You are on page 1of 33

ĐỀ CƯƠNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Câu 1: Phân tích mối quan hệ giữa tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá với hai
thuộc tính của hàng hoá. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này.
*Hàng hoá: là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người và đi vào tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá.
Hàng hóa có thể ở dạng vật thể(hữu hình) và ở dạng phi vật thể (dịch vụ vô hình).
Ví dụ: Quần áo, giày dép, mỹ phẩm, đồ gia dụng, đồ dùng học tập,…
*Hai thuộc tính của hàng hoá:
Trong mỗi hình thái kinh tế- xã hội khác nhau, sản xuất hàng hóa có bản chất khác
nhau, nhưng một vật phẩm sản xuất ra khi đã mang hình thái là hàng hóa thì đều có
hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị.
- Giá trị sử dụng: Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa nhằm thỏa
mãn một nhu cầu nào đó của con người. (Nhu cầu của con người gồm có nhu cầu tiêu
dùng cho sản xuất và nhu cầu tiêu dùng cho cá nhân)
Ví dụ: Giá trị sử dụng của cơm là để ăn, của áo là để mặc, của máy móc, thiết bị,
nguyên nhiên vật liệu là để sản xuất…
+ Công dụng, công hiệu, tính có lợi, tính có ích của hàng hoá
+ Giá trị sử dụng do những thuộc tính tự nhiên quy định, không lệ thuộc vào chế độ xã
hội. Khi xã hội càng phát triển thì xã hội càng tìm ra càng nhiều giá trị sử dụng cho
cùng một vật phẩm. ( than đá dùng đun nấu, nhưng khi xã hội phát triển than đá còn
dùng trong công nghiệp hoá chất)
+ Giá trị sử dụng được thể hiện thông qua tiêu dùng và là phạm trù có tính vĩnh viễn
+ Giá trị sử dụng được phát hiện dần, ngày càng phong phú do sự phát triển của khoa
học, công nghệ.
+ Trong nền KT hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi
+ Đối với hàng hoá dịch vụ thì giá trị sử dụng của nó có đặc điểm là không có hình
thái vật thể quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời do đó nó không tích luỹ
hay dự trữ.
(Cơ sở xác định: thuộc tính tự nhiên của hàng hoá, tập tục và quy ước)
- Giá trị: Giá trị của hàng hóa: là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết
tinh trong hàng hóa đó. Ví dụ: giá trị của chai nước là hao phí lao động xã hội của
người sản xuất ra chai nước kết tinh trong chai nước (2h sản xuất ra chai nước, thì 2h
là giá trị của chai nước).
Muốn tìm hiểu phạm trù giá trị phải xuất phát từ phạm trù giá trị trao đổi vì giá trị trao
đổi là hình thức biểu hiện bên ngoài của giá trị; còn giá trị là nội dung bên trong, là cơ
sở của giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại
này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác.
Ví dụ: 1m vải = 5kg thóc
Sở dĩ vải và thóc trao đổi được với nhau vì hai hàng hóa đó có cái chung là đều là
sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh trong đó. Chính lao động hao phí để
tạo ra hàng hóa là cơ sở chung của trao đổi và tạo thành giá trị của hàng hóa.
*Nhận xét:
+ Giá trị của hàng hóa là phạm trù lịch sử
+ Giá trị của hàng hóa phản ánh quan hệ giữa người sản xuất hàng hóa, khi tiền tệ ra
đời – giá trị biểu hiện ra bằng tiền thì nó gọi là giá cả. Giá trị của hàng hóa là thuộc
tính xã hội của hàng hóa.
→ Như vậy, một vật muốn trở thành hàng hóa phải có đủ hai thuộc tính giá trị sử dụng
và giá trị.
Mối quan hệ giữa 2 thuộc tính: thể hiện sự thống nhất và đối lập
- Thống nhất: đã là hàng hoá thì phải có đủ 2 thuộc tính trên.
- Đối lập: Mâu thuẫn được bộ lộ ra ngoài là giữa chất lượng và giá cả, giữa người mua

người bán.

Giá trị Giá trị sử dụng

 Mục đích của người sản xuất  Mục đích của người tiêu dùng
 Tạo ra trong quá trình sản xuất  Tạo ra trong quá trình tiêu dùng
 Thực hiện trước  Thực hiện sau
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá.
Sở dĩ hàng hóa có 2 thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị là do lao động của người
sản xuất ra hàng hóa có 2 mặt. Chính tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa quyết
định tính hai mặt của bản thân hàng hóa.
C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất 2 mặt của lao động sản xuất hàng
hóa. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
a. Lao động cụ thể.
Là lao động có ích với hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất
định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích, đối tượng, công cụ, phương pháp và kết quả
riêng.
– Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng, do đó lao động cụ thể càng nhiều loại thì giá
trị sử dụng càng phong phú.
– Lao động ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội
và sản xuất hàng hóa.
– Lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn, thể hiện tính chất tư nhân của sản xuất hàng
hóa, tuy nhiên hình thức của lao động cụ thể có thể thay đổi, phụ thuộc vào sự phát
triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động.
b. Lao động trừu tượng.
Là lao động của người sản xuất hàng hoá không kể đến hình thức biểu hiện cụ thể
của nó để quy về cái chung đồng nhất, đó là sự hao phí sức lao động, tiêu hao sức bắp
thịt, thần kinh của người sản xuất hàng hoá.
– Lao động trừu tượng là lao động đồng chất của con người.
– Lao động trừu tượng tạo nên giá trị hàng hoá, là cơ sở để so sánh các giá trị sử dụng
khác nhau. Chất của hàng hoá là lao động trừu tượng.
– Lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử chỉ tồn tại trong sản xuất hàng hoá. Bởi
vì chỉ trong sản xuất hàng hoá mới đặt ra yêu cầu phải quy các lao động cụ thể vốn
không so sánh được với nhau thành một thứ lao động đồng nhất có thể so sánh với
nhau.
Vậy: Xét lao động cụ thể là xem lao động đó tiến hành như thế nào, sản xuất ra cái gì.
Lao động trừu tượng là tốn bao nhiêu sức lực, hao phí bao nhiêu thời gian lao động.
Cần thấy rằng không phải có hai thứ lao động được kết tinh trong một hàng hoá mà
chỉ có lao động của người sản xuất hàng hoá. Nhưng lao động đó có tính 2 mặt: 1 mặt
là lao động cụ thể và một mặt là lao động trừu tượng.
=> Ý nghĩa: Việc phát hiện ra tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa có ý nghĩa
rất to lớn về mặt lý luận; nó đem đến cho lý thuyết lao động sản xuất một cơ sở khoa
học thực sự; giúp ta giải thích được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự
vận động trái ngược khi khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng lên, đi liền với
khối lượng giá trị của nó giảm xuống hay không thay đổi.

