You are on page 1of 9

Chương 2

HÀNG HÓA, THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC CHỦ THỂ
THAM GIA THỊ TRƯỜNG
2.1. LÝ LUẬN CỦA C. MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ HÀNG HÓA
2.1.1. Sản xuất hàng hóa
a. Khái niệm sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm làm ra nhằm mục
đích để trao đổi, mua bán.
b. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Điều kiện thứ nhất, phân công lao động xã hội
PCLĐ xã hội là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành, các lĩnh vực
sản xuất khác nhau, dẫn đến sự chuyên môn hóa sản xuất thành các ngành, nghề
khác nhau.
Khi đó mỗi người chỉ sản xuất một hoặc một số sản phẩm nhất định. Trong
khi nhu cầu của họ cần nhiều sản phẩm. Để thỏa mãn nhu cầu của mình tất yếu cần
trao đổi sản phẩm với nhau.
Điều kiện thứ hai, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho những người
sản xuất độc lập với nhau, có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này
muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi mua bán.
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất là điều kiện đủ để sản
xuất hàng hóa ra đời và phát triển.
Trong lịch sử, sự tách biệt này về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất dựa
trên sự tách biệt về quyền sở hữu.
Khi có 2 điều kiện trên, con người không thể dùng ý chí chủ quan mà xóa bỏ
nền sản xuất hàng hóa. Nếu cố ý xóa bỏ sản xuất hàng hóa, sẽ làm cho xã hội đi tới
chỗ khan hiếm và khủng hoảng.
2.1.2. Hàng hóa
a. Khái niệm hàng hóa
Theo Mác, hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào
đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
Như vậy, sản phẩm của lao động chỉ mang hình thái hàng hóa khi đưa ra trao
đổi, mua bán trên thị trường.
Hàng hóa có thể sử dụng cho nhu cầu cá nhân hoặc nhu cầu sản xuất. Hàng
hóa có thể tồn tại ở dạng vật thể và phi vật thể.
b. Thuộc tính của hàng hóa
- Giá trị sử dụng
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của vật phẩm, có thể thỏa mãn
nhu cầu nào đó của con người; nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần, cũng có thể
là nhu cầu cho tiêu dùng cá nhân hay nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất.
Giá trị sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa đó quy
định. Khoa học kỹ thuật càng phát triển, con người càng phát hiện ra nhiều giá trị
sử dụng của hàng hóa.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là nhằm đáp ứng nhu cầu của người mua.
- Giá trị
Giá trị của hàng hóa là lao động của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong
hàng hóa
Các hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau lại được trao đổi với nhau vì giữa
chúng có mối quan hệ tỷ lệ về lượng. C. Mác gọi là giá trị trao đổi.
Sở dĩ các hàng hóa có thể trao đổi được với nhau là vì chúng có một điểm
chung. Điểm chung đó ở chỗ, chúng đều là kết quả của sự hao phí sức lao động.
Tức là hàng hóa có giá trị. Khi là hàng hóa, chúng là kết quả sự hao phí sức lao
động của người sản xuất hàng hóa nên có giá trị.
Mặt khác, khi đề cập đến hàng hóa, tức là đặt sản phẩm của lao động trong
quan hệ với người mua, người bán, trong quan hệ xã hội. Do đó, lao động hao phí
để sản xuất ra hàng hóa mang tính xã hội. C. Mác quan niệm đầy đủ hơn; Giá trị
hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trọng hàng hóa.
Giá trị hàng hóa biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất, là
phạm trù lịch sử.
Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị; giá trị là nội
dung, là cơ sở của giá trị trao đổi.
c. Lượng giá trị và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa
- Thời gian lao động xã hội cần thiết – đơn vị đo lường lượng giá trị của
hàng hóa
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian đòi hỏi để sản xuất ra một
giá trị sử dụng nào đó trong những điều kiện bình thường của xã hội với trình độ
thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình.
Vậy, lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa là lượng thời gian hao phí lao
động xã hội cần thiết để sản xuất ra đơn vị hàng hóa đó.
Trong sản xuất, người sản xuất phải tích cực đổi mới sáng tạo nhằm giảm
thời gian hao phí lao động cá biệt tại đơn vị sản xuất của mình xuống thấp hơn
mức trung bình cần thiết để nắm ưu thế trong cạnh tranh.
