Professional Documents
Culture Documents
LỚP: H492 MÔN: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
(PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ)
Một số nội dung thảo luận phần Kinh tế chính trị
1. Hai thuộc tính của hàng hoá, liên hệ hàng hoá sản xuất ở Việt Nam.
2. Quy luật giá trị và ý nghĩa của quy luật giá trị trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
3. Mâu thuẫn công thức chung của tư bản và lý luận hàng hoá sức lao động.
4. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, so sánh và rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu.
5. Thực chất của tích luỹ tư bản, quan hệ giữa tích luỹ, tích tụ, tập trung tư
6. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản hiện nay.
7. Tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.
8. Những nội dung cơ bản về vấn đề thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
*Ý nghĩa: Những tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
hết sức to lớn: một mặt chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích
cực phát triển; mặt khác, phân hóa XH thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong XH.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực. Thấy được điều đó, đồng thời
với việc thúc đẩy SXHH phát triển, Nhà nước cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế
những tiêu cực của nó, đặc biệt là trong đk phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
>>Đối với điều tiết SX và lưu thông hàng hóa: cần đề ra các phương hướng và đặt ra các chính sách đặc
biệt về giá cả, điều tiết cung-cầu phù hợp với thị trường, với nhu cầu của người tiêu dùng, mở rộng quy
mô SX các mặt hàng có sức hút lớn, giá cả cao đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho người SX, cho toàn XH,
làm giàu cho đất nước.
>>Đối với việc kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá SX, tăng năng suất LĐ: cần đẩy mạnh CNH-
HDH, áp dụng công nghệ-KH-Kỹ thuật hiện đại, tiên tiến vào SX nhằm nâng cao chất lượng sp, giá cả sp
ngày càng rẻ, mẫu mã ngày càng đẹp, phong phú, đa dạng về chủng loại, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của
người tiêu dùng, ...Bên cạnh đó cần đề ra các chính sách về giá cả, khuyến khích phát triển và đầu tư cho
khoa học-công nghệ, chuyển đổi cơ cấu kinh tế phù hợp,...Các chính sách mở rộng và giao lưu kinh tế
giữa các cá nhân, các vùng, các quốc gia... không chỉ làm cho giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa
phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển mà đs v/c, văn hoá, tinh thần của nd cũng được nâng
cao hơn, phong phú và đa dạng hơn.
>>Đối với sự phân hóa giàu nghèo: Cần thực hiện các chủ trương, chính sách hữu hiệu hơn nữa như đánh
thuế thu nhập cá nhân. Đối với người giàu-thuế càng cao-phù hợp với mức thu nhập họ kiếm được. Đối
với những người nghèo ngoài việc ko thu thế, phải dành cho họ những ưu tiên, những chính sách đãi ngộ
đặc biệt, trợ cấp, khuyến khích họ học tập, phát triển, nâng cao trình độ dân trí, để có thể tiến kịp trình độ
KH-KT hiện đại và hòa nhập với một đất nước CNH-HDH trong tương lai. Bên cạnh đó, nâng cao chất
lượng cs cả về v/c lẫn tinh thần, chủ trương tài trợ và khuyến khích phát triển ở những địa phương,
những gia đình, cá nhân gặp nhiều khó khăn, tạo cơ hội cho họ phát triển, giúp họ có công ăn việc làm ổn
định,...
Câu 7 : Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay thế các phương thức sản xuất, nhưng
Tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên không phải phương thức sản xuất này kết thúc hoàn toàn rồi mới ra đời phương thức sản xuất khác. Giữa
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ phương thức sản xuất cũ và phương thức sản xuất mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một thời kỳ quá độ,
nghĩa ở Việt Nam. mà ở đó kết cấu kinh tế - xã hội cũ bị suy thoái dần, kết cấu kinh tế - xã hội mới ra đời, lớn mạnh dần và
tiến tới giữ địa vị thống trị.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đều phải trải
qua, ngay cả đối với những nước đã có nền kinh tế rất phát triển. Bởi lẽ, ở các nước này tuy lực lượng
sản xuất đã phát triển cao, nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng
nền văn hóa mới. Đối với những nước thuộc loại này, có nhiều thuận lợi hơn, do vậy thời kỳ quá độ có
thể sẽ diễn ra ngắn hơn. Đối với nước ta, từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa thì càng phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài.
