You are on page 1of 34

ĐỀ CƯƠNG TRIẾT 2

Câu 1: Phân tích điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa

● Khái niệm nền sản xuất hàng hóa


Là một kiểu tổ chức kinh tế- xã hội trong đó sản phẩm được làm ra để trao đổi,
mua bán trên thị trường. Trong đó, mua bán là hình thức trao đổi mà tiền là
phương tiện môi giới còn thị trường là nơi diễn ra mua bán, trao đổi hàng hóa->
thông tin để nhận biết sản xuất hàng hóa.
Sản xuất tự cung tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế-xã hội mà trong đó sản phẩm được
tạo ra nhằm phục vụ nhu cầu của người sản xuất
● Đặc trưng, ưu thế của sản xuất hàng hóa

SXHH SXTCTC

Mục đích sản Tối đa hóa lợi ích Phục vụ nhu cầu người
xuất sản xuất

Tích chất nền Mở Đóng


sản xuất

Đặc trưng Cạnh tranh (xu hướng phát triển) Trì trệ, cố thủ, cầm chừng

Sự vận động Quy mô (1-n) 1-1

Chủ thể kinh tế - (2-n) - 1


- Năng động, sáng tạo, nhạy - Bằng lòng, cổ hủ,
bén định kiến
- Khách quan - Chủ quan
- Người tiêu dùng thông
thái
Kết quả Dư thừa vật chất, đời sống vật Sự nghèo nàn vật chất-
chất-tinh thần đa dạng, phong tinh thần
phú

● Điều kiện ra đời


✔ Phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành, nghề
khác nhau. Kéo theo sự phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa sản xuất: mỗi
người chỉ tạo ra một vài loại sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi
phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau, do đó họ cần đến sản phẩm của nhau buộc phải
trao đổi hàng hóa để thảo mãn nhu cầu mỗi người.
✔ Tính tách biệt tương đối về kinh tế giữa những người sản xuất
Sự tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau nề tư liệu sản xuất mà khởi thủy
là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu tư liệu sản xuất là
người sở hữu sản phẩm lao động. Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất đã làm cho những người sản xuất độc lập, đối lập với nhau nhưng họ lại nằm
trong hệ thống phân công lao động xã hội nên phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu
dùng. Trong điều kiện ấy, người này muốn tiêu dùng hàng hóa của người kia buộc phải
thông qua trao đổi, mua bán.
Câu 2: Trình bày khái niệm hàng hóa và hai thuộc tính của hàng hóa. Phân tích mối
quan hệ của hai hàng hóa đó?

*Khái niệm: Hàng hoá là sản phẩm của lao động, có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của
con người thông qua trao đổi và mua bán.

Ví dụ: Hàng hoá có thể ở dạng hữu hình: Lương thực, thực phẩm, sắt, thép ... hoặc ở
dạng vô hình như những dịch vụ: Vận tải, thương mại hay sự phục vụ của giáo viên, bác
sỹ, nghệ sỹ…

*Hai thuộc tính của hàng hoá:


- Giá trị sử dụng (UV): là công dụng của hàng hoá có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của
con người.

Ví dụ: Giá trị sử dụng của cơm là để ăn, của áo là để mặc, của máy móc, thiết bị, nguyên
nhiên vật liệu là để sản xuất…

+ Giá trị sử dụng làm cho hàng hóa khác nhau về chất (yếu tố tự nhiên cấu thành, cách
khai thác, chủ thể sử dụng).

+ Giá trị sử dụng hàng hoá là do thuộc tính tự nhiên của hàng hoá quyết định. Giá trị sử
dụng là một phạm trù vĩnh viễn. Xã hội loài người càng phát triển thì càng phát hiện ra
nhiều thuộc tính tự nhiên có ích của hàng hóa và lợi dụng những thuộc tính tự nhiên đó
để tạo ra nhiều giá trị sử dụng khác nhau. Chẳng hạn, than đá ngày xưa chỉ dùng làm
chất đốt, nhưng khi khoa học kỹ thuật phát triển nó còn làm nguyên liệu cho một số
ngành công nghệ hoá chất.

+ Giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.

- Giá trị của hàng hoá:


+ Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng giữa 1 giá trị sử dụng này với 1 giá trị sử dụng
khác.
xA = yB (trong đó: (x,y): tỷ lệ về lượng; (A,B): GTSD)
Điều kiện trao đổi: A khác B (phản ánh mục đích)
Cơ sở của trao đổi: A, B đều là sản phẩm của lao động, là kết quả của lao động, là kết
tinh của quá trình sản xuất.
VD: 2m vải = 10 kg thóc.
+ Giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng
hoá (hay Giá trị là hao phí lao động kết tinh trong hàng hóa)
+ Giá trị chỉ được thực hiện thông qua trao đổi. Sản phẩm nào mà lao động hao phí để
sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao => Giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn
liền với nền sản xuất hàng hóa. Giá trị là nội dung, là cơ sở của GT trao đổi, còn GT trao
đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị.
+ Giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
* Mối quan hệ giữa 2 thuộc tính:
Hai thuộc tính của hàng hóa có mối quan hệ ràng buộc với nhau, vừa thống nhất vừa mâu
thuẫn:
+ Thống nhất: Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hoá. Nghĩa là
một vật phải có đủ hai thuộc tính này mới là hàng hoá. Nếu thiếu một trong hai thuộc tính
đó vật phẩm sẽ không phải là hàng hoá. Chẳng hạn, một vật có ích (tức có giá trị) nhưng
không do lao động tạo ra (tức không có kết tinh lao động) như: Không khí, ánh sáng, tự
nhiên, ... sẽ không phải là hàng hoá.
+ Mâu thuẫn:
- Với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hoá không đồng nhất về chất. Ngược lại, với
tư cách là giá trị thì hàng hoá lại đồng nhất về chất, đều là sự kết tinh của lao động đã
được vật hoá.
- Tuy giá trị sử dụng và giá trị cùng tồn tại trong một hàng hoá nhưng quá trình thực hiện
chúng lại tách rời nhau cả về không gian, thời gian và đối lập nhau về chủ thể kinh tế:
Giá trị sử dụng Giá trị
Thời gian Có trước, nhưng được thực hiện Thực hiện trước
sau
Không gian Trong lĩnh vực tiêu dùng Trên thị trường
Người tiêu dùng Mục đích của NTD Phương tiện (Trả giá trị cho
NSX)
Người sản xuất Phương tiện (Tạo ra GTSD) Mục đích của NSX

Câu 3: Tại sao giá trị sử dụng làm hàng hóa khác nhau về chất và giá trị thì làm
hàng hóa giống nhau?
Giá trị sử dụng là công dụng của hàng hóa thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người. Giá trị sử dụng của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa quyết
định, hay là yếu tố thuộc về bản chất giúp phân biệt hàng hóa này với hàng hóa khác. Với
ý nghĩa như vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa là một phạm trù vĩnh viễn hay làm cho
hàng hóa khác nhau về chất.
Giá trị là hao phí lao động kết tinh trong hàng hóa, biểu hiện trước hết thông qua
giá trị trao đổi (quan hệ về số lượng, là 1 tỉ lệ theo đó những giá trị sử dụng loại này được
trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác). Hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau
(tức là khác nhau về chất) hoàn toàn có thể trao đổi với nhau nếu chúng có cùng giá trị.
Nói theo cách khác thì giá trị làm cho hàng hóa giống nhau khi chúng được trao đổi với
nhau dựa trên một cơ sở chung là có cùng hao phí lao động để sản xuất ra. Giá trị là một
phạm trù lịch sử, gắn liền với nền sản xuất hàng hóa, là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
Lấy ví dụ 1m vải= 10kg thóc
✔ Giá trị sử dụng của vải là để may quần áo, còn của thóc là để tạo lương thực thực
phẩm phục vụ nhu cầu của con người. Chính giá trị sử dụng khác nhau hay chính sự khác
biệt về chất của hai loại hàng hóa trên giúp ta phân biệt được chúng với nhau và với các
loại hàng hóa khác.
✔ Tuy nhiên, xét về giá trị thì chúng giống nhau vì đều là sản phẩm của lao động. Để
sản xuất ra vải và thóc, người thợ thủ công và người nông dân đều phải hao phí lao động
để tạo ra chúng và hao phí lao động để tạo ra 1m vải tương đương hao phí lao động để tạo
ra 10kg thóc.
Câu 4: Trình bày lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
hàng hóa
* Lượng giá trị hàng hóa: là lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa.
- Thước đo lượng giá trị của hàng hóa: thời gian lao động xã hội cần thiết.
- Thời gian lao động cá biệt: hao phí thời gian (lao động) cá biệt để sản xuất hàng hóa =>
Quyết định lượng giá trị cá biệt.
- Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm trong điều kiện xã hội trung bình (trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo
trung bình, cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định).

