You are on page 1of 22

HỌ VÀ TÊN: NGUYỄN QUANG HƯNG ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN

LỚP: H492 MÔN: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
(PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ)
Một số nội dung thảo luận phần Kinh tế chính trị

1. Hai thuộc tính của hàng hoá, liên hệ hàng hoá sản xuất ở Việt Nam.
2. Quy luật giá trị và ý nghĩa của quy luật giá trị trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
3. Mâu thuẫn công thức chung của tư bản và lý luận hàng hoá sức lao động.
4. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, so sánh và rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu.
5. Thực chất của tích luỹ tư bản, quan hệ giữa tích luỹ, tích tụ, tập trung tư
6. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản hiện nay.
7. Tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.
8. Những nội dung cơ bản về vấn đề thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Câu 1: Trả lời


Hai thuộc tính của hàng hoá, liên hệ hàng
hoá sản xuất ở Việt Nam Khái niệm hàng hoá.
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi,
mua bán.
2. Hai thuộc tính của hàng hoá.
a) Giá trị sử dụng:
- Là công dụng của vật phẩm đó có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
Ví dụ: thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng
gạo có giá trị sử dụng nuôi sống con người
Sách báo có giá trị sử dụng giải trí
Vải có giá trị sử dụng thẩm mỹ
- Giá trị sử dụng do những thuộc tính tự nhiên của vật phẩm quy định, không lệ thuộc vào chế độ
xã hội. Khi xã hội càng phát triển thì xã hội càng tìm ra càng nhiều giá trị sử dụng cho cùng một vật
phẩm. (than đá dùng đun nấu, nhưng khi xã hội phát triển than đá còn dùng trong công nghiệp hoá chất)
- Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn.
- Trong nền kinh tế hàng hoá giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi.
- Đối với hàng hoá dịch vụ thì giá trị sử dụng của nó có đặc điểm là không có hình thái vật thể quá
trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời do đó nó không tích luỹ hay dự trữ.
b) Giá trị hàng hoá.
Muốn hiểu được giá trị là gì cần phân tích giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác.
Ví dụ:1 Cái rừu = 20 kg gạo
Hàng hoá gạo và rừu khác nhau nhưng có thể trao đổi với nhau được vì giữa chúng có một cơ sở
chung- rừu và gạo đều là sản phẩm của lao động. Trong quá trình sản xuất hàng hoá người lao động phải
tiêu phí sức lao động của mình. Người thợ rèn mất 5giờ lao động để sản xuất ra rừu và người nông dân
mất 5giờ lao động để sản xuất ra gạo. Vì vậy, thực chất của sự trao đổi là trao đổi lao động đã hao phí.
Vậy giá trị hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá.
Đặc điểm:
- Giá trị của hàng hoá biểu hiện mối quan hệ xã hội của những người sản xuất hàng hóa. Vì thế giá
trị hàng hoá là một phạm trù lịch sử chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hoá.
- Giá trị là nội dung của hàng hoá còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện bề ngoài của giá trị. Cái
bề ngoài có thể thay đổi còn bên trong không thể thay đổi.
c) Mối quan hệ giữa giá trị và giá trị sử dụng.
- Giá trị và giá trị sử dụng thống nhất trong một hàng hoá, nhưng nó lại phản ánh mối quan hệ giữa
sản xuất và tiêu dùng trong xã hội. Người sản xuất quan tâm đến giá trị, người tiêu dùng quan tâm đến
giá trị sử dụng.
- Giá trị và giá trị sử dụng là hai thuộc tính của hàng hoá được tạo ra trong sản xuất, nhưng khi thực
hiện thì khác nhau về không gian và thời gian.
+ Giá trị được tạo ra trong sản xuất nhưng thực hiện trên thị trường.
+ Giá trị sử dụng được tạo ra trong sản xuất nhưng thực hiện trong tiêu dùng.
3. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá.
a) Lao động cụ thể: Là lao động có ích với hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất
định.
- Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng, do đó lao động cụ thể càng nhiều loại thì giá trị sử dụng
càng phong phú.
- Mọi lao động cụ thể đều có thể khác nhau về mục đích, phương pháp, đối tượng, kết quả lao động
riêng.
- Lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn, tuy nhiên hình thức của lao động cụ thể có thể thay đổi, phụ
thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động.
b) Lao động trừu tượng. Là lao động của người sản xuất hàng hoá không kể đến hình thức biểu
hiện cụ thể của nó để quy về cái chung đồng nhất, đó là sự hao phí sức lao động, tiêu hao sức bắp thịt,
thần kinh của người sản xuất hàng hoá
- Lao động trừu tượng tạo nên giá trị hàng hoá. Chất của hàng hoá là lao động trừu tượng.
- Lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử chỉ tồn tại trong sản xuất hàng hoá. Bởi vì chỉ trong sản
xuất hàng hoá mới đặt ra yêu cầu phải quy các lao động cụ thể vốn không so sánh được với nhau thành
một thứ lao động đồng nhất có thể so sánh với nhau.
Vậy: Xét lao động cụ thể là xem lao động đó tiến hành như thế nào, sản xuất ra cái gì. Lao động trừu
tượng là tốn bao nhiêu sức lực, hao phí bao nhiêu thời gian lao động. Cần thấy rằng không phải có hai
thứ lao động được kết tinh trong một hàng hoá mà chí có lao động của ngươì sản xuất hàng hoá. Nhưng
lao động đó có tính 2 mặt: 1 mặt là lao động cụ thể và một mặt là lao động trừu tượng.
c) Mâu thuân cơ bản của sản xuất hàng hoá giản đơn: Lao động tư nhân: là lao động riêng lẻ của
người sản xuất hàng hoá do tính chất tự chủ mà mỗi người sản xuất lựa chọn sản xuất cái gì, sản xuất như
thế nào.
Lao động xã hội: là toàn bộ lao động của mỗi người sản xuất riêng lẻ nằm trong hệ thống phân công lao
động xã hội.
Mâu thuẫn giưa lao động tư nhân và lao động xã hội
- Sản phẩm do người sản xuất hàng hoá cá biệt tạo ra có thể ăn khớp hay không ăn khớp với nhu cầu
xã hội, cần thiết hay không cần thiết cho xã hội, không đủ cung cấp hay cũng có thể vượt quá nhu cầu xã
hội.
- Mức hao phí lao động cá biệt của người sản xuất hàng hoá có thể cao thấp khác nhau so với mức
tiêu hao mà xã hội có thể chấp nhận được. Nếu hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức xã hội chấp nhận
thì hàng hóa không bán được hoặc ngược lại thì hàng hóa sẽ bán được lãi cao. Do đó, tất yếu diễn ra sự
phân hoá xã hội, cạnh tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng hóa để giành giật thị trường, lợi
nhuận. Vì thế mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội còn chứa đựng khả năng sản xuất
thừa.
3. Lượng giá trị hàng hoá và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
a. Thước đo lượng giá trị hàng hoá
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất một loại hàng hoá nào đó