Cấu thành lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa bao gồm hao phí lao động
quá khứ và hao phí lao động sống.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa
Một là, năng suất lao động
Năng suất lao đông là năng lực sản xuất của người lao động, được tính bằng
số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, hay số lượng thời gian
hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Năng suất lao động tăng sẽ làm giảm lượng thời gian hao phí trong một đơn
vị hàng hóa. Năng suất lao động có quan hệ tỷ lệ nghịch với lượng giá trị trong một
đơn vị hàng hóa. Vì vậy, trong sản xuất, kinh doanh cần tìm cách giảm hao phí lao
đông cá biệt bằng các biện pháp để tăng năng suất lao động. Các nhân tố làm tăng
năng suất lao động là: trình độ người lao động; trình độ kỹ thuật; trình độ quản lý
và các điều kiện tự nhiên.
Mối quan hệ giữa tăng cường độ lao động với lượng giá trị của hàng hóa
Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, tích cực hoạt động lao động sản
xuất.
Tăng cường độ lao động là tăng mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt động
lao động. Trong chừng mực xét riêng vai trò của tăng cường độ lao động, việc tăng
cường độ lao động làm cho tổng số sản phẩm tăng lên. Song lượng thời gian hao
phí để sản xuất một đơn vị hàng hóa không thay đổi.
Hai là, tích chất phức tạp hay giản đơn của lao động
Lao đông giản đơn là lao động không đòi hỏi có quá trình đào tạo một cách
hệ thống, chuyên sâu về chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ cũng có thể thao tác
được.
Lao động phức tạp là lao động cần trải qua đào tạo về kỹ năng, nghiệp vụ
theo yêu cầu của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Trong một đơn vị thời gian, lao động phức tạp sẽ tạo ra nhiều giá trị hơn lao
động giản đơn. C. Mác gọi lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân lên.
d. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
C. Mác cho rằng, sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính là vì lao đông của người
sản xuất hàng hóa có tính hai mặt là: mặt cụ thể và mặt trừu tượng của lao động
- Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những
nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích lao động
riêng, đối tượng lao động riêng, công cụ lao động riêng, phương pháp lao động
riêng và kết quả riêng.
Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Trong đời sống xã hội,
có vô số hàng hóa với nhứng giá trị sử dụng khác nhau do lao động cụ thể đa dạng,
muôn hình muôn vẻ tạo nên. Phân công lao động càng phát triển thì xã hội càng có
nhiều ngành nghề khác nhau, do đó có nhiều giá trị sử dụng khác nhau. Khoa học
kỹ thuật, phân công lao động càng phát triển thì các hình thức lao động cụ thể càng
phong phú, đa dạng.
- Lao động trừu tượng là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa không
kể đến hình thức cụ thể của nó, đó là sự hao phí sức lao động nói chung của người
sản xuất hàng hóa về cơ bắp, thần kinh, trí óc. Lao động trừu tượng là lao động
đồng chất của người sản xuất hàng hóa. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng
hóa.
Vì vậy, giá trị hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa
kết tinh trọng hàng hóa.
C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất
hàng hóa. Nhờ phát hiện này đã giúp Mác phân tích một cách khoa học sự sản
xuất ra giá trị thặng dư và giải thích vì sao hàng hóa có 2 thuộc tính, còn chỉ ra
quan hệ chặt chẽ người sản xuất và người tiêu dùng hàng hóa.
Lao động cụ thể phản ánh tính chất tư nhân của lao động sản xuất hàng hóa
bởi việc sản xuất cái gì, ở đâu, bao nhiêu, bằng công cụ nào… là việc riêng của
mỗi người sản xuất. Ngược lại, lao động trừu tượng phản ánh tính chất xã hội của
lao động sản xuất hàng hóa, bởi lao động của mỗi người là một bộ phận của lao
động xã hội, nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội. Nên, người sản xuất
phải đặt lao động của mình trong sự liên hệ với lao động xã hội. Mâu thuẫn giữa
lao động cụ thể và lao động trừu tượng xuất hiện khi sản phẩm do những người
sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra không phù hợp với nhu cầu xã hội, hoặc khi
mức tiêu hao lao động cá biệt cao hơn mức tiêu hao mà xã hội có thể chấp nhận
được. Khi đó, sẽ có một số hàng hóa không bán được hoặc bán thấp hơn mức hao
phí lao động bỏ ra, không đủ bù đắp chi phí. Nghĩa là có một số hao phí lao động
cá biệt không được xã hội thừa nhận. Đây là mầm mống của khủng hoảng thừa.