- Công thức: ∑ t i . qi
trong đó: ti là hao phí lao động cá biệt; qi là sản lượng cá biệt;
t−¿ ❑

i=1 , n ⃐ ;
n ∈ N ¿ ¿: số nhóm sản xuất (trong 1 ngành)

* Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
- Năng suất lao động là sức sản xuất của lao động. Nó được đo bằng lượng sản phẩm sản
xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra
một đơn vị sản phẩm. Khi năng suất lao động tăng lên nghĩa là khối lượng hàng hóa sản
xuất ra tăng lên trong cùng thời gian lao động làm cho thời gian lao động cần thiết đẻ sản
xuất 1 đơn vị hàng hóa giảm xuống. Do đó, khi năng suất lao đọng tăng lên, giá trị hàng
hóa sẽ giảm xuống và ngược lại.
- Cường độ lao động là đại lượng chỉ mức độ hao phí sức lao động trong một đơn vị thời
gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động. Nếu
cường độ lao động tăng lên thì số lượng (khối lượng) hàng hóa sản xuất ra tăng lên và sức
hao phí lao động cũng tăng lên tương ứng nên giá trị hàng hóa không đổi. Tăng cường độ
thực chất cũng giống kéo dài thời gian lao động nen hao phí lao động trong 1 đơn vị sản
phẩm không đổi.
- Mức độ phức tạp của lao động: Lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản
đơn là lao động mà một người lao động bình thường không cần qua đào tạo cũng có thể
thực hiện được. Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo mới có thể tiến
hành được. Trong cùng thời gian, lao động phức tạp tạo nhiều giá trị hơn lao động giản
đơn. Lao động phức tạp thực chất là lao động giản đơn được nhân lên.
Câu 5: Trình bày nguồn gốc, bản chất, chức năng của tiền tệ?
- Nguồn gốc của tiền: Tiền xuất hiện khi trao đổi và sản xuất hàng hóa ngày càng phổ
biến. Tiền tệ là giai đoạn phát triển cao của các hình thái giá trị. Từ vật ngang giá ngẫu
nhiên → vật ngang giá đặc thù → vật ngang giá chung → vàng và bạc (mang giá trị).
- Bản chất của tiền tệ:
✔ Hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung thống nhất cho tất cả các
hàng hóa.
✔ Thể hiện lao động xã hội
✔ Biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.
- Chức năng của tiền tệ:
❖ Thước đo giá trị: tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị hàng hóa. Khi đó, giá
trị hàng háo biểu hiện bằng 1 lượng tiền gọi là giá cả. Giá cả hàng hóa là hình thức biểu
hiện bằng tiền của giá trị, nó có thể lên xuống xung quanh trục giá trị nhưng tổng giá cả
luôn bằng giá trị.
❖ Phương tiện lưu thông
✔ Công thức lưu thông: H – T – H: Trong công thức này, tiền trở thành phương tiện
trao đổi hàng hóa giữa người mua và người bán, làm cho hành vi mua-bán có thể tách rời
nhau cả về không gian và thời gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm
mống của khủng hoảng kinh tế
✔ Qui luật lưu thông tiền tệ: người bán đỏi hàng lấy tiền rồi lại lấy tiền đó để mua
hàng hóa mà mình cần, do đó, tiền chỉ đóng vai trò chốc lát trong lưu thông
✔ Công thức số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông:
M = (P.Q)/V
Trong đó: M-phương tiện cần thiết cho lưu thông
P-mức giá cả
Q-khối lượng hành hóa lưu thông
V-số vòng luân chuyển trung bình của một đơn vị tiền tệ
❖ Phương tiện thanh toán: tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả tiền mua chịu
hàng…tiền làm phương tiện thanh toán có tác dụng đáp ứng kịp thời những nhu cầu của
người sản xuất hay tiêu dùng ngay cả khi họ chưa có hoặc không có đủ tiền. Nhưng nó