trong đièu kiện sản xuất bình thường của xã hội với trình độ thành thạo trung bình và cường độ lao động
trung bình. Hay nói cách khác đây là mức hao phí trung bình của xã hội.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là đại lượng không cố định luôn thay đổi phụ thuộc vào năng
xuất lao động và lao động giản đơn, lao động phức tạp
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng gía trị
 Năng xuất lao động: là hiệu xuất của lao động được biểu hiện bằng số lượng sản phẩm tạo ra trên một
đơn vị thời gian hoặc là thời gian cần thiết để sản xuất ra 1 đơn vị sản phẩm.
Các nhân tố ảnh hưởng đến năng xuất lao động.
+Tư liệu sản xuất: trình độ máy móc thiết bị, chất lượng nguyên vật liệu…
+ Người lao động: trình độ khéo léo nhanh nhẹn…
+ Trình độ quản lý, môi trường thể chế, chính sách…
Năng xuất LĐ tăng: +Số lượng sản phẩm tạo ra trong 1đơn vị thời gian sẽ tăng.
+ Giá trị của 1 đơn vị sản phẩm giảm.
+Tổng giá trị sản xuất trong 1đơn vị thời gian không đổi
- Năng suất lao động tỷ lệ nghịch với lượng giá trị hàng hoá. Tăng năng xuất lao động để giảm giá trị
hàng hoá nhờ đó mà tăng khả năng cạnh tranh.
* Cường độ lao động: là mức hao phí lao động trên1 đơn vị thời gian nó phản ảnh mức độ khẩn trương
của lao động.
Cường độ LĐ tăng : Số sản phẩm tạo ra trong 1 đơn vị thời gian tăng
Mức hao phí lao động / đơn vị sản phẩm không đổi
Giá trị của 1đơn vị sản phẩm không thay đổi
 Lao động giản đơn, lao động phức tạp
Lao động giản đơn: là sự hao phí lao động một cách thông thường mà bất kỳ 1 lao động bình
thường nào không cần phải được đào tạo cũng có thể thực hiện được.
Lao động phức tạp: Là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động lành nghề
- Trên thị trường sản phẩm đem ra trao đổi có thể là kết quả của lao động giản đơn hoặc lao động
phức tạp. Trong cùng một đơn vị thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn.
Vì vậy, trong quá trình trao đổi, thị trường sẽ tự phát huy đổi các lao động phức tạp thành lao động giản
đơn trung bình cần thiết.
c. Cấu thành lượng giá trị hàng hoá
Cơ cấu giá trị: Giá trị của hàng hoá gồm hai bộ phận:
+ Giá trị cũ (C): giá trị của tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm mới.
+ Giá trị mới (V+m): do lao động sống tạo ra
G = C+ (V+m)
Vậy: lao động cụ thể có vai trò bảo toàn, chuyển dịch giá trị những TLSX vào giá trị sản phẩm hàng hoá,
làm hình thành giá trị cũ C. Còn lao động trừu tượng tạo nên giá trị mới (V+m). Cần chú ý, lao động tạo
nên giá trị là lao động trừu tượng, phần giá trị do nó tạo ra là giá trị mới (V +m).
Câu 2 : - Nội dung qui luật giá trị: Quy luật giá trị là quy luật nội dung quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và
Quy luật giá trị và ý nghĩa của quy luật giá trao đổi hàng hoá. Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hoá dựa trê trên cơ sở giá trị của nó,
trị trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt
Nam. tức là trên cơ sở hao phí lao động xã hội càn thiết. Cụ thể là:
+ Trong sản xuất: Quy luật giá trị đòi hỏi người sản xuất phải căn cứ vào hao phí lao động xã hội
cần thiết, luôn tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống thấp hơn hoặc bằng hao phí lao động xã
hội cần thiết.
+ Trong trao đổi: quy luật giá trị hướng việc trao đổi phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá.
- Cơ chế tác động của Quy luật giá trị đối với nền kinh tế hàng hoá là thông qua sự biến động lên
xuống của giá cả hang hóa xoay quanh trục giá trị của nó.
- Tác dụng của Quy luật giá trị:
+ Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá thông qua sự lên xuống giá cả, Quy luật giá trị có tác dụng
điều tiết và lưu thông.
Điều tiết sản xuất: điều hòa, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế. Người
sản xuất bỏ ngành có giá cả thấp, đổ xô ngành có giá cả sản xuất cao, làm cho qui mô sản xuất của một
số ngành được mở rộng, một số ngành bị thu hẹp.
Ví dụ: cuối năm 2013 đầu năm 2014, ở Bến Tre, nhiều người dân đã chuyển từ trồng dừa sang tròng bưởi
da xanh, từ đó là diện tích trồng dừa bị thu hẹp lại, diện tích trồng bưởi da xanh tăng.
Điều tiết lưu thông: Sự biến động của giá cả thu hút nguồn hang từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá
cả cao. Như vậy, Quy luật giá trị cũng tham gia vào phân phối các nguồn hàng cho hợp lệ hơn giữa các
vùng.
Ví dụ: ở Bến Tre, khi nhiều ngưởi dân cùng trồng bưởi da xanh thì sản lượng bưởi da xanh tăng dẫn đến
giá cả hạ xuống do đó bưởi da xanh được chuyển đi bán ở các vùng miền khác.
+ Kích thích cải tiến kỹ, thuật, hợp lý hoá sản xuất tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.
Các hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau. Nhưng trên thị trường đều phải
trao đổi theo mức phí lao động xã hội cần thiết. Người sản xuất nào có giá trị cá biệt của hàng hoá thấp
hơn giá trị xã hội thì sẽ có lợi. Vì vậy, mỗi người sản xuất hàng hoá đều tìm cách giãm giá trị cá biệt
hàng hoá hàng hoá của mình xuống dưới mức giá trị xã hội bằng các cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản
xuất để tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt làm cho năng suất lao động xã hội không ngừng
tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giãm xuống.
Ví dụ: trỏng trồng lúa, hao phí lao động cá biệt cao, để giảm hao phí này xuống thì người nông dân áp
dụng cơ giới hóa trong sản xuất, tìm các giống lúa tốt, sử dụng hợp lí các loại thuốc trừ sâu, áp dụng các
biện pháp canh tác (luân canh, xen canh, tăng vụ…) hợp lí.
+ Phân bố những nhà sản xuất hàng hoá thành giàu, nghèo, làm xuất hiejn quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa.
Trong sản xuất hàng hoá, hàng hoá của nhà sản xuất nào có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội thì
người đó có lợi, ngược lại thì bị bất lợi và phá sản. Vì vậy, một số người phát tài, trở nên giàu có, một số
thì trở nên nghèo đói. Từ đó những người giàu trực tiếp mở rộng sản xuất kinh doanh, thuê thêm công
nhân và trở thành tư bản; những người bị phá sản trở thành những người lao động làm thuê.
Như vậy, trong nền kinh tế hàng hóa cần có sự quản lý của nhà nước để phát huy tích cực và hạn chế
những tác dụng tiêu cực của quy luật giá trị.
Ý nghĩa của việc phân tích trên:
+ Xem quy luật giá trị hoạt động trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay là một yếu tố khách
quan
+ Trong quá trình sản xuất cũng như trao đổi hàng hoá phải căn cứ vào thời gian lao động xã hội càn thiết
+ Bản thân quy luật giá trị cũng có tính hai mặt (Tích cực và hạn chế). Đòi hỏi phải nắm bắt và vận dụng
tốt vào diều kiện sản xuất hàng hoá ở nước ta hiện nay.