Việt Nam, quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử vì:
- Thực tiễn đã khẳng định chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn
cũng phải được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đã và đang xây dựng là giải phóng con người, vì sự phát
triển tự do, toàn diện của con người, vì sự tiến bộ chung của loài người, là đi theo quy luật phát triển tự
nhiên của lịch sử.
- Cách mạng Việt Nam phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ đi
theo con đường này nhân dân ta làm Cách mạng Tháng Tám thành công, đã thắng lợi hay cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày nay, chỉ có đi lên chủ
nghĩa xã hội mới giữ vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện được mục tiêu: dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự lựa chọn như vậy là sự lựa chọn của chính lịch sử dân
tộc Việt Nam lại vừa phù hợp với xu thế của thời đại.
Thêm (nếu cần thiết)
Kế thừa quan điểm của CN Mác-Le6nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta trong suốt quá trình cách mạng
Việt Nam luôn khẳng định con đường đi lên của đất nước là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trước những năm đổi mới đã xuất hiện không ít khó
khăn, thách thức như đất nước rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng trầm trọng, Liên xô và các nước xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đoổ, Đảng và dân tộc ta vẫn kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đổi
mới không phải thay đổi lưa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường khác, mà là thay
đổi cách thức, bước đi trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với xu thế mới của thế giới và
hoàn cảnh đặc thù của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng ta khẳng định: Ngày nay đã có những điều kiện để hiểu
biết đầy đủ hơn về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội phải trải qua thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan, và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều
kiện chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước. Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất
khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một
chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Đó là một thời kỳ
đấu tranh giai cấp phức tạp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai”.
Đảng ta đã nhiều lần chỉ rõ nhiệm vụ chủ yếu của chặng đường đầu tiên là xây dựng những tiền đề chính
trị, kinh tế, xã hội cần thiết để triển khai công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trên quy mô lớn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tiếp tục khẳng định: đi lên chủ nghĩa xã hội là con
đường tất yếu của nước ta. Chúng ta phê phán những khuyết điểm, sai lầm trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nhưng không quan niệm những lệch lạc đó là khuyết tật của bản thân chế độ, coi khuyết
điểm là tất cả, phủ định thành tựu, từ đó dao động về mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đổi
mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có kết
quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp
thích hợp.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nêu rõ: Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển
nhanh lục lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011), Đảng ta khẳng định: Tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức
và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Mặc dù hiện tại, chủ nghĩa tư b ản còn tiềm năng
phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản
vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng
sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày
càng trở nên sâu sắc.
Lý luận của Đảng ta về bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện lịch sử của cách mạng Việt
Nam, từ khi thành lập Đảng đến nay Đảng ta luôn kiên định lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều này càng được thể hiện rõ hơn qua bốn thời điểm mang tính
chất bước ngoặt lịch sử cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, trong Chính cương văn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo khi thành lập Đảng (năm 1930),
Đảng ta đã khẳng định: Đảng chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản.
Thứ hai, sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, tại Đại hội III (năm 1960), Đảng ta khẳng định “đưa
miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”.
Thứ ba, khi cả nước thống nhất, tại Đại hội IV (năm 1976) Đảng ta khẳng định: thắng lợi của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội; và, Đảng ta xác định, dù chúng ta vừa bước qua một cuộc chiến tranh tàn khốc,
dù xuất phát điểm của chúng ta là nền kinh tế còn phổ biến là nền sản xuất nhỏ, song con đường của cách
mạng Việt Nam vào thời điểm đó là: “tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa”.