cũng làm cho khả năng khủng hoảng kinh tế tăng lên nếu hệ thống chủ nợ-con nợ bị phá
vỡ.
❖ Phương tiện cất trữ: tiền được rút khỏi lưu thông và cất giữ lại để khi cần mang ra
mua hàng. Chỉ có tiền vàng, tiền bạc, các của cải bằng vàng mới thực hiện được chức
năng lưu trữ. Ngoài ra, tiền còn có tác dụng đặc biệt là dự trữ cho lưu thông.
❖ Tiền tệ thế giới: chức năng này xuất hiện khi tiền ra ngoài biên giới quốc gia, hình
hành quan hệ buôn bán giữa các nước. Việc trao đổi tiền của nước này sang tiền của nước
khác phải tuân theo tỉ giá hối đoái, tức là giá cả của một đồng tiền nước này được tính
bằng đồng tiền của nước khác.
HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
Câu 6: Điều kiện để tiền trở thành tư bản?
Điều kiện 1: Tiền phải đủ lớn để mua được tư liệu sản xuất và được sử dụng để bóc lột
sức lao động của người khác.
Điều kiện 2: Tiền phải được đưa vào lưu thông.
Câu 7: So sánh hai công thức: H – T – H (1) và T – H – T’ (2)
- Giống nhau: đều phản ánh sự vận đông, quan hệ chung của kinh tế hàng hóa:
+ (1) và (2) đều bao gồm hai hành vi đối lập nhau là mua và bán.
+ Hai yếu tố vật chất đối diện nhau là tiền và hàng.
+ Đều biểu hiện quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán
- Khác nhau:
Lưu thông HH giản đơn Lưu thông của tư bản
Công thức H–T–H T – H – T’
Trình tự Bắt đầu bằng việc bán (H – T) Bắt đầu bằng việc mua (T – H) và
và kết thúc bằng việc bán (H – T).
Vị trí yếu tố kết thúc bằng việc mua (T – T vừa là điểm xuất phát, vừa là
H). điểm kết thúc, T ứng ra rồi thu về,
H vừa là điểm xuất phát, vừa H là trung gian.
Mục đích vận là điểm kết thúc, T đóng vai Giá trị, giá trị tăng thêm → công
động trò trung gian. thức đầy đủ là: T – H – T’ (
Giá trị sử dụng, H phải có T ' =T + ∆ T ); ∆ T là giá trị thặng
GTSD khác nhau. dư.
Giới hạn của vận Không có giới hạn
động Có giới hạn
Câu 8: Hàng hóa sức lao động. Điều kiện để SLĐ trở thành hàng hóa? Phân tích 2
thuộc tính của hàng hóa sức lao động? Vì sao sức lao động lại trở thành hàng hóa
đặc biệt?
* Khái niệm: Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và
tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra
sử dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.
* Điều kiện để SLĐ trở thành hàng hóa:
+ Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể của mình, phải có khả năng chi
phối, làm chủ sức lao động ấy và chỉ bán sức lao động trong một thời gian nhất định.
+ Thứ hai, người lao động không còn tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình thực hiện lao
động và cũng không có của cải gì khác, muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động cho
người khác sử dụng.
=> Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành hàng hóa.
Sức lao động biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản.
* Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động:
- Giá trị của hàng hóa sức lao động do số lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và
tái sản xuất ra nó quyết định. Giá trị của sức lao động được quy về giá trị của toàn bộ tư
liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định, để duy trì
đời sống của công nhân làm thuê và gia đình họ.
Giá trị hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ nó bao hàm
cả yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử, phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cảu từng nước, từng