Câu 2: Phân tích lượng giá trị của hàng hoá và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá
trị của hàng hóa. Nêu ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này.
*Khái niệm:
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người thông qua trao đổi, mua bán.
Giá trị hàng hóa là hao phí lao động xã hội kết tinh trong hàng hóa đó.
Ví dụ: giá trị của chai nước là hao phí lao động xã hội của người sản xuất ra chai
nước kết tinh trong chai nước (VD: 2h sản xuất ra chai nước, thì 2h là giá trị của chai
nước).
Lượng giá trị của hàng hóa là lượng thời gian hao phí lao động xã hội cần
thiết để sản xuất ra đơn vị hàng hóa đó.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là đơn vị đo lường lượng giá trị của hàng hóa.
Cần phân biệt thời gian lao động cá biệt với thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời
gian lao động cá biệt là thời gian hao phí của từng người sản xuất, từng chủ thể cá
biệt.
Ví dụ: 1 người công nhân mất 2 giờ để tạo ra sản phẩm thì lúc này 2 giờ đó là thời
gian hao phí lao động cũng chính là giá trị của sản phẩm (sản phẩm cá biệt của người
CÔNG NHÂN) chứ không phải giá trị của hh SẢN PHẨM trong toàn xã hội.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần để sản xuất ra
một hàng hóa nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một
trình độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường
độ lao động trung bình trong xã hội đó.
Trên thực tế, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra 1 hàng hóa thường
trùng hợp với mức hao phí lao động cá biệt của những người sx và cung cấp đại bộ
phận sản phẩm đó trên thị trường.
Ví dụ: Hiện nay, thị trường xe máy có nhiều cửa hàng .
* Nếu xã hội sản xuất 1 sản phẩm 2h (TG LĐXH cần thiết), mà bạn sản xuất mất 3h
(TG LĐ cá biệt) vậy bạn bán có hiệu quả bằng không?
Về mặt cấu thành, lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa được sản xuất ra bao
hàm: hao phí lao động quá khứ (chứa trong các yếu tố vật tư, nguyên nhiên liệu đã
tiêu dùng để sản xuất ra hàng hóa đó) và hao phí lao động mới kết tinh thêm.
*Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa
+Thứ nhất, năng suất lao động:
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, được tính bằng
số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, hay số lượng thời gian hao
phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
VD: 1 người công nhân trong 8h sản xuất được 16 sản phẩm => NSLĐ của người
công nhân là 2 sp/h hoặc 0.5h/sản phẩm.
Năng suất lao động tăng lên có nghĩa là cũng trong một thời gian lao động,
nhưng khối lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết
để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Do đó, khi năng suất lao động tăng
lên thì giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại.
Năng suất lao động có hai loại: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao
động xã hội. Năng suất lao động xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến lượng giá trị xã hội
của hàng hóa. Năng suất lao động xã hội tỷ lệ nghịch với lượng giá trị xã hội của một
đơn vị hàng hóa.
Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động gồm có: trình độ của người
lao động; trình độ tiên tiến và mức độ trang bị kỹ thuật, khoa học công nghệ trong quá
trình sản xuất, trình độ quản lý; cường độ lao động và yếu tố tự nhiên.
Tăng năng suất lao động khác với tăng cường độ lao động.
Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt động lao động
trong sản xuất.
Nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hóa sản
xuất ra tăng lên và sức hao phí lao động cũng tăng lên tương ứng, vì vậy giá trị của
một đơn vị hàng hóa vẫn không đổi. Tăng cường độ lao động thực chất cũng như kéo
dài thời gian lao động cho nên hao phí lao động trong một đơn vị sản phẩm không đổi.
Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động giống nhau là đều dẫn đến
lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên. Nhưng chúng khác
nhau là tăng năng suất lao động làm cho lượng sản phẩm (hàng hóa) sản xuất ra trong
một đơn vị thời gian tăng lên, nhưng làm cho giá trị của một đơn vị hàng hóa giảm
xuống.
Cường độ lao động chịu ảnh hưởng của các yếu tố sức khỏe, thể chất, tâm lý,
trình độ tay nghề thành thạo của người lao động, công tác tổ chức, kỷ luật lao động.
+Thứ hai, tính chất phức tạp hay giản đơn của lao động
Tính chất của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của hàng
hóa. Theo tính chất của lao động, có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao
động phức tạp.
Lao động giản đơn là lao động không đòi hỏi có quá trình đào tạo một cách hệ
thống, chuyên sâu về chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ cũng có thể thao tác được.
Lao động phức tạp là những hoạt động lao động yêu cầu phải trải qua một quá
trình đào tạo về kỹ năng, nghiệp vụ theo yêu cầu của những nghề nghiệp chuyên môn
nhất định.
Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động
giản đơn. Lao động phức tạp thực chất là lao động giản đơn được nhân lên. Trong quá
trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều được quy về lao động đơn giản
trung bình, và điều đó được quy đổi một cách tự phát sau lưng những hoạt động sản
xuất hàng hóa, hình thành những hệ số nhất định thể hiện trên thị trường. Đây là cơ sở
lý luận quan trọng để tính toán, xác định mức thù lao cho phù hợp với tính chất của
hoạt động lao động trong quá trình tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội.
*Ý nghĩa thực tiễn
Trong hoạt động thực tiễn trên thị trường các chủ thể cạnh tranh rất gay gắt với
nhau, lợi thế luôn thuộc về người sản xuất có năng suất lao động cao nhất tức chi phí
sản xuất thấp nhất, ngược lại họ sẽ gặp bất lợi và có nguy cơ phá sản. Vì thế cạnh
tranh để tăng năng suất lao động, giảm chi phí lao động có ý nghĩa sống còn của
doanh nghiệp, do vậy các yếu tố tác động tới năng suất lao động được đặc biệt quan
tâm ứng dụng.

Câu 3: Phân tích nội dung, yêu cầu và tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế
thị trường. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu quy luật này.
Nội dung, yêu cầu và tác động của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của SX HH vì ở đâu có SX và trao đổi
HH ở đó sẽ có sự hoạt động của quy luật này.
Nội dung của quy luật giá trị: SX và trao đổi HH phải dựa trên cơ sở hao phí
LĐ XH cần thiết.
Quy luật giá trị yêu cầu:
Trong SX: Người sx muốn bán được HH trên thị trường, muốn được XH thừa
nhận SP thì cần phải làm sao cho hao phí LĐ cá biệt phải phù hợp (nhỏ hơn hoặc
bằng) với hao phí LĐ XH cần thiết.
Trong trao đổi: phải dựa trên cơ sở hao phí LĐ XH cần thiết, trao đổi theo
nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị xã hội làm cơ sở, không dựa trên giá trị cá biệt
Sự vận động của giá cả HH trên thị trường xoay quanh trục giá trị là phương
thức hoạt động của quy luật giá trị: (Cung>cầu --> giá cả<giá trị ; cung =cầu --> giá
cả = giá trị ; Cung<cầu -->giá cả >giá trị)
Tác động của quy luật giá trị trong nền SX HH:
Thứ nhất, Tự phát điều tiết việc SX và lưu thông HH.
-Điều tiết việc SX: Thông qua sự vận động của giá cả trên thị trường dưới tác
động của quy luật cung - cầu mà người SX sẽ điều hòa, phân bổ các yếu tố SX giữa
các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Cụ thể: thông qua sự biến động của giá cả,
người SX sẽ biết được tình hình cung cầu của hàng hóa đó và quyết định phương án
SX, nếu giá cả hàng hóa cao hơn giá trị, Sx cần mở rộng để cung ứng HH đó nhiều
hơn vì nó đang khan hiếm trên thị trường, theo đó, tư liệu Sx và sức LĐ sẽ được tự
phát chuyển vào ngành này nhiều hơn các ngành khác, Và ngược lại.
-Điều tiết lưu thông: Sự biến động của giá cả thị trường có tác động thu hút
luồng HH từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao hơn, nhờ đó làm lưu thông HH
thông suốt.
Thứ hai, Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa SX, tăng năng suất LĐ, thúc
đẩy lực lượng SX phát triển nhanh. Yêu cầu của quy luật đòi hỏi người SX muốn
giành được lợi thế phải cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, tăng năng suất LĐ…
hạ thấp hao phí LĐ cá biệt, từ đó, thúc đẩy lực lượng SX XH phát triển.
Thứ ba, Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người SX HH thành kẻ
giàu, người nghèo. Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị sẽ dẫn đến kết quả: những
người có điều kiện SX thuận lợi, NSLĐ cao, hao phí LĐ cá biệt thấp sẽ ngày càng trở
nên giàu có. Ngược lại, những người có hao phí LĐ cá biệt cao hơn hao phí LĐ XH
cần thiết sẽ bị thua lỗ dẫn đến phá sản, trở thành những người nghèo. Trong nền kinh
tế thị trường thuần túy, chạy theo lợi ích cá nhân, đầu cơ, gian lận, khủng hoảng kinh
tế… là những yếu tố có thể làm tăng thêm tác động phân hóa SX cùng những tiêu cực
về kinh tế xh khác. Tóm lại, QL giá trị vừa có cả những tác động tích cực lẫn tiêu cực.
Ý nghĩa luận và ý nghĩa thực tiễn
Ý nghĩa lý luận: hiểu được nội dung, yêu cầu của quy luật giá trị giúp các chủ
thể SX HH nhận thức được ở đâu có SX HH ở đó có quy luật giá trị. Người SXHH
muốn tồn tại và phát triển phải tôn trọng và hành xử theo quy luật giá trị.
Ý nghĩa thực tiễn: quy luật giá trị buộc các chủ thể kinh doanh phải nhạy bén với
thị trường, phân bổ các nguồn lực của XH hiệu quả,…nhờ đó thúc đẩy lực lượng SX
phát triển, điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế một cách linh hoạt, đáp ứng tốt nhất nhu cầu
của XH. Tuy nhiên, quy luật giá trị cũng dẫn đến tình trạng khai thác cạn kiệt tài
nguyên, ô nhiễm môi trường, HH kém chất lượng, gia tăng khoảng cách về thu nhập,
phân hóa XH,…Vì vậy, rất cần có sự điều tiết, can thiệp của nhà nước để khắc phục
những hạn chế này.
Câu 4: So sánh hai thuộc tính của hàng hóa thông thường và hàng hóa sức lao động.
Vì sao trong cơ cấu giá trị của hàng hóa sức lao động phải bao gồm giá trị những tư
liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi con của người lao động?