Thứ tư, trong bối cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và Đông Âu tan rã, phong trào xã hội chủ
nghĩa thế giới khủng hoảng, tại Đại hội VII (năm 1991) với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng định: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua
hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều.
Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của
nhân dân ta... Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình đất nước và thế giới như trên, chúng ta phải
nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc, đồng thời mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.
Có thể nói đó là bốn thời điểm mang tính chất bước ngoặt trong quá trình cách mạng Việt Nam 85 năm
qua. Sự lựa chọn của Đảng Cộng sản Việt Nam tại các thời điểm bước ngoặt này cho thấy, Đảng ta luôn
luôn kiên định con đường đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sự kiên định ấy thực chất chính là sự
nhất quán lý tưởng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Dù bất cứ hoàn cảnh
lịch sử nào Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán, không dao động, luôn kiên trì đường lối xã hội chủ
nghĩa.
Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đường lối tiến lên chủ nghĩa xã hội của Đảng
ta cũng thường xuyên được điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp tiến trình phát triển và điều
kiện lịch sử nhất định của thời đại. Thật vậy, với Chánh cương văn tắt (năm 1930) Đảng ta mới chỉ vạch
ra một cách chung chung con đường để đưa đất nước đi tới xã hội cộng sản; tại Đại hội III (năm 1960),
Đảng xác định cách mạng nước ta đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: giải phóng miền Nam và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Và, Đảng ta khẳng định: đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội; Đến Đại hội IV (năm 1976), Đảng ta xác định đưa cả nước tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; nhưng đến Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta
khẳng định: từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài là một tất yếu
khách quan. Thời kỳ quá độ ở nước ta do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Và, đến Đại hội VII
(năm 1991), Đảng ta khẳng định: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Đến các Đại hội VIII, IX, X mặc dù có nhiều sự bổ sung và điều chỉnh, nhưng nhìn chung, về cơ bản
Đảng ta đều nhất quán với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được
Đại hội VII thông qua (Cương lĩnh 1991). Tại Đại hội XI, trên cơ sở bổ sung và hoàn thiện Cương lĩnh
1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011), lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã có một bước hoàn thiện mới với sự khẳng
định:“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với các nước trên thế giới”(9).
Từ quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng ta 85 năm qua, có thể nhận thấy rằng:
1- Mục tiêu xã hội chủ nghĩa của Đảng ta là kiên định nhưng ngày càng được Đảng ta nhận thức sâu sắc,
đầy đủ và cụ thể hơn.
2- Có sự điều chỉnh và hoàn thiện căn bản con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: từ làm cách mạng tư sản
dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản, đến quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” và hiện nay là quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa”. Rõ ràng, giai đoạn tư bản chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn khác nhau.
3- Hình thức đi lên chủ nghĩa xã hội là từ “tiến nhanh”, “tiến mạnh”, “tiến vững chắc”, “tiến thẳng” lên
chủ nghĩa xã hội (Đại hội III và IV) đến có một “thời kỳ quá độ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” với các
“bước đi”, “chặng đường” phù hợp và với thời gian “lâu dài”.
4- Với từ sự giúp đỡ của các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa và các lực lượng tiến bộ trên thế
giới đến “tự lực tự cường”, “quan hệ hữu nghị”, “là bạn và là đối tác tin cậy” của tất cả các nước nhằm
phát huy và khai thác, tận dụng các cơ hội, lực lượng và nguồn lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội...
Như vậy, có thể khẳng định, mặc dù kiên định con đường xã hội chủ nghĩa nhưng về mặt nhận thức và lý
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta qua các thời kỳ lịch sử, mặc dù
nhất quán mục tiêu nhưng đã có sự thay đổi hết sức căn bản. Sự thay đổi này vừa là sự đổi mới nhận thức
về lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là thành quả tất yếu của sự tác động tích cực của thời đại.
Những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội của gần 30 năm đổi mới toàn diện đất nước đã khẳng định sự
đúng đắn, tính kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; đồng
thời, cũng khẳng định những thành quả bổ sung và hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta trong thời đại ngày nay.