2.1.3. Tiền tệ
a. Nguồn gốc và bản chất của tiền tệ
Quan hệ hàng hóa - tiền tệ là một trong những mối quan hệ kinh tế cốt lõi
của nền kinh tế hàng hóa. Do đó, nghiên cứu xong về hàng hóa cần phân tích về
nguồn gốc, bản chất, chức năng của tiền tệ trong nền kinh tế hàng hóa cũng như sự
liên hệ giữa tiền tệ với giá trị của hàng hóa.
Tiền tệ ra đời là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa,
là sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị từ thấp đến cao.
Lúc đầu, khi sản xuất chưa phát triển, việc trao đổi hàng hóa chỉ mang tính
đơn lẻ, ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực tiếp hàng hóa có giá trị sử dụng này đổi
lấy một hàng hóa có giá trị sử dụng khác. C.Mác gọi là hình thái giản đơn hay ngẫu
nhiên của giá trị.
Khi sản xuất phát triển hơn, hàng hóa sản xuất ra phong phú hơn, nhu cầu
của con người cũng đa dạng hơn, trao đổi được mở rộng và trở nên thường xuyên
hơn. Một hàng hóa có thể đem trao đổi với nhiều hàn hóa khác. Ở trình độ này, C.
Mác gọi là hình thái mở rộng của giá trị. Lúc này trao đổi được mở rộng song
không phải lúc nào cũng dễ dàng thực hiện. Nhiều khi việc trao đổi phải diễn ra
theo đường vòng để có được thứ hàng hóa mình cần. Khắc phục hạn chế này,
những người sản xuất hàng hóa quy ước thống nhất sử dụng một loại hàng hóa
nhất định làm vật ngang giá chung. Hình thái tiền của giá trị hàng hóa xuất hiện.
Quá trình đó tiếp tục được thúc đẩy đến khi những người sản xuất hàng hóa cố
định yếu tố ngang giá chung đó là vàng hoặc bạc. Tiền vàng hoặc tiền bạc xuất
hiện trở thành yếu tố ngang giá chung cho toàn bộ thế giới hàng hóa. Khi đó, người
tiêu dùng muốn có thứ hàng hóa nào đó có thể dùng tiền để mua hàng hóa ấy.
Vậy bản chất của tiền tệ là loại hàng hóa đặc biệt, là kết quả của quá trình
phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, tiền xuất hiện là yếu tố ngang giá
chung cho thế giới hàng hóa. Tiền tệ là hình thái biểu hiện giá trị của hàng hóa.
Tiền tệ phản ánh lao động xã hội và mối quan hệ giữa những người sản xuất và
trao đổi hàng hóa.
b. Chức năng của tiền tệ
Thước đo giá trị:
Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền được dùng để biểu hiện và đo
lường giá trị của tất cả các hàng hóa khác. Để đo lường giá trị của các hàng hóa,
tiền cũng phải có giá trị. Để thực hiện chức năng thước đo giá trị người ta ngầm
hiểu phải là tiền vàng. Sở dĩ như vậy là vì giữa giá trị của vàng và giá trị của hàng
hóa trong thực tế đã phản ánh lượng lao động xã hội hao phí nhất định.
Phương tiện lưu thông: Khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền
làm môi giới cho quá trình trao đổi hàng hóa. Để phục vụ lưu thông hàng hóa, ban
đầu nhà nước đúc vàng thành những đồng vị tiền tệ nhất định, sau đó là tiền bằng
kim loại. Dần dần, xã hội nhận thấy, để thực hiện chức năng phương tiện lưu
thông, không nhất thiết phải dùng tiền vàng, mà chỉ cần tiền ký hiệu của giá trị. Từ
đó tiền giấy ra đời và sau này là các loại tiền ký hiệu giá trị khác như tiền kế toán,
tiền séc, tiền điện tử, gần đây với sự xuất hiện của thương mại điện tử, các loại tiền
ảo xuất hiện (bitcoin) và đã có quốc gia chấp nhận bitcoin là phương tiện thanh
toán.