* Khái niệm HH thông thường và HH slđ

Hàng hóa thông thường

Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị.

Về mặt giá trị sử dụng: tức hình thái tự nhiên của hàng hóa, có thể nhận biết trực tiếp
bằng giác quan.

Về mặt giá trị: tức hình thái xã hội của hàng hóa và vô hình. Giá trị chỉ có một tính
hiện thực thuần túy xã hội, và nó chỉ biểu hiện ra cho người ta thấy được trong hành vi
trao đổi, nghĩa là trong mối quan hệ hàng hóa với nhau.

Hàng hóa sức lao động

- Sức lao động (năng lực lao động) là toàn bộ năng lực thể chất và tinh thần tồn tại
trong cơ thể con người đang sống và được người đó sử dụng vào sản xuất hàng hóa
- Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:

Người lao động được tự do về thân thể, tức là có quyền tự chủ về sức lao động của
mình và chỉ bán sức lao động trong một thời gian nhất định. Người lao động không có
TLSX, không có khả năng bán cái gì ngoài sức lđ.
Hàng hoá sức lđ:

-Hàng hoá slđ là một hàng hoá đặc biệt, nguồn gốc sản sinh ra giá trị thặng dư. Nó
cũng có 2 thuộc tính giống hàng hóa khác là giá trị và giá trị sử dụng.

+ Giá trị: cả yếu tố tinh thần, vật chất và lịch sử

+ Giá trị sử dụng đặc biệt: tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, đó chính
là giá trị thặng dư.

* So sánh hàng hoá slđ với hàng hoá thông thường


+ Giống nhau: đều là hàng hoá và cũng có hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng.

+ Khác nhau :

Tiêu chí so Hàng hóa thông Hàng hóa sức lao động
sánh thường

Giá trị Chỉ thuần túy là yếu tố - Chứa đựng cả yếu tố vật chất, tinh thần và
vật chất, được đo bằng lịch sử. Được đo gián tiếp bằng những giá
TGLĐXHCT. trị sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra slđ.

- Giá trị slđ ko cố định: tăng lên khi nhu cầu


trung bình về hàng hoá, dịch vụ của con
người tăng và yêu cầu kỷ thuật lao động
tăng; Giảm khi năng suất lao động xh tăng
làm giảm giá trị hàng hoá tiêu dùng.

Giá cả Giá cả có thể tương Nhỏ hơn giá trị


đương giá trị

Giá trị sử Giá trị sử dụng thông Đặc biệt tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của
dụng thường bản thân nó, đó chính là giá trị thặng dư.

Quan hệ Người mua và người Người mua có quyền sử dụng, không có


giữa người bán hoàn toàn độc lập quyền sở hữu, người bán phải phục tùng
mua và với nhau người mua.
người bán

Quan hệ Ngang giá, mua đứt – Mua bán chịu: Giá trị sử dụng thực hiện
mua bán bán đứt trước (bắt lao động), giá trị thực hiện sau
(trả công sau)., thường không ngang giá và
mua bán có thời hạn.

Ý nghĩa Biểu hiện của của cải Nguồn gốc của giá trị thặng dư à Hàng hóa
đặc biệt.
Giá trị của hàng hóa sức lao động phải bao gồm giá trị những tư liệu sinh hoạt
cần
thiết để nuôi sống con cái người lao động vì:

Trong cơ cấu lượng giá trị hàng hóa sức lao động phải bao gồm giá trị những tư liệu

sinh hoạt cần thiết để nuôi dưỡng con cái người lao động vì giá trị hàng hóa sức lao

động được hợp thành từ: Cho người lao động: Giá trị các tư liệu sinh hoạt vật chất và
tinh thần cần thiết, chi phí đào tạo chuyên môn + Cho con cái người lao động: Giá trị
các tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết.

=> Giá trị hàng hóa sức lao động được biểu hiện trên thị trường thông qua tiền lương,

trong đó một bộ phận của tiền lương phải bảo đảm nuôi con cái người lao động. Bởi

vì, tái sản xuất sức lao động về chất lượng và số lượng. Con cái người lao động chính
là lực lượng thay thế và bổ sung cho thị trường sức lao động.

Quy mô một gia đình Việt Nam hiện nay trung bình có hai con, nên mỗi người lao

động phải bảo đảm nuôi được ít nhất một con.

=>Vì Vậy để đảm bảo và duy trì nguồn hàng hóa sức lao động thì giá trị tư liệu sinh

hoạt cần thiết để nuôi dưỡng con cái người lao động là việc tất yếu mà mỗi lao động

cần có để tái sản xuất sức lao động đây là nguồn hàng hóa đặc biệt và thiết yếu để tạo

ra giá trị Thặng dư của nguồn kinh tế.


