳng, tách biệt khá lớn về đời sống tinh thần, vật chất giữa
con người với con người trên nhiều lĩnh vực.
Những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên vẫn còn tác động mạnh mẽ đến con người và
làm cho con người dễ trở nên thụ động nên họ phải nhờ cậy và cầu mong vào các thế lực
siêu nhiên.
- Nguyên nhân tâm lý:
Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử của nhân loại và trở thành niềm tin, lối
sống, phong tục tập quán, tình cảm của một bộ phận đông đảo quần chúng nhân dân qua
nhiều thế hệ đến mức trở thành một kiểu sinh hoạt văn hóa tinh thần đặc trưng không thể
thiếu trong cuộc sống hằng ngày.
- Nguyên nhân chính trị xã hội:
Tôn giáo có những nguyên tắc phù hợp với chủ nghĩa xã hội và với chính sách,
chủ trương, đường lối của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và tôn giáo có thể biến đổi để thích
nghi với nhiều xu hướng khác nhau để đáp ứng được mọi nhu cầu của nhân dân.
- Nguyên nhân văn hóa:
Tôn giáo đã đáp ứng được phần nào nhu cầu về văn hóa tinh thần của nhân dân
trong một mức độ nhất định và có ý nghĩa trong giáo dục, đạo đức, phong cách, lối sống
của cá nhân trong cộng đồng.
Kết luận:
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa không sử dụng tôn giáo như một công cụ để thống trị
về mặt tinh thần đối với nhân dân và củng cố địa vị của giai cấp công nhân.
- Đối với xã hội chủ nghĩa thì tôn giáo còn được coi là một yếu tố trong nét sinh
hoạt truyền thống của nhân dân.
- Nhân dân theo tôn giáo hay không theo tôn giáo đều được hưởng quyền bỉnh
đẳng như nhau.
- Cùng với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, tôn giáo cũng có những biến đổi
cùng với sự thay đổi của các điều kiện kinh tế - xã hội.
- Nhân dân theo tôn giáo trở thành một phần chủ thể của xã hội khi đời sống vật
chất xã hội của họ được nâng cao, trên cơ sở đó họ phát triển về dân trí và thoát khỏi mê
tín dị đoan để có đời sống tinh thần lành mạnh hơn.
- Nhân dân theo tôn giáo ngày càng có điều kiện tham gia đóng góp vào công cuộc
xây dựng đất nước, tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa được khơi dậy, tạo nên sức mạnh
cùng toàn dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Câu 25. Các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê-nin trong việc giải
quyết vấn đề tôn giáo.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội có tính nhạy cảm và vô cùng phức tạp nên
chính từ đây thì việc giải quyết những vấn đề về tôn giáo cần phải xem xét để được thực
hiện một cách có nguyên tắc với những phương thức linh hoạt cụ thể theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác-lênin:
Quan điểm thứ nhất, giải quyết những vấn đề về tôn giáo trong đời sống xã hội
phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.
Quan điểm thứ hai, giải quyết những vấn đề về tôn giáo trên cơ sở tôn trọng quyền
tự do, tự quyết và bình đẳng của những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo.
Quan điểm thứ ba, giải quyết những vấn đề về tôn giáo trên cơ sở đoàn kết tôn
giáo của những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo để tạo cơ hội cho họ tham gia
xây dựng và bảo vệ đất nước cũng như nghiêm cấm các hành vi coi tôn giáo là công cụ
để tạo ra sự chia rẽ lẫn nhau.
Quản điểm thứ tư, giải quyết những vấn đề về tôn giáo trên cơ sở phân biệt rõ hai
mặt chính trị và tư tưởng.
Quan điểm thứ năm, giải quyết những vấn đề về tôn giáo trên cơ sở của những
quan điểm cụ thể về lịch sử.
Kết luận:
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin thì nhà nước xã hội chủ nghĩa cần chú ý đến tình hình
thực tiễn để đưa ra quan điểm và phương thức ứng xử phù hợp trong từng trường hợp cụ
thể khi tiến hành giải quyết các vấn đề tôn giáo.

You might also like