Tiền giấy ra đời giúp trao đổi hàng hóa được tiến hành dễ dàng thuận lợi và
ít tốn kém hơn tiền vàng, tiền kim loại. Tuy nhiên, tiền giấy chỉ là ký hiệu của giá
trị, bản thân chúng không có giá trị thực nên nhà nước phải in và phát hành số
lượng tiền giấy theo yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ, không thể phát hành
tùy tiện.
Phương tiện cất trữ: Tiền là đại diện cho giá trị, đại diện cho của cải nên khi
tiền xuất hiện, thay vì tiền cất trữ hàng hóa, người dân có thể cất trữ bằng tiền. Lúc
này tiền rút ra khỏi lưu thông, đi vào cất trữ dưới hình thái vàng, bạc và sẵn sàng
tham gia lưu thông khi cần thiết.
Phương tiện thanh toán: Khi thực hiện chức năng thanh toán, tiền được
dùng để trả nợ, trả mua chịu hàng hóa… Chức năng phương tiện thanh toán của
tiền gắn liền với chế độ tín dụng thương mại.
Tiền tệ thế giới: Khi trao đổi hàng hóa vượt ra ngoài biên giới quốc gia, tiền
làm chức năng tiền tệ thế giới. Lúc này, tiền được dùng làm phương tiện thanh toán
quốc tế giữa các nước. Để làm chức năng này phải là tiền vàng hoặc những đồng
tiền được công nhân là phương tiện thanh toán quốc tế.
2.1.4. Dịch vụ và một số loại hàng hóa đặc biệt
Dịch vụ
Theo cách hiểu của kinh tế chính trị Mác – Lênin, dịch vụ là một loại hàng
hóa, nhưng đó là hàng hóa vô hình.
Để có được loại dịch vụ, người ta cũng phải hao phí sức lao động và mục
đích của việc cung ứng dịch vụ cũng là nhằm thỏa mãn nhu cầu của người mua loại
dịch vụ đó.
Khác với hàng hoá thông thường, dịch vụ là hàng hóa không thể cất trữ.
Việc sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời.
Một số hàng hóa đặc biệt
- Quyền sử dụng đất đai
Khi thực hiện mua, bán quyền sử dụng đất, nhiều người lầm tưởng đó là
mua bán đất đai. Trên thực tế, họ trao đổi với nhau quyền sử dụng đất.
Quyền sử dụng đất, có giá trị sử dụng, có giá cả nhưng không do hao phí lao
động tạo ra như các hàng hóa thông thường. giá cả của quyền sử dụng đất nảy sinh
do tính khan hiếm của bề mặt vỏ quả địa cầu và do trình độ phát triển của sản xuất.
- Thương hiệu:
Thực tế ngày nay, thương hiệu của một doanh nghiệp (hay danh tiếng của
một cá nhân) cũng có thể trao đổi được, thậm chí có giá cao. Đây là những yếu tố
có tính hàng hóa gắn với lý luận hàng hóa của C. Mác. Bởi lẽ, thương hiệu hay
danh tiếng không phải bỗng nhiên mà có, nó là kết quả của sự nỗ lực của sự hao
phí lao động của người nắm giữ thương hiệu.
- Chứng khoán, chứng quyền và một số giấy tờ có giá:
Chứng khoán do các công ty, doanh nghiệp cổ phần phát hành, chứng quyền
do các công ty kinh doanh chứng khoán chứng nhận và một số loại giấy tờ có giá,
có thể mua bán, trao đổi và đem lại lượng tiền lớn hơn cho người mua, bán.
Chứng khoán, chứng quyền, các loại giấy tờ có giá khác cũng có một số đặc
trưng như hàng hóa, mang lại thu nhập cho người mua, bán.
Để có thể mua, bán các loại chứng khoán, chứng quyền hoặc giấy tờ có giá
đó phải dựa trên cơ sở tồn tại của một tổ chức sản xuất kinh doanh có thực.

You might also like