Câu 5: Phân tích quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. Căn cứ và ý nghĩa
phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động?
Tuần hoàn tư bản: là sự vận động liên tục của tư bản lần lượt trải qua ba giai
đoạn mang ba hình thái (tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng hóa), thực hiện ba
chức năng khác nhau (chuẩn bị sản xuất giá trị thặng dư, sản xuất giá trị thặng dư,
thực hiện giá trị thặng dư) rồi quay lại trở về hình thái ban đầu có kèm theo giá trị
thặng dư.
Ba giai đoạn tuần hoàn của tư bản:
✓ Giai đoạn 1: giai đoạn lưu thông:
• Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường với các yếu tố sản xuất để mua tư liệu sản
xuất và sức lao động, chức năng của giai đoạn này là mua các yếu tố cho quá trình sản
xuất, tức là biến tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất.
✓ Giai đoạn 2: giai đoạn sản xuất:
• Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản sản xuất, thực hiện kết
hợp hai yếu tố là tư liệu sản xuất và sức lao động đề sản xuất ra hàng hóa và tạo ra giá
trị thặng dư, giai đoạn này được xem là giai đoạn có ý nghĩa quyết định nhất, vì nó
gắn trực tiếp với mục đích của nền sản xuất TBCN. Kết thúc giai đoạn này là tư bản
sản xuất chuyển hóa thành tư bản hàng hóa.
✓ Giai đoạn 3: Giai đoạn lưu thông:
- Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hóa, chức năng là
thực hiện giá trị của khối lượng hàng hóa đã sản xuất và tạo ra giá trị thặng dư. Trong
giai đoạn này, nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán hàng, hàng hóa
của nhà tư bản được chuyển hóa thành tiền. Kết thúc giai đoạn này, tư bản hàng hóa
chuyển thành tư bản tiền tệ. Như vậy, mục đích của nhà tư bản đã được thực hiện, tư
bản quay trở lại hình thái ban đầy trong tay chủ của nó với số lượng lớn hơn trước.
=> Sự vận động của tư bản qua ba giai đoạn nói trên là sự vận động có tính tuần
hoàn: tư bản ứng ra dưới hình thái tiền tệ và rồi đến khi quay trở về cũng dưới hình
thái tiền tệ có kèm theo giá trị thặng dư. Quá trình đó tiếp tục được lặp đi, lặp lại
không ngừng gọi là sự vận động tuần hoàn của tư bản.
- Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành bình thường trong điều kiện các giai
đoạn khác nhau của nó không ngừng được chuyển tiếp. Mặt khác, tư bản phải nằm lại
ở mỗi giai đoạn tuần hoàn trong một thời gian nhất định. Vì vậy, sự vận động tuần
hoàn của tư bản là sự vận động liên tục không ngừng; đồng thời là sự vận động đứt
quãng không ngừng.
*Phù hợp với ba giai đoạn tuần hoàn của tư bản có ba hình thái của tư bản
công nghiệp: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa:
- Để tái sản xuất diễn ra một cách bình thường thì tư bản xã hội cũng như từng
tư bản cá biệt đều tồn tại cùng một lúc dưới cả ba hình thái.
- Ba hình thái của tư bản không phải là ba loại tư bản khác nhau, mà là ba hình
thái của một tư bản công nghiệp biểu hiện trong quá trình vận động của nó. Song cũng
trong quá trình vận động ấy đã chứa đựng khả năng tách rời của ba hình thái tư bản.
- Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, khả năng tách rời đó đã làm
xuất hiện tư bản thương nghiệp và tư bản cho vay, hình thành các tập đoàn khác trong
giai cấp tư bản: chủ công nghiệp, nhà buôn, chủ ngân hàng, v.v. chia nhau giá trị
thặng dư.
Chu chuyển tư bản: là tuần hoàn tư bản được xét là quá trình định kì, thường
xuyên lặp đi lặp lại và đổi mới theo thời gian. Chu chuyển tư bản được đo lường bằng
thời gian chu chuyển hoặc tốc độ chu chuyển tư bản.
+ Thời gian chu chuyển tư bản là khoảng thời gian mà một tư bản kể từ khi được
ứng ra dưới một hình thái nhất định cho đến khi quay trở về dưới hình thái đó cùng
với giá trị thặng dư. Thời gian chu chuyển tư bản bao gồm thời gian sản xuất và thời
gian lưu thông.
+Tốc độ chu chuyển của tư bản là số lần mà một tư bản được ứng ra dưới một
hình thái nhất định quay trở về dưới hình thái đó cùng với giá trị thặng dư tính trong
một đơn vị thời gian nhất định. Thông thường tốc độ chu chuyển được tính bằng số
vòng chu chuyển của tư bản trong một năm.
Các tư bản khác nhau hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau thì số lần chu
chuyển trong một đơn vị thời gian (một năm) không giống nhau, nói cách khác, tốc độ
chu chuyển của chúng khác nhau.
Tốc độ chu chuyển của tư bản đo bằng số lần (vòng) chu chuyển của tư bản
trong một năm.Ta có công thức tính tốc độ chu chuyển của tư bản như sau:
n= CH/ch
Trong đó:
n: Số lần chu chuyển của tư bản trong 1 năm.
CH: Thời gian trong năm.
ch: Thời gian chu chuyển của một tư bản nhất định
- Như vậy, tốc độ chu chuyển của tư bản tỉ lệ nghịch với thời gian chu chuyển
của tư bản. Muốn tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm thời gian sản xuất và
thời gian lưu thông của nó.
- Lực lượng sản xuất phát triển, kỹ thuật tiến bộ, những tiến bộ về mặt tổ chức
sản xuất, việc áp dụng những thành tựu của hoá học, sinh học hiện đại vào sản xuất,
phương tiện vận tải và bưu điện phát triển, tổ chức mậu dịch được cải tiến... cho phép
rút ngắn thời gian chu chuyển của tư bản, do đó, tăng tốc độ chu chuyển của tư bản.
Căn cứ và ý nghĩa của việc phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động:
Tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận và có thời gian chu chuyển khác nhau về mặt giá
trị, do đó ảnh hưởng đến thời gian chu chuyển của toàn bộ tư bản. Căn cứ vào sự khác
nhau trong phương thức (đặc điểm) chu chuyển về mặt giá trị nhanh hay chậm của các
bộ phận tư bản để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
* Tư bản cố định
Khái niệm: Một bộ phận của tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà
xưởng, … tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó không chuyển
hết
một lần vào sản phẩm mà chuyển dần từng phần theo mức độ hao mòn của nó trong
thời
gian sản xuất.
Đặc điểm:
Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình:
Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất, hao mòn về cơ học có thể nhận thấy. Hao
mòn hữu hình do quá trình sử dụng và sự tác động của tự nhiên làm cho các bộ phận
của tư bản cố định dần dần hao mòn đi tới chỗ hỏng và phải được thay thế.
Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần túy về mặt giá trị. Hao mòn vô hình xảy ra
ngay cả khi máy móc còn tốt nhưng bị mất giá vì xuất hiện các máy móc hiện đại hơn,
rẻ hơn hoặc có giá trị tương đương, nhưng công suất cao hơn. Để tránh hao mòn vô
hình, các nhà tư bản tìm cách kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, tăng ca
kíp làm việc,
TBCố Định tham gia nhiều chu kỳ kinh doanh và luân chuyển dần dần từng phần
vào trong giá trị sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của mỗi chu kỳ kinh doanh. Hay nói cách
khác, cứ sau mỗi chu kỳ kinh doanh vốn cố định được tách thành 2 phần: một phần
chuyển vào giá thành kinh doanh của chu kỳ kinh doanh này, và phần còn lại sẽ được
cố định chờ để luân chuyển cho các chu kỳ kinh doanh tiếp theo. Cứ như thế cho đến
khi nào tư bản cố định hết thời gian sử dụng thì vốn cố định mới chấm dứt một vòng
tuần hoàn lưu chuyển giá trị.
* Tư bản lưu động
Khái niệm: Một bộ phân tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu, vật
liệu phụ, sức lao động,… giá trị của nó lưu thông toàn bộ cùng với sản phẩm và được
hoàn lại toàn bộ cho các nhà tư bản sau mỗi quá trình sản xuất.
Đặc điểm
Tư bản lưu động là biểu hiện bằng tiền về toàn bộ tài sản lưu động của doanh nghiệp
để phục vụ cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Khi tham gia vào kinh doanh,
tài sản lưu động luôn vận hành, thay thế và chuyển hóa lẫn nhau qua các công đoạn
của quá trình kinh doanh.
Chỉ tham gia vào một chu kỳ kinh doanh. Với đặc điểm này, dòi hỏi đoanh nghiệp
luôn
phải duy trì một khối lượng vốn lưu động nhất định để đầu tư, mua sắm tài sản lưu
động, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh tiến hành liên tục.
Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc độ chu
chuyển của tư bản lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu chuyển của tư
bản lưu động tăng lên sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động được sử dụng trong năm, do
đó tiết kiệm được tư bản ứng trước; mặt khác, do tăng tốc độ chu chuyển của tư bản
lưu động khả biến làm cho tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư hằng
năm tăng lên. Việc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động sẽ góp phần tăng
hiệu quả sử dụng của vốn tư bản, tiết kiệm tư bản ứng trước, đồng thời tăng tỷ suất và
khối lượng giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
* Ý nghĩa của việc phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
Việc phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động chỉ diễn ra đối với tư bản sản xuất,
căn
cứ vào tính chất chuyển giá trị vào trong sản phẩm mới. Tuy sự phân chia tư bản cố
định và tư bản lưu thông thật sự chưa làm rõ bản chất bóc lột của tư bản nhưng có ý
nghĩa to lớn đối với hoạt động của doanh nghiệp trong việc bảo tồn và tái sản xuất tư
bản cố định và lưu động, xác định đúng những chi phí hình thành sản phẩm hàng hóa.
Trong quản lý kinh tế và trong sản xuất, doanh nghiệp cần có cách thức tác động phù
hợp với tính chất vận động của từng loại tư bản để nâng cao

Câu 6: Phân tích đặc trưng về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tại sao thành phần kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo?
*Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các quy
luật của thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở
đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có sự điều tiết của Nhà nước
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Đặc trưng về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế :


Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế trong thời kì quá
độ gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể là nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một động
lực quan trọng, cho phép huy động mọi nguồn lực vào phát triển kinh tế, kích thích
cạnh tranh, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả
kinh tế.

Tại sao thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo:
Thứ nhất, là đầu tàu, hướng dẫn, dẫn dắt các hình thức sở hữu khác trong việc phát
triển các lĩnh vực đặc biệt, như các lĩnh vực cần nhiều vốn đầu tư, có hàm lượng khoa
học cao, một số lĩnh vực đặc biệt mới hình thành. Trong quá trình phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN, ngày càng xuất hiện nhu cầu hình thành một số lĩnh
vực mới đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ cao mà tự nó rất khó phát triển. Trong điều
kiện các quan hệ thị trường mới được phát triển, khu vực tư nhân còn nhỏ bé, chưa có
khả năng đầu tư lớn, khu vực sở hữu nhà nước tất yếu phải đảm nhận vai trò đầu tàu,
dẫn dắt trong những lĩnh vực mới này. Khi thực hiện vai trò này, không có nghĩa là sở
hữu nhà nước giữ vai trò thống trị độc quyền vĩnh viễn mà vai trò đầu tàu, dẫn dắt thể
hiện ở chỗ, khi các hình thức sở hữu khác đủ sức tham gia và có khả năng tham gia có
hiệu quả, Nhà nước kịp thời rút vốn ra khỏi lĩnh vực đã đầu tư, để tiếp tục thực hiện
vai trò của mình trong việc đầu tư vào những lĩnh vực mới khác.