*Ý nghĩa: Những tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
hết sức to lớn: một mặt chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích
cực phát triển; mặt khác, phân hóa XH thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong XH.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực. Thấy được điều đó, đồng thời
với việc thúc đẩy SXHH phát triển, Nhà nước cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế
những tiêu cực của nó, đặc biệt là trong đk phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
>>Đối với điều tiết SX và lưu thông hàng hóa: cần đề ra các phương hướng và đặt ra các chính sách đặc
biệt về giá cả, điều tiết cung-cầu phù hợp với thị trường, với nhu cầu của người tiêu dùng, mở rộng quy
mô SX các mặt hàng có sức hút lớn, giá cả cao đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho người SX, cho toàn XH,
làm giàu cho đất nước.
>>Đối với việc kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá SX, tăng năng suất LĐ: cần đẩy mạnh CNH-
HDH, áp dụng công nghệ-KH-Kỹ thuật hiện đại, tiên tiến vào SX nhằm nâng cao chất lượng sp, giá cả sp
ngày càng rẻ, mẫu mã ngày càng đẹp, phong phú, đa dạng về chủng loại, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của
người tiêu dùng, ...Bên cạnh đó cần đề ra các chính sách về giá cả, khuyến khích phát triển và đầu tư cho
khoa học-công nghệ, chuyển đổi cơ cấu kinh tế phù hợp,...Các chính sách mở rộng và giao lưu kinh tế
giữa các cá nhân, các vùng, các quốc gia... không chỉ làm cho giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa
phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển mà đs v/c, văn hoá, tinh thần của nd cũng được nâng
cao hơn, phong phú và đa dạng hơn.
>>Đối với sự phân hóa giàu nghèo: Cần thực hiện các chủ trương, chính sách hữu hiệu hơn nữa như đánh
thuế thu nhập cá nhân. Đối với người giàu-thuế càng cao-phù hợp với mức thu nhập họ kiếm được. Đối
với những người nghèo ngoài việc ko thu thế, phải dành cho họ những ưu tiên, những chính sách đãi ngộ
đặc biệt, trợ cấp, khuyến khích họ học tập, phát triển, nâng cao trình độ dân trí, để có thể tiến kịp trình độ
KH-KT hiện đại và hòa nhập với một đất nước CNH-HDH trong tương lai. Bên cạnh đó, nâng cao chất
lượng cs cả về v/c lẫn tinh thần, chủ trương tài trợ và khuyến khích phát triển ở những địa phương,
những gia đình, cá nhân gặp nhiều khó khăn, tạo cơ hội cho họ phát triển, giúp họ có công ăn việc làm ổn
định,...

Câu 3: Trả lời:


Mâu thuẫn công thức chung của tư bản và Công thức chung của tư bản: T – H – T’
lý luận hàng hoá sức lao động. Vì sự vận động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó, dù đó là tư bản
thương nghiệp, tư bản công nghiệp hay tư bản cho vay. Điều này rất dễ dàng nhận thấy trong thực tiễn,
bởi vì hình thức vận động của tư bản thương nghiệp là mua vào để bán ra đắt hơn, rất thích hợp với công
thức trên. Tư bản công nghiệp vận động phức tạp hơn, nhưng dù sao cũng không thể tránh khỏi những
giai đoạn T – H và H – T’. Còn sự vận động của tư bản cho vay để lấy lãi chẳng qua chỉ là công thức trên
được rút ngắn lại T – T’. C.Mác chỉ rõ: “ Vậy T – H – T’ thực sự là công thức chung của tư bản, đúng
như nó trực tiếp thể hiện ra trong lĩnh vực lưu thông”.
+Công thức chung của tư bản:
Phân biệt: tiền thông thường (tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn) và tiền là tư bản (trong lưu thông
của tư bản): tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn, vận động theo cộng thức (1) H-T-H’; tiền là tư bản
vận động theo công thức (2) T-H-T’.
Điểm giống nhau: Cả 2 sự vận động đều do 2 giai đoạn đối lập nhau là mua và bán hợp thành, đều có 2
yếu tố tiền & hàng, đều có 2 người có wan hệ kinh tế với nhau là người mua & người bán. Nhưng đó chỉ
điểm jống nhau về hình thức.
Điểm khác nhau về chất giữa 2 hình thức:
H-T-H’
T-H-T’
Điểm xuất phát & điểm kết thúc của quá trình vận động
Đều là hàng hóa, tiền đóng vai trò trung gian
Đều là tiền, hàng hóa đóng vai trò trung gian
-Trình tự vận động
Bắt đầu là việc bán, kết thúc = việc mua
Bắt đầu = việc mua, kết thúc = việc bán
-Mục đích vận động
Là giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu
Là giá trị hơn nữa là giá trị tăng them
Giới hạn vận động
Có giới hạn
Ko có giới hạn
-tóm lại: công thức (2) phản ánh mục đích vận động là tiền với tư cách là tư bản, nên lượng giá trị sau
quay về phải lớn hơn giá trị ban đầu, vậy công thức vận động đầy đủ của tư bản là T-H-T’, trong đó
T’=T+t, (t là giá trị thặng dư, kí hiệu là m). Như vậy công thức T-H-T’ là công thức chung của tư bản,
vì mọi tư bản đều vận động theo công thức này.
Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản
Lý luận giá trị đã chứng minh rằng: Giá trị của hàng hóa do lao động của những người sản xuất hàng hóa
tạo ra trong sản xuất. Nhưng nhìn vào công thức T-H-T’ người ta dễ lầm tưởng rằng tiền tệ cũng tạo ra
giá trị khi vận động trong lưu thông.
Thực chất thì bản thân tiền, dù ở ngoài hay ở trong lưu thông, cũng không tự lớn lên được. Tiền không
thể sinh ra tiền là điều hiển nhiên.
Còn lưu thông thuần túy, dù diễn ra ở bất cứ hình thức nào, kể cả việc mua rẻ bán đắt, cũng không làm
tăng thêm giá trị, không tạo ra
giá trị thặng dư; ở đây chỉ có sự phân phối lại lượng giá trị có sẵn trong xã hội mà thôi bởi nếu mua rẻ
thứ này thì sẽ lại phải mua đắt
thứ kia; bán đắt thứ này thì lại phải bán rẻ thứ khác, vì tổng khối lượng hàng và tiền trong toàn xã hội ở
một thời gian nhất định là
một số lượng không đổi. Tuy vậy, không có lưu thông cũng không tạo ra được giá trị thặng dư. Do đó,
mâu thuẫn của công thức chung của tư bản là giá trị thặng dư không do lưu thông đẻ ra nhưng lại được
tạo ra thông qua lưu thông. Sở dĩ như vậy vì nhà tư bản tìm được trên thị trường một loại hàng hóa đặc
biệt có khả năng tạo ra giá trị thặng dư cho mình. Đó là hàng hóa sức lao động.
Hàng hóa sức lao động.
Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực của con người, là khả năng lao động của con người. Sức lao
động là yếu tố cơ bản của mọi
quá trình sản xuất. Nó chỉ trở thành hàng hóa khi có hai điều kiện:
Người có sức lao động được tự do thân thể, được quyền làm chủ sức lao động của mình để có thể đi làm
thuê (bán sức lao động).
Họ không có tư liệu sản xuất và của cải khác để sinh sống, buộc phải đi làm thuê, tức là bán sức lao động
của mình. Sức lao động khi trở thành hàng hóa, nó vừa có hai thuộc tính như hàng hóa thông thường vừa
có đặc điểm riêng.
Giá trị hàng hóa sức lao động cũng bằng lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó.
Nhưng việc sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động phải được thực hiện bằng cách tiêu dùng cho cá
nhân. Vì vậy, lượng giá trị hàng hóa sức lao động bằng lượng giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết về
vật chất và tinh thần để nuôi sống người công nhân, gia đình anh ta và chi phí đào tạo công nhân theo
yêu cầu của sản xuất. Vì vậy, giá trị hàng hóa sức lao động phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của
mỗi quốc gia trong từng thời kỳ nhất định.
Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động là công dụng của nó để thỏa mãn nhu cầu người mua là sử dụng
vào quá trình lao động. Khác với hàng hóa thông thường, hàng hóa sức lao động khi được sử dụng, nó
tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Đó chính là nguồn gốc của giá trị thặng dư.
Hàng hóa sức lao động là điều kiện để chuyển hóa tiền tệ thành tư bản. Đây cũng chính là chìa khóa để
giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản. Như vậy, tiền tệ chỉ trở thành tư bản khi nó được
sử dụng làm phương tiện để mang lại giá trị thặng dư cho người có tiền và người có tiền phải tìm được
một loại hàng hóa đặc biệt – hàng hóa sức lao động.
Câu 4: *Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, nâng cao năng suất lao động trong ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt để hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ
so sánh và rút ra ý nghĩa của đó mà tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao
động vẫn như cũ.
việc nghiên cứu. Ta hãy xét một ví dụ:Ngày lao động là 10 giờ, trong đó 5 giờ là thời gian lao động tất yếu và 5 giờ là
thời gian lao đông thặng dư. Nhờ tăng năng suất lao động trong ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt, giá cả
sinh hoạt rẻ hơn dẫn đến giá trị sức lao động cũng bị hạ thấp. Giả sử giá trị sức lao động giảm đi 1 giờ.
Khi đó thời gian lao động tất yếu chỉ còn 4 giờ và thời gian lao động thặng dư tăng lên thành 6 giờ. Khi
đó, tỷ suất giá trị thặng dư tăng từ 100% lên 150%.
Như vậy, bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt và các ngành
sản xuất tư liệu sản xuất phục vụ cho ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt mà giá trị các tư liệu sinh hoạt cần
thiết cho công nhân giảm đi, kéo theo giá trị sức lao động của người lao động giảm đi và đem lại giá trị
thặng dư tương đối cho nhà tư bản mà không phải tăng thời gian lao động hay cường độ lao động.
*Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời
gian lao động tất yếu trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu
không thay đổi.
Ta hãy xét một ví dụ:Ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động cần thiết (t) là 4 giờ, thời gian lao
động thặng dư (t’) là 4 giờ, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 10 đơn vị thì giá trị thặng dư
tuyệt đối là 40 và tỷ suất giá trị thặng dư là
m’ = (t/t’) . 100% = 4/4 . 100% = 100%
Nhưng nếu ta kéo dài ngày lao động thêm 2 tiếng thì t vẫn bằng 4 giờ nhưng thời gian lao động
thặng dư lức này lại là t’= 6. Do đó, giá trị thặng dư tuyệt đối sẽ là 60 đơn vị và tỷ suất giá trị thặng dư sẽ