thời kì, trình độ văn minh đã đạt được của mỗi quốc gia.
Giá trị hàng hóa sức lao động do các yếu tố sau hợp thành:
Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức
lao động, duy trì nòi giống công nhân
Hai là, phí tổn đào tạo công nhân
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cho con cái công nhân
_ Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức
lao động, tức là quá trình tiêu dùng sức lao động của công nhân. Quá trình đó là quá trình
sản xuất ra một loạt hàng hóa nào đó, đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá
trị của bản thân sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản
chiếm đoạt. Đó chính là đặc điểm riêng của hàng hóa sức lao động, làm cho sức lao động
trở thành hàng hóa đặc biệt, là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung
của chủ nghĩa tư bản.
Câu 9: Phân tích quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản. Tại
sao nói giá trị thặng dư là mục đích của tư bản?
- Đặc trưng kinh tế-xã hội của quá trình sản xuất giá trị thặng dư
Công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản, lao động của anh ta thuộc về nhà
tư bản giống như những yếu tố khác của sản xuất và được nhà tư bản sử dụng sao cho có
hiệu quả. Sản phẩm là do lao động của công nhân tạo ra nhưng nó không thuộc về công
nhân mà thuộc sở hữu của nhà tư bản.
- Quá trình sản xuất giá trị thặng dư
Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử
dụng và giá trị thặng dư. Với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình
tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hóa, với tư cách là sự
thống nhất giữa quá trình lao động với quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản xuất là
một quá tình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất
hàng hóa.
+ Giả định
_Lao động sản xuất trong điều kiện trung bình, thời gian lao động cá biệt bằng thời gian
lao động xã hội
_Giá trị của nguyên vật liệu được bảo toàn và chuyển hết vào sản phẩm mới (giá trị=giá
cả), hàng hóa được trao đổi dựa trên nguyên tắc ngang giá.
+Ta xét ví dụ sản xuất sợi bông của một nhà tư bản với giả định giá bông là 1$/kg, tiền
thuê 1 nhân công là 3$ và 1h 1 nhân công tạo ra 0,5$
Chi phí sản xuất (10kg sợi-6h) Giá trị sản phẩm mới
NVL (Bông) :10$ Giá trị bông được chuyển vào sợi :10$
Hao mòn máy móc :2$ Giá trị máy móc được chuyển vào sợi :2$
Tiền công (GTSLĐ) :3$ Giá trị do sức lao động tạo ra :0,5$.6h=3$
Tổng chi phí :15$ Giá cả của 10kg sợi :15$
Từ bảng trên cho thấy nếu quá trình lao động chỉ kéo dài đến điểm bù đắp giá trị
lao động, tức là bằng thời gian lao động tất yếu thì chưa sản xuất giá trị thặng dư (m=0).
Cũng với giả định trên, khi nhà tư bản buộc công nhân làm 12h-20kg sợi thì tổng
chi phí lúc này là 27$ trong khi giá cả hàng hóa là 30$. Điều này đã đem lại cho nhà tư
bản một giá trị thặng dư m=3$.
+ Từ ví dụ trên ta có thể rút ra những kết luận sau:
- Về cơ cấu giá trị cảu sản phẩm mới
W = Giá trị cũ + Giá trị mới
= Giá trị của TLSX + Giá trị do SLĐ tạo ra (= Giá trị SLĐ+GTTD)
Vậy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do
công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
- Về phân chia ngày lao động
Ngày lao động của công nhân được chia thành 2 phần: phần ngày lao động mà
công nhân tạo ra lượng giá trị ngang với giá trị sức lao động mình bỏ ra gọi là thời gian