Câu 8 : Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của
Những nội dung cơ bản về vấn đề thành chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta
phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI toàn
nghĩa xã hội ở Việt Nam. đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt được những mục tiêu trên cần thực hiện tốt các phương hướng cơ
bản sau đây:
Một là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài
nguyên, môi trường.
Từ một nền sản xuất nhỏ nông nghiệp lạc hậu, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá. Trong thời đại
bùng nổ cách mạng khoa học và công nghệ, công nghiệp hoá phải kết hợp ngay từ đầu với hiện đại hoá,
đồng thời phải bảo vệ tài nguyên, môi trường. Như vậy mới đảm bảo cho việc phát triển nhanh, bền
vững, môi trường sống tốt hơn.
Hai là: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là bước phát triển mới về lý luận của Đảng ta trong quá trình đổi mới. Kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa được xác định là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Định hướng kinh tế thị trường được thể hiện qua 4 đặc trưng cơ bản sau:
- Mục tiêu phát triển kinh tế là "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", giải phóng mạnh
mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, đẩy mạnh xoá đói,
giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng…
- Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh
tế quốc dân.
- Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển, tăng trưởng
kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, giáo dục, y tế… giải quyết tốt các vấn đề xã hội, vì mục tiêu phát
triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời
theo mức đóng góp vốn, cùng các nguồn lực khác, thông qua phúc lợi xã hội.
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ba là: Xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống
nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội.
Văn hoá hiểu theo nghĩa chung là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Để xây dựng xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh phải lấy văn hoá làm nền tảng tinh thần. Đại hội XI tiếp tục khẳng định: "Xây dựng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng,
thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu
vào toàn bộ đời sống xã hội trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của
phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam, tiếp thu
những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ công bằng, văn minh.
Bốn là: Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Dựng nước gắn liền với giữ nước là quy luật lịch sử của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: " Các
Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Trong thời kỳ phát triển
mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến
lược, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bảo đảm an ninh quốc gia ngày nay bao gồm: An ninh chính trị,
an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá, an ninh xã hội. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay không phải chỉ bảo
vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn phải bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
Đảng, bảo vệ Nhà nước, nhân dân, bảo vệ kinh tế, văn hoá, sự nghiệp đổi mới…
Năm là: Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ
động tích cực hội nhập quốc tế.
Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu khách quan đang lôi cuốn nhiều nước tham gia. Kết hợp sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại là phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động về đường lối chính sách và
bước đi trong hội nhập, tham gia mạnh mẽ hơn, đầy đủ hơn vào quá trình toàn cầu hoá vì lợi ích quốc
gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội trên thế giới.
Sáu là: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường mở rộng
mặt trận dân tộc thống nhất.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là bản chất của chế độ xã hội
chủ nghĩa của nước ta. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Phát huy dân chủ gắn
liền với việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc. Thực hiện có hiệu quả các hình thức thực hành
dân chủ: Dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp ở cơ sở và tự quản trong các cộng đồng dân cư. Đại đoàn kết
toàn dân tộc vừa là nguồn lực chủ yếu, vừa là nhân tố quyết định đảm bảo thắng lợi bền vững của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Bảy là: Xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Nhà nước Pháp quyền là sự tiến bộ của nhân loại, trong đó có đặc điểm nổi bật là bảo đảm quyền tối cao
của Pháp luật. Nhà nước Pháp quyền của nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng Nhà nước Pháp
quyền hiện nay là xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát các cơ quan công quyền, đổi mới lập pháp, hành
pháp và tư pháp; kiên quyết phòng ngừa, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Tám là: Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. Trong điều kiện hiện nay, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là "nhiệm vụ then chốt" có ý nghĩa sống còn đối với
Đảng và sự nghiệp cách mạng nước ta. Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật tồn tại và phát
triển của Đảng.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác -Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo hệ thống
chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ hiến
pháp và pháp luật.