Thứ hai, bảo đảm phát triển năng lực cạnh tranh của quốc gia. Do lịch sử phát triển,
KTNN đã đảm nhận một loạt ngành cạnh tranh. Khi khu vực tư nhân chưa kịp phát
triển, Nhà nước phải trực tiếp tham gia và đầu tư phát triển, hỗ trợ các DN đầu đàn
trong giai đoạn đầu. Khi khu vực tư nhân lớn mạnh dần, KTNN dần dần rút hoặc
chuyển đổi sở hữu và về lâu dài, KTNN có thể không cần giữ vai trò chủ đạo ở lĩnh
vực có lợi thế cạnh tranh.

Thứ ba, đối với an ninh quốc gia, KTNN thể hiện vai trò chủ đạo ở hai nội dung cơ
bản sau:
1- Nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc
gia (sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh,...).

2- Tham gia nắm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng để giữ vững định hướng xã
hội, làm đối trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế (bán buôn lương thực, xăng dầu; sản
xuất điện; khai thác khoáng sản quan trọng; một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công
nghệ thông tin quan trọng; bảo trì đường sắt, sân bay,...).Thứ tư, về mặt xã hội, do bản
chất về mặt sở hữu và mục đích hoạt động, KTNN có vai trò quan trọng trong gánh
vác chức năng xã hội. Vai trò này thể hiện ở chỗ, KTNN phải đảm nhận những ngành
ở những địa bàn khó khăn có ý nghĩa chính trị - xã hội mà tư nhân không muốn đầu
tư, thực hiện sự bảo đảm cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các
ngành sản xuất hàng hóa công cộng thiết yếu, thực hiện các chính sách an sinh xã hội,
các chương trình xóa đói, giảm nghèo,...

Câu 7: Cách mạng công nghiệp là gì? Nêu đặc trưng của cách mạng công nghiệp lần
thứ tư và vai trò của cách mạng 4.0 đến phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam?
Khái niệm:

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) là sự kết hợp
các công nghệ giúp xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học.

Cuộc CMCN lần thứ 4 được định nghĩa là “một cụm thuật ngữ cho các công
nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với các hệ thống vật lý
trong không gian ảo, Internet kết nối vạn vật (IoT) và Internet của các dịch vụ (IoS).

Bản chất của CMCN lần thứ 4 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất
cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn
mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D, công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy,…

Tóm lại, một cách hiểu đơn giản hơn: Công nghiệp 4.0 là quá trình tích hợp tất
cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình và phương thức sản xuất, kinh
doanh.

CMCN 4.0 có một số đặc trưng sau:

- Kết hợp giữa hệ thống ảo và thực thể (Cyber-Physical Systems _ CPS): CMCN 4.0
đặc trưng bởi sự hợp nhất, không có ranh giới giữa các lĩnh vực công nghệ, vật lý, kỹ
thuật số và sinh học. Đây là xu hướng kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể, vạn
vật kết nối Internet (IoT) và các hệ thống kết nối Internet (IoS) (Nguyễn Thắng và
cộng sự, 2016).
- Qui mô và tốc độ phát triển lớn, chưa có tiền lệ trong lịch sử: CMCN 4.0 diễn ra theo
cấp số nhân. Những đột phá công nghệ diễn ra trong nhiều lĩnh vực với tốc độ rất
nhanh và tương tác thúc đẩy nhau đang tạo ra một thế giới được số hóa, tự động hóa
và ngày càng trở nên hiệu quả và thông minh hơn.

- Tác động mạnh mẽ và toàn diện đến thế giới: Cuộc CMCN lần thứ tư có những tác
động to lớn về kinh tế, xã hội và môi trường ở tất cả các cấp – toàn cầu, khu vực và
trong từng quốc gia.

- Tạo ra những thay đổi to lớn trong các lĩnh vực sản xuất: Nếu như nguyên liệu chủ
đạo trong sản xuất vật chất ở các cuộc CMCN trước đây phần lớn là tài nguyên thiên
nhiên hoặc có nguồn gốc từ tự nhiên như đất đai, khoáng sản, tài nguyên rừng biển…
thì trong cuộc CMCN 4.0, “nguyên liệu” chủ yếu và quan trọng hàng đầu là chất xám.

- Mọi tồn tại trong cuộc sống thực đều có một bản sao trong thế giới ảo: Những giao
dịch trong thế giới ảo được thực hiện bằng việc kết nối Internet. Sản xuất ảo, sản
phẩm ảo, giao dịch ảo nhưng tác động nó mang lại là thật. Tính chất kết nối không
giới hạn của vạn vật từ thế giới ảo tiến tới xóa bỏ rào cản địa lý giữa các quốc gia.

Vai trò của CMCN 4.0 đến phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam:

Một là, nhờ ứng dụng hiện đại của công nghệ thông tin mang lại người dân có
nhiều cơ hội tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước, giám sát và phản biện đối với
các cơ quan công quyền, trong đó có Chính phủ. Người dân dễ dàng, thuận tiện tìm
kiếm thông tin; mức độ tin cậy, độ phong phú của thông tin gia tăng; tiết kiệm được
thời gian và công sức. Đồng thời, Chính phủ tiếp cận được những thông tin phản hồi
từ phía người dân, doanh nghiệp trở nên dễ dàng, nhanh chóng hơn, từ đó có dự báo,
chủ động điều chỉnh cho phù hợp, kịp thời và nâng cao chất lượng phục vụ người dân,
doanh nghiệp một cách tốt nhất.

Hai là, tạo ra cơ hội để nguồn nhân lực của bộ máy nhà nước nói chung, Chính phủ
nói riêng có điều kiện giao lưu với thế giới thông qua việc trao đổi chuyên gia, hợp tác
khoa học và chuyển giao công nghệ. Đồng thời, tạo động lực để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, đội ngũ chuyên gia và cán bộ, công chức, viên chức.
Ba là, ứng dụng Big Data kết hợp với AI đã và đang mang lại nhiều lợi ích giúp
Chính phủ dự đoán được tỷ lệ thất nghiệp, xu hướng nghề nghiệp của tương lai để có
điều chỉnh phù hợp. Trong đó Chính phủ sẽ ưu tiên tập trung đầu tư cho một số hạng
mục có triển vọng phát triển, cắt giảm chi tiêu, kích thích tăng trưởng kinh tế, tiết
kiệm thời gian, công sức, tiền bạc, nâng cao chất lượng các dịch vụ công

Câu 8: Hội nhập kinh tế quốc tế là gì? Phân tích tác động của hội nhập kinh tế quốc tế
đến phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Là sinh viên, anh/chị hãy cho biết bản thân
nên làm gì để góp phần phát huy tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế?

*Khái niệm: Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực
hiện gắn kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích
đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung.

*Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế:
Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong
nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc
gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế… trên quy mô toàn cầu.
Toàn cầu hóa diễn ra trên nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
trong đó, toàn cầu hóa kinh tế là xu thế nổi trội nhất, nó vừa là trung tâm vừa là cơ sở
và cũng là động lực thúc đẩy toàn cầu hóa các lĩnh vực khác.
Toàn cầu hóa đi liền với khu vực hóa. Khu vực hóa kinh tế chỉ diễn ra trong
một không gian địa lý nhất định dưới nhiều hình thức như: khu vực mậu dịch tự do,
đồng minh thuế quan, đồng minh tiền tệ, thị trường chung… nhằm mục đích hợp tác,
hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, từng bước xóa bỏ những cản trở trong việc di chuyển
vốn, lực lượng lao động, hàng hóa dịch vụ…tiến tới tự do hóa hoàn toàn những di
chuyển nói trên giữa các nước thành viên trong khu vực. Trong điều kiện toàn cầu hóa
kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế trở thành yếu tố khách quan: Toàn cầu hóa kinh tế đã
lôi cuốn tất cả các nước vào hệ thống phân công lao động quốc tế, các mối liên hệ
quốc tế của sản xuất và trao đổi ngày càng gia tăng, khiến cho nền kinh tế của các
nước trở thành một bộ phận hữu cơ và không thể tách rời nền kinh tế toàn cầu. Trong
toàn cầu kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm vị toàn cầu. Do đó, nếu
không hội nhập kinh tế quốc tế, các nước không thể tự đảm bảo được các điều kiện
cần thiết cho sản xuất trong nước.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của
các nước, nhất là các nước đang kém phát triển trong điều kiện hiện nay
Đối với các nước đang và kém phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội
để tiếp cận và sử dụng được các nguồn lực bên ngoài như tài chính, khoa học công
nghệ, kinh nghiệm của các nước cho phát triển của mình. Khi mà các nước tư bản giàu
có nhất, các công ty xuyên quốc gia đang nắm trong tay những nguồn lực vật chất và
phương tiện hùng mạnh nhất để tác động lên toàn thế giới thì chỉ cso phát triển kinh tế
mở và hội nhập quốc tế, các nước đang và kém phát triển mới có thể tiếp cận được
những năng lực này cho phát triển của mình.
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường có thể giúp cho các nước đang và kém
phát triển có thể tận dụng thời cơ phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách với các
nước tiên tiến, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng rõ rệt.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động tích cực đến việc ổn định kinh tế vĩ mô.
Việc mở cửa thị trường, thu hút vốn không chỉ thúc đẩy công nghiệp hóa mà còn tăng
tích lũy, cải thiện thâm hụt ngân sách, tạo niềm tin cho các chương trình hỗ trợ quốc tế
trong cải cách kinh tế và mở cửa.
*Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển của Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gia tăng sự liên hệ giữa nền kinh tế Việt
Nam với nền kinh tế thế giới. Do đó, quá trình hội nhập sẽ tạo ra nhiều tác động tích
cực đồng thời đưa đến nhiều thách thức đối với quá trình phát triển của Việt Nam.
Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế
 Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là mở rộng thị trường để thúc đẩy thương
mại phát triển, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng các lợi thế của
nước ta trong phân công lao động quốc tế, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng
kinh tế nhanh, bền vững .
 Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn, qua đó hình thành các lĩnh vực kinh tế
mũi nhọn để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
 Hội nhập kinh tế quốc tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm lực
khoa học công nghệ quốc gia; nâng cao khả năng hấp thụ khoa học công nghệ
hiện đại và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và
chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao chất lượng nền kinh tế.
 Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp
cận thị trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế để thay đổi công
nghệ sản xuất, tiếp cận với phương thức quản trị phát triển để nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc tế.
 Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để cải thiện tiêu dùng trong nước, người
dân được thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa. dịch vụ đa dạng về chủng loại,
mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh.
 Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm
bắt tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó xây dựng và điều
chỉnh chiến lược phát triển hợp lý.
 Hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện để
tiếp thu những giá trị tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của
văn hóa, văn minh của thế giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc.
 Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động mạnh mẽ tới chính trị, tạo điều kiện cho
cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.
 Hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật
tự quốc tế, nâng cao vai trò, uy tín và vị thế quốc tế của đất nước.
 Hội nhập kinh tế quốc tế giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn
định ở khu vực và quốc tế để tập trung cho phát triển kinh tế xã hội.
Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế
 Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh
nghiệp và ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí là phá
sản, gây nhiều hậu quả bất lợi về mặt kinh tế - xã hội.
 Hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc
gia vào thị trường bên ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những
biến động khôn lường về chính trị, kinh tế và thị trường quốc tế.
 Hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích và
rủi ro cho các nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ
làm tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng trong xã hội.
 Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển như nước ta
phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên
hướng tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động,
nhưng có giá trị gia tăng thấp. Có vị trí bất lợi và thua thiệt trong chuỗi giá trị
toàn cầu.
 Hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà
nước, chủ quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy
trì an ninh và ổn định trật tự, an toàn xã hội.
 Hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống
Việt Nam bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
 Hội nhập có thể làm tăng nguy cơ gia tăng tình trạng khủng bố quốc tế, buôn
lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp.

Tóm lại hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vừa có khả năng tạo ra những cơ hội thuận
lợi cho sự phát triển kinh tế, vừa có thể dẫn đến những nguy cơ to lớn mà hậu quả của
chúng rất khó lường.

Là sinh viên cần phải làm gì?: Cần phải chủ động thay đổi tư duy và thay đổi hành
động: chủ động học ngoại ngữ (thậm chí là học nhiều ngoại ngữ), tham gia các hoạt
động giao lưu văn hoá, tham gia các diễn đàn/hội thảo cũng như chủ động theo dõi các
tin tức, các vấn đề thời sự quốc tế hiện nay một cách chọn lộc. thay đổi tư duy theo
hướng mở, phản biện, hoà nhập chứ không hoà tan……. (Các bạn phân tích thêm nhé,
chém gió vào).

Sự vận dụng của bản thân để chuẩn bị cho hội nhập kinh tế quốc tế
Câu trả lời mẫu (nguồn copy trên mạng):
+ Bản thân em sẽ gia tăng mạnh mẽ năng lực cạnh tranh của bản thân bằng cách tích
cực tập trung gia tăng các chỉ số chất lượng lao động bao gồm : chỉ tiêu đánh giá về
thể lực lao động. Các chỉ tiêu đánh giá về trí tuệ của lao động (trình độ học
vấn,chuyên môn kỹ thuật). Các chỉ tiêu đánh giá về nhân cách (đạo đức, lối sống, tác
phong trong lao động…).Các chỉ tiêu đánh giá về tính năng động xã hội của lao động
(khả năng sẵn sàng làm việc, tình trạng việc làm, khả năng cạnh tranh, khả năng thích
ứng trong công việc…)
-Về việc năng cao thể lực lao động: Bản thân em sẽ tự đưa ra cho mình một chế độ ăn
uống, nghỉ ngơi và chế độ luyện tập sức khỏe lành mạnh nhất.
-Về nâng cao chỉ tiêu về trí tuệ lao động: Với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
mạnh mẽ như hiện tại, khi mà trình độ khoa học công nghệ của các nước đã vượt xa
Việt Nam khá nhiều điều này đòi hỏi các sinh viên như em phải chăm chỉ học hỏi
không chỉ trên giảng đường hay trong các khóa học mà còn cần tự tìm tòi học hỏi về
những tri thức mới của các nước phát triển liên quan đến ngành nghề chuyên môn của
bản thân đặc biệt là về việc áp dụng công nghệ vào thực tế công việc và cuộc sống.
Muốn giao lưu, học hỏi được những kiến thức bổ ích đó, trước tiên em sẽ trau dồi cho
bản thân một vốn ngoại ngữ thật tốt, bởi đó là điều kiện cơ bản tiên quyết để sẵn sàng
hội nhập. Bên cạnh đó, bản thân em sẽ tích cực tham gia vào việc cộng tác làm việc
cùng các doanh nghiệp ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường để có thêm kinh
nghiệm và nâng cao khả năng áp dụng kiến thức vào thực tế.
-Về việc phát triển nhân cách đạo đức của bản thân: Em sẽ luôn lấy phong cách sống,
phong cách làm việc, nhân cách đạo đức của Bác làm chuẩn, làm cơ sở trong việc rèn
luyện đạo đức của bản thân.
- Về việc phát triển các chỉ tiêu đánh giá về tính năng động xã hội của lao động: Điều
này đòi hỏi bản thân cần có sự rèn luyện ngay từ trên ghế nhà trường bằng việc dành
một chút thời gian đi thực tập trải nghiệm các công việc thực tế. Việc này sẽ giúp bản
thân không những có thêm kinh nghiệm mà còn rèn được khả năng thích ứng với công
việc cũng như tâm lí luôn sẵn sàng làm việc không do dự, nề hà.
+ Luôn luôn giữ cho bản thân một tâm lí mở, sẵn sàng đón nhận tinh hoa văn hóa của
thế giới nhưng vần luôn chắt lọc, giữ gìn được những bản sắc của dân tộc.
+ Tích cực ham gia tích cực công tác xã hội, công tác đoàn thể, hoạt động đội, nhóm,
học các khóa học ngắn hạn …
+ Xây dựng các kế hoạch học tập hàng ngày một cách thực tế và mềm dẻo nhằm duy
trì sự cân bằng giữa các hoạt động trong cuộc sống sinh viên