là:
m’ = 6/4 . 100% = 150%
Do việc tăng thời gian lao động không thể vượt quá giớ hạn sinh lý của công nhân nên khi thời gian
lao động không thể kéo dài thêm được nữa, nhà tư bản sẽ tìm cách tăng cường độ lao động. Về thực chất
thì tăng cường độ lao động cũng tương tự như kéo dài ngày lao động. Vì vậy, tăng thời gian lao động
hoặc tăng cường độ lao động là để sản xuất ra giá trị thăng dư tuyệt đối
*GIÁ TRỊ THẶNG DƯ SIÊU NGẠCH: phần giá trị thặng dư lớn hơn mức bình quân xã hội mà nhà
tư bản cá biệt thu được, nhờ hạ thấp giá trị cá biệt của hàng hoá so với giá trị xã hội của hàng hoá đó.
GTTDSN là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối, cá biệt. Do năng suất lao động cá biệt
cao hơn năng suất lao động xã hội, cho nên giá trị cá biệt của một hàng hoá nào đó thấp hơn giá trị xã hội
của nó, nhưng khi bán hàng hoá, nhà tư bản vẫn bán ngang với giá trị xã hội. Khoản chênh lệch giữa giá
trị xã hội và giá trị cá biệt của hàng hoá tạo nên GTTDSN. Nó là động lực trực tiếp thúc đẩy các nhà tư
bản áp dụng những thành tựu mới của khoa học, kĩ thuật
*So sánh
- Giống nhau
Mục đích : làm tăng giá trị thặng dư và kéo dài thời gian lao động thặng dư
Đều làm tăng tỷ suất giá trụ thặng dư và năng cao trình độ bóc lột của tư bản
- Khác nhau:
PPSX GTTD tuyệt đối
- Tăng thời gian lao động giữ nguyên thời gian lđ cần thiết
- Tăng cường độ lđ
- Bị giới hạn bởi ngày lđ và thể chất tinh thần của người lđ
- Áp dụng trong thời kỳ đầu của CNTB
PPSX GTTD tương đối
- Giảm thời gian lđ cần thiết giữ nguyên thời gian lđ
- Tăng năng suất lao động
- Không bị giới hạn bởi ngày lđ và thể chất tinh thần của người lđ
- Áp dụng trong suốt thời kì của CNTB
Câu 5 : 1. Bản chất của tích lũy tư bản:
Thực chất của tích luỹ tư bản, quan hệ giữa Tư bản là quan hệ sản xuất xã hội được tái sản xuất không ngừng trong chủ nghĩa tư bản. Việc duy trì tư
tích luỹ, tích tụ, tập trung tư bản. bản được thể hiện thông qua tái sản xuất giản đơn tư bản chủ nghĩa.
Tái sản xuất giản đơn tư bản chủ nghĩa là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô như cũ, tức là toàn bộ
giá trị thặng dư đã được nhà tư bản tiêu dùng cho cá nhân. Kết quả nghiên cứu tái sản xuất giản đơn cho
thấy, nguồn gốc của tư bản khả biến là do người công nhân làm thuê ứng trước cho nhà tư bản, công
nhân làm thuê phụ thuộc vào nhà tư bản không những trong mà cả ngoài quá trình sản xuất, giá trị thặng
dư là yếu tố quyết định đối với sự duy trì, bảo tồn tư bản.
Tuy nhiên, tư bản không những được bảo tồn mà còn không ngừng lớn lên, thể hiện thông qua tích lũy tư
bản trong quá trình tái sản xuất mở rộng. Để thực hiện tái sản xuất mở rộng phải biến một bộ phận giá trị
thặng dư thành tư bản bất biến phụ thêm và tư bản khả biến phụ thêm, do đó tích lũy tư bản là tư bản hóa
giá trị thặng dư. Nghiên cứu tái sản xuất mở rộng cho thấy, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá
trị thặng dư, đồng thời đã diễn ra sự chuyển hóa các quy luật sở hữu của nền sản xuất hàng hóa thành các
quy luật chiếm hữu tư bản chủ nghĩa.
2. Quy luật phổ biến của tích lũy tư bản (mối quan hệ giữa tích lũy và tích tụ tập trung tư bản)
- Cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng. Trình độ kỹ thuật của sản xuất tư bản chủ nghĩa thể hiện
thông qua cấu tạo kỹ thuật của tư bản. Cấu tạo kỹ thuật biểu hiện quan hệ tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản
xuất và số lượng sức lao động sử dụng những tư liệu sản xuất đó. Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải
ứng ra những lượng tư bản bất biến và khả biến theo những tỷ lệ nhất định, thể hiện cấu tạo giá trị của tư
bản. Trong quá trình vận động của tư bản, cấu tạo giá trị có thể thay đổi dưới tác động của sự thay đổi
của giá cả các yếu tố sản xuất, hoặc do sự thay đoổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản. Cấu tạo hữu cơ của
tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản được quyết định bởi cấu tạo kỹ thuật của tư bản và phản ánh những sự
thay đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản. Cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, cấu tạo hữu cơ của
tư bản có xu hướng không ngừng tăng lên.
- Tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng. Tích tụ tư bản là việc tăng quy mô tư bản cá biệt bằng tích
lũy của từng nhà tư bản riêng rẽ, nó là kết quả tất yếu của tích lũy. Tích tụ tư bản, một mặt, là yêu cầu
của việc mở rông sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật; mặt khác, sự tăng lên của khối lượng giá trị thặng
dư trong quá trình phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa lại tạo khả năng thực tế cho tích lũy tư bản.
Sự phát triển của tích tụ tư bản thúc đẩy cạnh tranh, dẫn tới xuất hiện hợp nhất một số tư bản nhỏ thành
tư bản cá biệt lớn. Đó là tập trung tư bản. Tập trung tư bản có thể diễn ra bằng con đường tự nguyện hay
cưỡng bức. Trong quá trình tích lũy tư bản, tích tụ và tập trung tư bản luôn thúc đẩy lẫn nhau, có vai trò
to lớn trong việc chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa.
- Tích lũy tư bản dẫn tới quá trình bần cùng hóa giai cấp công nhân làm thuê. Cùng với sự gia tăng quy
mô sản xuất và cấu tạo hữu cơ của tư bản, tư bản khả biến có xu hướng giảm tương đối so với tư bản bất
biến, dẫn tới nguy cơ thừa nhân khẩu dưới các hình thức nhân khẩu thừa lưu động, nhân khẩu thừa tiềm
tàng và nhân khẩu thừa ngưng trệ. Do đó, quá trình tích lũy tư bản có tính hai mặt, một mặt thể hiện tích
lũy sự giàu sang về phía giai cấp tư sản, mặt khác tích lũy sự bần cùng về phía giai cấp công nhân làm
thuê.
Bần cùng hóa giai cấp công nhân làm thuê biểu hiện dưới hai hình thái là bần cùng hóa tương đối và bần
cùng hóa tuyệt đối. Bần cùng hóa tương đối là cùng với đà tăng trưởng lực lượng sản xuất, phần sản
phẩm phân phối cho giai cấp công nhân làm thuê tuy có tăng tuyệt đối, nhưng lại giảm tương đối so với
phần dành cho giai cấp tư sản. Bần cùng hóa tuyệt đối thể hiện sự sụt giảm tuyệt đối về mức sống của
giai cấp công nhân làm thuê. Bần cùng hóa tuyệt đối thường xuất hiện đối với bộ phận giai cấp công
nhân làm thuê đang thất nghiệp và đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê trong các điều kiện kinh
tế khó khăn, đặc biệt trong khủng hoảng kinh tế.
Câu 6 : 1/ Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và xu
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân
hướng vận động của chủ nghĩa tư bản hiện
với sức mạnh của nhà nước tư bản thành một thiết chế và thể chế thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của
nay.
các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản V.I. Lênin chỉ ra rằng: “Bọn đầu sỏ tài chính
dùng một mạng lưới dày đặc những quan hệ lệ thuộc để bao trùm hết thảy các thiết chế kinh tế và chính
trị… đó là biểu hiện rõ rệt nhất của sự độc quyền ấy”. Trong cơ cấu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước, nhà nước đã trở thành một tập thể tư bản khổng lồ. Nó cũng là chủ sở hữu những xí nghiệp, cũng
tiến hành kinh doanh, bóc lột lao động làm thuê như một nhà tư bản thông thường.Nhưng điểm khác biệt
là ở chỗ, nhà nước còn có chức năng chính trị và các công cụ trấn áp x hội như quân đội, cảnh sát, nhà tù,

Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội chứ
không phải chỉ là một chính sách trong giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản Bất cứ nhà nước nào
cũng có vai trò kinh tế nhất định với xã hội mà nó thống trị, song ở mỗi chế độ xã hội, vai trò kinh tế của
nhà nước có sự biến đổi thích hợp đối với xã hội đó. Các nhà nước trước chủ nghĩa tư bản chủ yếu can
thiệp bằng bạo lực và theo lối cưỡng bức siêu kinh tế. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh,
nhà nước tư sản ở bên trên, bên ngoài quá trình kinh tế, vai trò của nhà nước chỉ dừng lại ở việc điều tiết
bằng thuế và pháp luật. Ngày nay, vai trò của nhà nước tư sản đã có sự biến đổi, không chỉ can thiệp vào
nền sản xuất xã hội bằng thuế, luật pháp mà còn có vai trò tổ chức và quản lý các xí nghiệp thuộc khu
vực kinh tế nhà nước, điều tiết bằng các biện pháp đòn bẩy kinh tế vào tất cả các khâu của quá trình tái
sản xuất: sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là hình thức
vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, làm
cho chủ nghĩa tư bản thích nghi với điều kiện lịch sử mới.
2/ Những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
a) Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước: V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh rằng
sự liên minh cá nhân cả các ngân hàng với công nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh cá nhân của
ngân hàng và công nghiệp với chính phủ: “Hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng; hôm nay
là chủ ngân hàng, ngày mai là bộ trưởng”. Sự kết hợp về nhân sự thực hiện thông qua các đảng phái tư
sản.Chính các đảng phái này đã tạo ra cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội để thực hiện sự thống trị và
trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước. Cùng với các đảng phái tư sản, là các hội
chủ xí nghiệp mang những tên khác nhau: Hội công nghiệp toàn quốc Mỹ, Tổng Liên đoàn công nghiệp
Italia, Liên đoàn các nhà kinh tế Nhật Bản, Liên minh Liên bang công nghiệp Đức, Hội đồng quốc gia
giới chủ Pháp, Tổng Liên đoàn công thương Anh, …Các hội chủ xí nghiệp này trở thành lực ượng chính
trị, kinh tế to lớn, là chỗ dựa cho chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Vai trò của các hội lớn đến mức
mà dư luận thế giới đã gọi chúng là những chính phủ đằng sau chính phủ, một quyền lực thực tế đằng sau
quyền lực của chính quyền.Sự thâm nhập lẫn nhau này (còn gọi là sự kết hợp) đã tạo ra những biểu hiện
mới trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc quyền và cơ quan nhà nước.
b) Sự hình thành và phát triển sở hữu nhà nước: Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của
giai cấp tư bản độc quyền có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự
tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó biểu hiện không những ở chỗ sở hữu nhà nước tăng lên mà còn ở sự tăng
cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư nhân, hai loại sở hữu này đan kết với
nhau trong quá trình tuần hoàn của tông tư bản xã hội. Sở hữu nhà nước không chỉ bao gồm những động
sản và bất động sản cần cho hoạt động của bộ máy nhà nước, mà gồm cả những doanh nghiệp nhà nước
trong công nghiệp và trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thông vận tải, giáo dục,
y tế, bảo hiểm xã hội… trong đó ngân sách nhà nước là bộ phận quan trọng nhất. Sở hữu nhà nước được
hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau: xây dựng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách;
quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại; nhà nước mua cổ phần của các doanh nghiệp tư
nhân; mở rộng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích luỹ của các doanh nghiệp tư nhân… Các doanh
nghiệp nhà nước thực hiện các chức năng quan trọng như: mở rộng sản xuất tư bản công nghiệp, bảo
đảm địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản; giải phóng tư bản của tổ chức độc quyền từ
những ngành ít lãi để đưa vào những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn; làm chỗ dựa vững chắc cho sự
điều tiết kinh tế tư bản công nghiệp theo những chương trình nhất định.
c) Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản: Hệ thống điều tiết của nhà nước tư sản hình thành một
tổng thể những thiết chế và thể chế kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống
chính sách, công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, toàn bộ quá
trình tái sản xuất xã hội. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước được thực hiện dưới nhiều hình thức như:
hướng dẫn, kiểm soát, uốn nắn những lệch lạc bằng các công cụ kinh tế và các công cụ hành chính pháp
lý, bằng cả ưu đãi và trừng phạt, … Các chính sách kinh tế của nhà nước tư sản là sự thể hiện rõ nét nhất
sự điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Chúng bao gồm nhiều lĩnh vực như chính
sách chống khủng hoảng chu kỳ, chống lạm phát, chính sách về tăng trưởng kinh tế, chính sách xã hội,
chính sách kinh tế đối ngoại. Các công cụ chủ yếu của nhà nước tư sản để điều tiết kinh tế và thực hiện
các chính sách kinh tế như ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ - tín dụng.
3/ Xu hướng vận động của CNTB hiện nay.
* Trong quá trình phát triển của mình nếu chưa xét đến hiệu quả mà CNTB gây ra loài người, thì CNTB
vẫn có mặt tích cực với sản xuất đó là:
- Thực hiện xã hội hóa sản xuất
- Phát triển lực lượng sản xuất tăng năng xuất lao động xã hội
- Chuyển sản xuất nhỏ thành sản lớn hiện đại.
* Tuy nhiên những thành tựu mà CNTB đạt được không phải chỉ có một chiều mà trong sự vận động đầy
mâu thuẫn. Điều đó biểu hiện ở hai xu hướng trái ngược nhau:
- Xu thế phát triển nhanh chóng của nền kinh tế là do yêu cầu nội tại và xu thế tăng nhanh tốc độ của việc
phát triển lực lượng sản xuất gắn với cuộc cách mạng và khoa học công nghệ
- Xu thế trì trệ của nền kinh tế : Đó là sự thống trị của độc quyền đã tạo ra những nhân tố ngăn cản sự
tiến bộ kỹ thuật và phát triển sản xuất
* Giới hạn và hậu quả của CNTB gây ra:
- Bên cạnh mặt tích cực trình bày ở trên, CNTB cũng gây ra hậu quả nặng nề cho nhân loại:
+ CNTB là thủ phạm chính của 2 cuộc chiến tranh thế giới I và II và hàng trăm cuộc chiến tranh cục bộ
+ Là thủ phạm chính của cuộc chạy đua vũ trang và ô nhiễm môi trường
+ CNTB phải chịu trách nhiệm chính về nạn đói nghèo bệnh tật của hàng trăm triệu người ở các nước
chậm phát triển
- CNTB cũng đứng trước giới hạn mà nó không thể vượt qua: Giới hạn đó bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ
bản của CNTB đó là : Mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với chế
độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất. Mặc dù CNTB ngày nay đã có sự điều chỉnh nhất định
trong những hình thức quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối nhưng vẫn không thể khắc phục được mâu
thuẫn này. Mâu thuẫn đó được biểu hiện ra thành những mâu thuẫn cụ thể sau:
+ Một là: Mâu thuẫn giữa tư bản lao động
+ Hai là: Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc
+ Ba là: Mâu thuẫn với các nước tư bản chủ nghĩa với nhau, chủ yếu là giữa ba trung tâm kinh tế, chính
trị hàng đầu của thế giới tư bản, giữa các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia
+Bốn là: Mâu thuẫn giữa CNTB và CNXH
* Kết luận:
- CNTB trong quá trình phát triển của nó đã: Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển rất mạnh mẽ, tạo cơ
sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất hiện đại nhưng cũng làm chothuẫn cơ bản của nó ngày càng gay gắt
thêm
- Ngày nay CNTB hiện đại đang nắm giữ những ưu thế về vốn, khoa học công nghệ, thị trường, đang có
khả năng thích ghi trong chừng mực nhất định , song CNTB đã buộc phải thực hiện một số điều chỉnh
giới hạn về quan hệ sản xuất, song không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có của nó, không thể
vượt quá giới hạn lịch sử của nó
- Các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát triển
tiến bộ của mình
- CNXH trên thế giới từ những bài học thành công và thất bại, cùng với khát vọng và sự thức tỉnh của các
dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới
Vì vậy, sớm hay muộn CNTB sẽ bị thay thế bằng một chế độ mới cao hơn - xã hội CSCN mà giai đoạn
thấp là CNXH