lao động tất yếu và phần còn lại của ngày lao động gọi là thời gian lao động thặng dư.
Giá trị thặng dư sẽ được tạo ra trong khoảng thời gian lao động thặng dư.
❖ Giá trị thặng dư là mục đích của tư bản vì:
Giá trị thặng dư phản ánh mối quan hệ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân
làm thuê khi giá trị hàng hóa tạo ra do sức lao động của công nhân nhưng lại bị nhà tư
bản chiếm không. Giá trị thặng dư là cội nguồn sinh ra sự giàu có, sung túc vì xuất hiện
giá trị mới, là mục đích của bất kì nhà tư bản nào. Giá trị thặng dư càng tăng chứng tỏ
nhà tư bản đó càng giàu có, khiến họ không ngừng sản xuất ra giá trị thặng dư, thúc đẩy
tái sản xuất, mở rộng quy mô và tăng cường bóc lột.
Câu 10: Phân tích 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản.
Tại sao nói phương pháp sản xuất tương đối là đặc trưng cơ bản của nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa? Tại sao nói GTTD siêu ngạch là hình thức biến tướng của GTTD
tương đối?
❖ Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư
được thực hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong điều kiện
thời gian lao động tất yếu không đổi và giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng phương
pháp này gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.
Với lòng tham vô hạn, các nhà tư bản tìm đủ mọi cách để kéo dài ngày lao động,
nâng cao trình độ bóc lột sức làm thuê. Nhưng một mặt, do giới hạn tự nhiên về sức lực
con người, giới hạn về tinh thần, xã hội, mặt khác do đấu tranh quyết liệt của công nhân
đòi rút ngắn ngày lao động nên ngày lao động không thể kéo dài vô hạn. Tuy nhiên ngày
lao động cũng không thể rút ngắn đến mức bằng thời gian lao động tất yếu. Một hình
thức khác của sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là tăng cường độ lao động vì nó giống
kéo dài thời gian lao động trong ngày.
❖ Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư
được thực hiện bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu lại để kéo dài thời gian lao
động thặng dư trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội trong điều kiện độ dài ngày lao
đọng không đổi và giá trị thặng dư sản xuất ra bằng phương pháp này gọi là giá trị thặng
dư tương đối.
Việc tăng năng suất lao động trước hết ở các ngành sản xuất ra vật phẩm tiêu
dùng, sẽ làm giá trị sức lao động giảm xuống do đó là giảm thời gian lao động cần thiết.
Khi độ dài ngày lao động không thay đổi, thời gian lao động cần thiết giảm sẽ làm tăng
thời gian lao động thặng dư-thời gian sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối cho nhà tư
bản.
Để giành ưu thế cạnh tranh, thu được nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản đã áp
dụng tiến bộ kĩ thuật mới vào sản xuất, cải tiến tổ chức sản xuất, hoàn thiện phương pháp
quản lí kinh tế nâng cao năng suất lao động. Kết quả là giá trị cá biệt của hàng hóa thấp
hơn giá trị xã hội. Nhà tư bản nào thực hiện được điều đó sẽ thu được giá trị thặng dư
vượt trội hơn (giá trị thặng dư siêu ngạch).
Sở dĩ phương pháp này là đặc trưng của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa vì bản chất
của nó là làm tăng năng suất lao động khiến cho thời gian lao động cá biệt giảm xuống,
dẫn đến thời gian lao động tất yếu giảm từ đó làm tăng đáng kể trình độ bóc lột. Đồng