HAI CÂU RIÊNG CỦA THIEN DINH KHÔNG CÓ TRONG 8


CÂU:
Câu 4: phân tích mâu thuẫn công thức chung của tư bản. Vì sao hàng hóa sức lao động
là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn này?
1. Công thức chung của tư bản:
Trong lưu thông hàng hóa giản đơn H-T-H, T không phải là tư bản. Ở đây T
chỉ là phương tiện để đạt tới một mục đích bên ngoài lưu thông.
Chỉ trong lưu thông T-H-T’ thì T mới là tư bản. Ở đây T vừa là điểm khởi đầu
vừa là điểm kết thúc của quá trình lưu thông, H chỉ là khâu trung gian. Tiền ở đây
không chi ra dứt khoát mà chỉ ứng ra rồi thu về nhiều hơn.
Mục đích của lưu thông tư bản T-H-T’ không phải là giá trị sử dụng mà là giá
trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Chính vì thế công thức chung của tư bản là T-H-T’,
trong đó T’=T+∆T. ∆T là số tiền trội hơn so với số tiền đã ứng ra (giá trị thặng dư). T-
H-T’ đúng cho vận động của tư bản: Với tư bản công nghiệp là những giai đoạn T-H
và H-T’, còn tư bản cho vay lấy lãi là từ công thức chung được rút gọn thành T-T’.
Như vậy: “Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư (GTTD)”.
Sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong CNTB, có thể định
nghĩa đầy đủ: “Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động
không công của công nhân làm thuê”.
2. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản:
- Công thức chung của tư bản: T-H-T' (T’ = T + ∆T). Vậy ∆T xuất hiện từ
đâu?
+ Trong lưu thông:
Trong lưu thông, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì cũng không tạo
ra ∆T
* Trường hợp trao đổi ngang giá: Chỉ là sự thay đổi của hình thái giá trị từ T-H
và từ H-T nhưng tổng giá trị và phần giá trị của mỗi bên tham gia trao đổi trước và sau
đều không thay đổi. Tuy nhiên, về giá trị sử dụng thì đôi bên đều có lợi.
* Trường hợp trao đổi không ngang giá, có thể có ba trường hợp xảy ra:
Thứ 1, Trong trường hợp nhà tư bản bán hàng hóa cao hơn giá trị, nhưng đến
lượt anh ta lại là người đi mua (vì không có ai chỉ bán mà không mua) thì phải mua
hàng hóa cao hơn giá trị ấy. Hành vi bán hàng hóa cao hơn giá trị không mạng lại bất
cứ chút thặng dư (∆T) nào.
Thứ 2, Trường hợp nhà tư bản cố mua hàng hóa thấp hơn giá trị cũng không
mang lại chút thặng dư (∆T) nào. Vì đến khi anh ta bán cũng buộc phải bán hàng hóa
thấp hơn giá trị.
Thứ 3, nếu xã hội có một số kẻ lường gạt chuyên mua rẻ, bán đắt thì cái ∆T hắn
có là do chiếm đoạt của người khác mà có. Cái hắn được là cái người khác mất đi,
nhưng trong toàn xã hội thì tổng giá trị của hàng hóa là không thay đổi.
Như vậy, trong lưu thông dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá đều
không tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà tư bản.
+ Ngoài lưu thông:
Nếu người trao đổi vẫn đứng 1 mình với hàng hóa của anh ta, thì giá trị của
hàng hóa ấy không hề tăng lên.
Nếu người sản xuất muốn sáng tạo thêm thặng dư thì phải bằng lao động của
chính mình. Chẳng hạn da thuộc phải trở thành giày da, ở đó giày da có giá trị lớn hơn
da thuộc vì nó đã thu hút nhiều lao động vào trong giày da. Còn giá trị của da thuộc
vẫn không đổi.
Vậy là "Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở
bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông, đồng thời không phải trong
lưu thông".
Đó chính là mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản. Để giải quyết mâu
thuẫn đó, C.Mác đã chỉ rõ: "Phải lấy những quy luật nội tại của lưu thông hàng hoá
làm cơ sở".
3. Hàng hoá sức lao động là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công
thức chung của tư bản:
a) Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa: “Sức lao
động, đó là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể một con người đang sống, và
được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.”
Không phải sức lao động nào cũng trở thành hàng hóa. Ví dụ: Trong xã hội nô
lệ thì sức lao động của nô lệ không phải là hàng hóa vì bản thân anh ta đã thuộc sở
hữu của chủ nô, anh ta không có quyền bán sức lao động. Người thợ thủ công tự do
tuy được tùy ý sử dụng sức lao động của mình nhưng sức lao động của anh ta cũng
không phải là hàng hóa vì anh ta chỉ sản xuất tự cung tự cấp nuôi sống mình, chứ chưa
buộc phải bán sức lao động để kiếm sống (VD này có thể ghi hoặc không).
Sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi đồng thời thỏa mãn hai điều kiện sau:
Thứ nhất, Người lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động của
mình và có quyền bán sức sức lao động của mình như một hàng hóa.; Thứ hai, Người
có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt trở thành
“vô sản”, để tồn tại anh ta buộc phải bán sức lao động của mình để kiếm sống.
Sức lao động biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư
bản. Nhưng trước CNTB thì hàng hóa sức lao động chưa xuất hiện. Chỉ dưới CNTB
thì hàng hóa sức lao động mới xuất hiện và trở thành phố biến.
b) Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động: Giá trị hàng hóa sức lao động
cũng do thời gian LĐ XH cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức LĐ quyết định.
Muốn SX và tái sản xuất ra sức lao động người công nhân phải tiêu dùng một lượng
tư liệu sinh hoạt cần thiết về ăn, ở, mặc, học nghề... Ngoài ra họ còn phải thỏa mãn
những nhu cầu của gia đình và con cái.
Giá trị của hàng hóa sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị của những tư
liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động. Giá trị ấy được hợp thành bởi:
Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao
động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân; Phí tổn đào tạo người công
nhân; Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái
người công nhân. Sự biến đổi giá trị hàng hóa sức lao động một mặt tăng lên do sự
tăng lên của nhu cầu trung bình của xã hội về hàng hóa, dịch vụ, học tập, học
nghề... mặt khác lại bị giảm xuống do sự tăng năng suất lao động xã hội.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng chỉ thể hiện ra trong quá trình
tiêu dùng sức lao động. Nhưng khác với hàng hóa thông thường, quá trình tiêu dùng
hàng hóa sức lao động lại là quá trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản
thân hàng hóa sức lao động.
Nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường một loại hàng hoá đặc biệt, đó là hàng
hoá sức lao động, mà giá trị sử dụng của nó có tính chất đặc biệt là nguồn gốc sinh ra
giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Phần lớn hơn
đó là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. Chính đặc tính này đã làm cho
hàng hoá sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển thành tư bản. Do đó việc
tìm ra và lý giải phạm trù hàng hoá sức lao động được coi là chìa khoá để giải quyết
mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản. Nếu "T" của tư bản không dùng để bóc
lột sức lao động của công nhân thì không thể có "T'=T+∆T”.