Câu 7 : Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay thế các phương thức sản xuất, nhưng
Tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên không phải phương thức sản xuất này kết thúc hoàn toàn rồi mới ra đời phương thức sản xuất khác. Giữa
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ phương thức sản xuất cũ và phương thức sản xuất mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một thời kỳ quá độ,
nghĩa ở Việt Nam. mà ở đó kết cấu kinh tế - xã hội cũ bị suy thoái dần, kết cấu kinh tế - xã hội mới ra đời, lớn mạnh dần và
tiến tới giữ địa vị thống trị.

Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đều phải trải
qua, ngay cả đối với những nước đã có nền kinh tế rất phát triển. Bởi lẽ, ở các nước này tuy lực lượng
sản xuất đã phát triển cao, nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng
nền văn hóa mới. Đối với những nước thuộc loại này, có nhiều thuận lợi hơn, do vậy thời kỳ quá độ có
thể sẽ diễn ra ngắn hơn. Đối với nước ta, từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa thì càng phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài.

Việt Nam, quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử vì:

- Thực tiễn đã khẳng định chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn
cũng phải được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đã và đang xây dựng là giải phóng con người, vì sự phát
triển tự do, toàn diện của con người, vì sự tiến bộ chung của loài người, là đi theo quy luật phát triển tự
nhiên của lịch sử.

- Cách mạng Việt Nam phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ đi
theo con đường này nhân dân ta làm Cách mạng Tháng Tám thành công, đã thắng lợi hay cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày nay, chỉ có đi lên chủ
nghĩa xã hội mới giữ vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện được mục tiêu: dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự lựa chọn như vậy là sự lựa chọn của chính lịch sử dân
tộc Việt Nam lại vừa phù hợp với xu thế của thời đại.
Thêm (nếu cần thiết)
Kế thừa quan điểm của CN Mác-Le6nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta trong suốt quá trình cách mạng
Việt Nam luôn khẳng định con đường đi lên của đất nước là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trước những năm đổi mới đã xuất hiện không ít khó
khăn, thách thức như đất nước rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng trầm trọng, Liên xô và các nước xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đoổ, Đảng và dân tộc ta vẫn kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đổi
mới không phải thay đổi lưa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường khác, mà là thay
đổi cách thức, bước đi trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với xu thế mới của thế giới và
hoàn cảnh đặc thù của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng ta khẳng định: Ngày nay đã có những điều kiện để hiểu
biết đầy đủ hơn về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội phải trải qua thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan, và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều
kiện chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước. Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất
khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một
chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Đó là một thời kỳ
đấu tranh giai cấp phức tạp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai”.
Đảng ta đã nhiều lần chỉ rõ nhiệm vụ chủ yếu của chặng đường đầu tiên là xây dựng những tiền đề chính
trị, kinh tế, xã hội cần thiết để triển khai công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trên quy mô lớn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tiếp tục khẳng định: đi lên chủ nghĩa xã hội là con
đường tất yếu của nước ta. Chúng ta phê phán những khuyết điểm, sai lầm trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nhưng không quan niệm những lệch lạc đó là khuyết tật của bản thân chế độ, coi khuyết
điểm là tất cả, phủ định thành tựu, từ đó dao động về mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đổi
mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có kết
quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp
thích hợp.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nêu rõ: Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển
nhanh lục lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011), Đảng ta khẳng định: Tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức
và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Mặc dù hiện tại, chủ nghĩa tư b ản còn tiềm năng
phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản
vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng
sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày
càng trở nên sâu sắc.
Lý luận của Đảng ta về bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa

Vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện lịch sử của cách mạng Việt
Nam, từ khi thành lập Đảng đến nay Đảng ta luôn kiên định lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều này càng được thể hiện rõ hơn qua bốn thời điểm mang tính
chất bước ngoặt lịch sử cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, trong Chính cương văn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo khi thành lập Đảng (năm 1930),
Đảng ta đã khẳng định: Đảng chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản.

Thứ hai, sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, tại Đại hội III (năm 1960), Đảng ta khẳng định “đưa
miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”.

Thứ ba, khi cả nước thống nhất, tại Đại hội IV (năm 1976) Đảng ta khẳng định: thắng lợi của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội; và, Đảng ta xác định, dù chúng ta vừa bước qua một cuộc chiến tranh tàn khốc,
dù xuất phát điểm của chúng ta là nền kinh tế còn phổ biến là nền sản xuất nhỏ, song con đường của cách
mạng Việt Nam vào thời điểm đó là: “tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa”.

Thứ tư, trong bối cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và Đông Âu tan rã, phong trào xã hội chủ
nghĩa thế giới khủng hoảng, tại Đại hội VII (năm 1991) với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng định: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua
hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều.
Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của
nhân dân ta... Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình đất nước và thế giới như trên, chúng ta phải
nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc, đồng thời mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.

Có thể nói đó là bốn thời điểm mang tính chất bước ngoặt trong quá trình cách mạng Việt Nam 85 năm
qua. Sự lựa chọn của Đảng Cộng sản Việt Nam tại các thời điểm bước ngoặt này cho thấy, Đảng ta luôn
luôn kiên định con đường đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sự kiên định ấy thực chất chính là sự
nhất quán lý tưởng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Dù bất cứ hoàn cảnh
lịch sử nào Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán, không dao động, luôn kiên trì đường lối xã hội chủ
nghĩa.

Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đường lối tiến lên chủ nghĩa xã hội của Đảng
ta cũng thường xuyên được điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp tiến trình phát triển và điều
kiện lịch sử nhất định của thời đại. Thật vậy, với Chánh cương văn tắt (năm 1930) Đảng ta mới chỉ vạch
ra một cách chung chung con đường để đưa đất nước đi tới xã hội cộng sản; tại Đại hội III (năm 1960),
Đảng xác định cách mạng nước ta đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: giải phóng miền Nam và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Và, Đảng ta khẳng định: đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội; Đến Đại hội IV (năm 1976), Đảng ta xác định đưa cả nước tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; nhưng đến Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta
khẳng định: từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài là một tất yếu
khách quan. Thời kỳ quá độ ở nước ta do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Và, đến Đại hội VII
(năm 1991), Đảng ta khẳng định: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Đến các Đại hội VIII, IX, X mặc dù có nhiều sự bổ sung và điều chỉnh, nhưng nhìn chung, về cơ bản
Đảng ta đều nhất quán với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được
Đại hội VII thông qua (Cương lĩnh 1991). Tại Đại hội XI, trên cơ sở bổ sung và hoàn thiện Cương lĩnh
1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011), lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã có một bước hoàn thiện mới với sự khẳng
định:“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với các nước trên thế giới”(9).

Từ quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng ta 85 năm qua, có thể nhận thấy rằng:

1- Mục tiêu xã hội chủ nghĩa của Đảng ta là kiên định nhưng ngày càng được Đảng ta nhận thức sâu sắc,
đầy đủ và cụ thể hơn.

2- Có sự điều chỉnh và hoàn thiện căn bản con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: từ làm cách mạng tư sản
dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản, đến quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” và hiện nay là quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa”. Rõ ràng, giai đoạn tư bản chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn khác nhau.

3- Hình thức đi lên chủ nghĩa xã hội là từ “tiến nhanh”, “tiến mạnh”, “tiến vững chắc”, “tiến thẳng” lên
chủ nghĩa xã hội (Đại hội III và IV) đến có một “thời kỳ quá độ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” với các
“bước đi”, “chặng đường” phù hợp và với thời gian “lâu dài”.

4- Với từ sự giúp đỡ của các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa và các lực lượng tiến bộ trên thế
giới đến “tự lực tự cường”, “quan hệ hữu nghị”, “là bạn và là đối tác tin cậy” của tất cả các nước nhằm
phát huy và khai thác, tận dụng các cơ hội, lực lượng và nguồn lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội...

Như vậy, có thể khẳng định, mặc dù kiên định con đường xã hội chủ nghĩa nhưng về mặt nhận thức và lý
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta qua các thời kỳ lịch sử, mặc dù
nhất quán mục tiêu nhưng đã có sự thay đổi hết sức căn bản. Sự thay đổi này vừa là sự đổi mới nhận thức
về lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là thành quả tất yếu của sự tác động tích cực của thời đại.
Những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội của gần 30 năm đổi mới toàn diện đất nước đã khẳng định sự
đúng đắn, tính kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; đồng
thời, cũng khẳng định những thành quả bổ sung và hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta trong thời đại ngày nay.

Câu 8 : Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của
Những nội dung cơ bản về vấn đề thành chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta
phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI toàn
nghĩa xã hội ở Việt Nam. đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt được những mục tiêu trên cần thực hiện tốt các phương hướng cơ
bản sau đây:
Một là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài
nguyên, môi trường.
Từ một nền sản xuất nhỏ nông nghiệp lạc hậu, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá. Trong thời đại
bùng nổ cách mạng khoa học và công nghệ, công nghiệp hoá phải kết hợp ngay từ đầu với hiện đại hoá,
đồng thời phải bảo vệ tài nguyên, môi trường. Như vậy mới đảm bảo cho việc phát triển nhanh, bền
vững, môi trường sống tốt hơn.
Hai là: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là bước phát triển mới về lý luận của Đảng ta trong quá trình đổi mới. Kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa được xác định là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Định hướng kinh tế thị trường được thể hiện qua 4 đặc trưng cơ bản sau:
- Mục tiêu phát triển kinh tế là "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", giải phóng mạnh
mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, đẩy mạnh xoá đói,
giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng…
- Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh
tế quốc dân.
- Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển, tăng trưởng
kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, giáo dục, y tế… giải quyết tốt các vấn đề xã hội, vì mục tiêu phát
triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời
theo mức đóng góp vốn, cùng các nguồn lực khác, thông qua phúc lợi xã hội.
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ba là: Xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống
nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội.
Văn hoá hiểu theo nghĩa chung là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Để xây dựng xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh phải lấy văn hoá làm nền tảng tinh thần. Đại hội XI tiếp tục khẳng định: "Xây dựng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng,
thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu
vào toàn bộ đời sống xã hội trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của
phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam, tiếp thu
những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ công bằng, văn minh.
Bốn là: Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Dựng nước gắn liền với giữ nước là quy luật lịch sử của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: " Các
Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Trong thời kỳ phát triển
mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến
lược, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bảo đảm an ninh quốc gia ngày nay bao gồm: An ninh chính trị,
an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá, an ninh xã hội. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay không phải chỉ bảo
vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn phải bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
Đảng, bảo vệ Nhà nước, nhân dân, bảo vệ kinh tế, văn hoá, sự nghiệp đổi mới…
Năm là: Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ
động tích cực hội nhập quốc tế.
Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu khách quan đang lôi cuốn nhiều nước tham gia. Kết hợp sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại là phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động về đường lối chính sách và
bước đi trong hội nhập, tham gia mạnh mẽ hơn, đầy đủ hơn vào quá trình toàn cầu hoá vì lợi ích quốc
gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội trên thế giới.
Sáu là: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường mở rộng
mặt trận dân tộc thống nhất.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là bản chất của chế độ xã hội
chủ nghĩa của nước ta. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Phát huy dân chủ gắn
liền với việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc. Thực hiện có hiệu quả các hình thức thực hành
dân chủ: Dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp ở cơ sở và tự quản trong các cộng đồng dân cư. Đại đoàn kết
toàn dân tộc vừa là nguồn lực chủ yếu, vừa là nhân tố quyết định đảm bảo thắng lợi bền vững của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Bảy là: Xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Nhà nước Pháp quyền là sự tiến bộ của nhân loại, trong đó có đặc điểm nổi bật là bảo đảm quyền tối cao
của Pháp luật. Nhà nước Pháp quyền của nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng Nhà nước Pháp
quyền hiện nay là xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát các cơ quan công quyền, đổi mới lập pháp, hành
pháp và tư pháp; kiên quyết phòng ngừa, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Tám là: Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. Trong điều kiện hiện nay, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là "nhiệm vụ then chốt" có ý nghĩa sống còn đối với
Đảng và sự nghiệp cách mạng nước ta. Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật tồn tại và phát
triển của Đảng.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác -Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo hệ thống
chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ hiến
pháp và pháp luật.

You might also like