Câu 6: phân tích bản chất, động cơ của tích lũy tư bản. Các nhân tố ảnh hưởng đến
quy mô tích lũy tư bản. Hệ quả của tích lũy tư bản.
Phân tích bản chất và động cơ của tích lũy tư bản
Để thực hiện tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản phải biến một bộ phận giá trị
thặng dư thành tư bản phụ thêm, sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm
được gọi là tích lũy tư bản. Do đó, bản chất của tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một
bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản hay là quá trình tư bản hóa giá trị thặng dư.
Như vậy, tích lũy tư bản chính là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng
mở rộng. Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hóa thành tư bản được là vì giá trị thặng
dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới.
Nguồn gốc của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư. Nhờ có tích lũy tư bản, quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không ngừng mở rộng. Quá trình tích lũy tư bản đã làm
cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hóa biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ
nghĩa.
Động cơ thúc đẩy tích lũy và tái sản xuất mở rộng là quy luật kinh tế tuyệt đối
của chủ nghĩa tư bản - quy luật giá trị thặng dư. Để thực hiện mục đích đó, các nhà tư
bản không ngừng tích lũy để mở rộng sản xuất, xem đó là phương tiện căn bản để tăng
cường chiếm đoạt giá trị thặng dư. Mặt khác, cạnh tranh buộc các nhà tư bản không
ngừng gia tăng tư bản cá biệt bằng cách đẩy nhanh tích lũy tư bản.
Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư bản
Quy mô tích lũy phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư thu được và tỷ lệ
phân chia giá trị thặng dư thành quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản. Với tỷ
lệ phân chia giá trị thặng dư thành quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng nhất định, thì các
nhân tố góp phần làm tăng quy mô tích lũy bao gồm:
- Thứ nhất, nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư. Tỷ suất giá trị thặng dư tăng sẽ tạo
tiền đề để tăng quy mô giá trị thặng dư. Từ đó mà tạo điều kiện để tăng quy mô tích
lũy.
- Thứ hai, nâng cao năng suất lao động. Năng suất lao động tăng giúp thu được
nhiều giá trị thặng dư hơn, góp phần tạo điều kiện cho phép tăng quy mô tích lũy.
- Thứ ba, sử dụng hiệu quả máy móc. Các Mác gọi việc này là chênh lệch giữa
tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Theo Các Mác, máy móc được sử dụng toàn bộ
tính năng của nó, song, giá trị chỉ được tính dần vào giá trị sản phẩm qua khấu hao.
Sau mỗi chu kỳ như thế, máy móc vẫn hoạt động toàn bộ những giá trị của bản thân
nó đã giảm dần do tính giá khấu hao để chuyển vào giá trị sản phẩm. Hệ quả là, mặc
dù giá trị đã bị khấu hao, song, tính năng hay giá trị sử dụng thì vẫn nguyên như cũ,
như lực lượng phục vụ không công trong sản xuất. Sự phục vụ không công được lao
động sống nắm lấy và làm cho chúng hoạt động. Chúng được tích lũy lại cùng với
tăng quy mô tích lũy tư bản.
- Thứ tư, đại lượng tự bản ứng trước. Nếu thị trường thuận lợi, hàng hóa luôn
bán được, tư bản ứng trước càng lớn sẽ là tiền đề cho tăng quy mô tích lũy.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về lý luận, nghiên cứu tích lũy tư bản giúp người học hiểu được làm tăng quy
mô tích lũy tư bản. Khẳng định muốn tái sản xuất mở rộng phải tích lũy tư bản, tích
lũy vốn.
Về thực tiễn, muốn tăng quy mô tích lũy tư bản, vốn cần khai thác tốt nhất lực
lượng lao động xã hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để công suất của máy
móc, thiết bị và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.
Hệ quả của tích lũy tư bản
Thứ nhất, tích luỹ tư bản làm tăng tích tụ và tập trung tư bản
- Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tự bản hóa
giá trị thặng dư. Tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản cá biệt đồng thời làm tăng quy
mô tư bản xã hội do giá trị thặng dư được biến thành tư bản phụ thêm. Tích tụ tư bản
là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản.
- Tập trung tư bản là sự tăng lên của quy mô tư bản cá biệt mà không làm tăng
quy mô tư bản xã hội do hợp nhất các tư bản cá biệt vào một chỉnh thể tạo thành một
tư bản cá biệt lớn hơn. Tập trung tư bản có thể được thực hiện thông qua sáp nhập các
tư bản cá biệt với nhau.
- Tích tụ và tập trung tư bản có điểm giống nhau là chúng đều làm tăng quy mô
của tư bản cá biệt. Nhưng giữa chúng lại có những điểm khác nhau:
Một là, nguồn để tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, do đó, tích tụ tư bản làm tăng
quy mô của tư bản cá biệt, đồng thời, làm tăng quy mô của tư bản xã hội. Còn nguồn
để tập trung tư bản là những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội, do đó, tập trung tư bản
chỉ làm tăng quy mô của tư bản cá biệt, mà không làm tăng quy mô của tư bản xã hội.
Hai là, nguồn để tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, xét về mặt đó, nó phản ánh
trực tiếp mối quan hệ giữa tư bản và lao động: nhà tư bản tăng cường bóc lột lao động
làm thuê để tăng quy mô của tích tụ tư bản. Còn nguồn để tập trung tư bản là những tư
bản cá biệt có sẵn trong xã hội do cạnh tranh mà dẫn đến sự liên kết hay sáp nhập, xét
về mặt đó, nó phản ánh trực tiếp quan hệ cạnh tranh trong nội bộ giai cấp các nhà tư
bản; đồng thời, nó cũng tác động đến mối quan hệ giữa tư bản và lao động.
- Tích tụ và tập trung tư bản quan hệ mật thiết với nhau. Tích tụ tư bản làm tăng
thêm quy mô và sức mạnh của tư bản cá biệt, do đó, cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, dẫn
đến tập trung nhanh hơn. Ngược lại, tập trung tư bản tạo điều kiện thuận lợi để tăng
cường bóc lột giá trị thặng dư, nên đẩy nhanh tích tụ tư bản. Ảnh hưởng qua lại nói
trên của tích tụ và tập trung tư bản làm cho tích lũy tư bản ngày càng mạnh. Tích tụ và
tập trung tư bản đều góp phần tạo tiền đề để có thể thu được nhiều giá trị thặng dư hơn
cho người mua hàng hóa sức lao động. Tập trung tư bản có vai trò rất lớn đối với sự
phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhờ tập trung tư bản mà xây dựng được
những xí nghiệp lớn, sử dụng được kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
Như vậy, quá trình tích lũy tư bản gắn với quá trình tích tụ và tập trung tư bản
ngày càng tăng, do đó nền sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành nền sản xuất xã hội hóa
cao độ, làm cho mâu thuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản càng sâu sắc thêm.
Thứ hai , tích lũy tư bản làm tăng cấu tạo hữu cơ tư bản
Trong quá trình tích lũy tư bản, tư bản chẳng những tăng lên về quy mô, mà còn
không ngừng biến đổi trong cấu tạo của nó.
- Về mặt hình thái hiện vật, mỗi tư bản đều bao gồm tư liệu sản xuất và sức lao
động để vận dụng những tư liệu sản xuất đó. Tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số
lượng sức lao động sử dụng những tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất gọi là cấu
tạo kỹ thuật của tư bản. Quan hệ này có tính tất yếu về mặt kỹ thuật, do trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất quyết định .
Cấu tạo kỹ thuật của tư bản ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản. Điều đó biểu thị ở số lượng tư liệu sản xuất mà một công nhân sử dụng
ngày càng tăng lên.
- Về mặt giá trị, mỗi tư bản đều chia thành hai phần : tư bản bất biến (c) và tư
bản khả biến (v). Tỷ lệ giữa số lượng giá trị của tư bản bất biến và số lượng giá trị của
tư bản khả biến cần thiết để tiến hành sản xuất gọi là cấu tạo giá trị của tư bản.
Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói
chung , những sự thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật của tư bản sẽ dẫn đến những sự thay
đổi trong cấu tạo giá trị của tư bản. Để biểu hiện mối quan hệ đó, Các Mác dùng phạm
trù cấu tạo hữu cơ của tư bản.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản (ký hiệu c/v) là cấu tạo giá trị được quyết định bởi
cấu tạo kỹ thuật và phản ánh sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản.
Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, cấu tạo kỹ thuật của tư bản ngày
càng tăng, kéo theo sự tăng lên của cấu tạo giá trị của tư bản, nên cấu tạo hữu cơ của
tư bản cũng ngày càng tăng lên. Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản biểu hiện ở
chỗ tự bản bất biến tăng tuyệt đối và tương đối, còn tư bản khả biến có thể tăng tuyệt
đối , nhưng lại giảm xuống một cách tương đối.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên trong quá trình tích lũy chính là nguyên nhân
trực tiếp gây ra nạn thất nghiệp trong chủ nghĩa tư bản. Còn nguyên nhân sâu xa của
nạn thất nghiệp lại chính là ở quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Thứ ba, quá trình tích lũy tư bản không ngừng làm tăng chênh lệch giữa thu
nhập của nhà tư bản với thu nhập của người lao động làm thuê cả tuyệt đối lẫn tương
đối.
Thực tế, xét chung trong toàn bộ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa , thu nhập mà các
nhà tư bản có được, lớn hơn gấp rất nhiều lần so với thu nhập dưới dạng tiến công của
người lao động làm thuê. C.Mác đã quan sát thấy thực tế này và ông gọi đó là sự bần
cùng hóa người lao động.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Hiểu rõ quy luật chung, xu hướng vận động của tích lũy tư
bản gắn liền với sự gia tăng của tích tụ, tập trung tư bản và cấu tạo hữu cơ.
- Ý nghĩa thực tiễn;
+ Tích tụ và tập trung tư bản, vốn: có quan hệ với nhau và tác động thúc đẩy
nhau, làm tăng thu nhập quốc dân và sử dụng hợp lý có hiệu quả các nguồn vốn của
xã hội trong quá trình sản xuất.
+ Quá trình tích lũy tư bản chủ nghĩa một mặt thúc đẩy CNTB phát triển mạnh
mẽ, mặt khác nảy sinh nhiều mâu thuẫn, hạn chế, dẫn đến phân hóa thu nhập ngày
càng sâu sắc, bần cùng hóa giai cấp công nhân, nhân dân lao động.
+ Quá trình tích lũy tư bản (vốn) làm cho cấu tạo hữu cơ của tư bản (vốn) tăng
lên xuất hiện thất nghiệp là vấn đề có tính quy luật dưới sự tác động của tiến bộ khoa
học - công nghệ (đặc biệt trong điều kiện CMCN 4.0), cần có những dự báo về xu
hướng này để tổ chức, quản lý nguồn nhân lực hiệu quả. Để đáp ứng sự tiến bộ của
khoa học - kỹ thuật, người lao động cần nâng cao tay nghề, chuyển đổi ngành nghề
thích hợp.

You might also like