thời, đối với sản xuất GTTD tương đối, thời gian lao động không đổi thậm chí có thể
giảm và vẫn có giới hạn dưới là thời gian lao động tất yếu còn giới hạn trên chỉ tương đối
nên nó phù hợp với khả năng lao động của người công nhân, giúp họ có thời gian tái sản
xuất sức lao động. Phương pháp này được áp dụng trong suốt thời kì CNTB, phù hợp với
khả năng lao động của công nhân và mang lại lợi nhuận cao.
❖ Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là biến tướng của giá trị thặng dư tương
đối vì:
- Cả hai đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, do người công nhân tạo ra
- Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao
động cá biệt làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thường của nó.
- GTTD siêu ngạch là động lực mạnh nhất để thúc đẩy tư bản cải tiến kĩ thuật, áp
dụng công nghệ mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động.
⇨ CNTB chủ yếu tạo ra giá trị thặng dư tương đối song GTTD siêu ngạch là mục
đích tối thượng của bất kì nhà tư bản nào.
Câu 11: Phân tích các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư. Quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa biểu hiện như thế nào trong hình thái tư bản thương nghiệp? Phân
tích các nhân tố chống lại khuynh hướng giảm sút tỉ suất lợi nhuận.
Các hình thức biểu hiện của GTTD
● Lợi nhuận (p)
Lợi nhuận là sự chênh lệch giữa doanh thu và chi phí tư bản, là hình thái chuyển hóa của
giá trị thặng dư, được quan niệm là con đẻ của tư bản ứng trước
W=c+v+m=k+m=k+p
Nguyên nhân của sự chuyển hóa m thành p: do sự hình thành k đã xóa nhòa vai trò khác
biệt giữa c với v và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực
tế
p và m đều là kết quả của lao động của công nhân nhưng nếu p được coi là khoản thu
nhập xứng đáng của tư bản, con đẻ của tư bản ứng trước thì m lại phản ánh mối quan hệ
chiếm đoạt, bóc lột của tư bản đối với công nhân
->sự biểu hiện của p đã che giấu bản chất của mối quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
m
p’= % phản ánh hiệu suất sinh lời hay hiệu quả đầu tư của tư bản
c+ v
p=p’.k
Các nhân tố ảnh hưởng đến tỉ suất lợi nhuận:
m'
- Tỉ suất giá trị thặng dư p’= -> tăng năng suất lao động để tăng p’ là biện
1+ c /v
pháp bền vững nhất
- Cấu tạo hữu cơ của tư bản: trong điều kiện tỉ suất giá trị thặng dư không đổi, nếu
cấu tạo hữu cơ càng cao thì tỉ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại
- Tốc độ chu chuyển của tư bản bất biến: nếu tốc độ chu chuyển càng lớn thì giá trị
thặng dư theo đó tăng lên làm cho tỉ suất lợi nhuận cũng tăng
- Tiết kiệm tư bản bất biến: trong điều kiện tỉ suất giá tị thặng dư và tư bản khả biến
không đổi, nếu tư bản bất biến càng nhỏ thì tỉ suất lợi nhuận càng lớn
● Lợi tức (z)
Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường cho người khác sử
dụng trong một thời gian để nhận được một số lời nào đó gọi là lợi tức (z).
Lợi tức cũng có bản chất là giá trị thặng dư m, song nó chỉ gián tiếp phản ánh mối
quan hệ chiếm đoạt của nhà tư bản. Lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận bình quân,
khoản dôi ra phải trả cho chủ sở hữu khi đến kì đáo hạn.
Tỉ suất lợi tức z’=z/kcv% (0<z< p ⃐ ) phản ánh hiệu suất sinh lời của tư bản cho vay
z’ có tư cách là giá cả của vốn vay (0<z’< p ' ⃑ ), hiệu suất sinh lời của tư bản sẽ
quyết định hiệu suất sinh lợi tức và giá cả của nó (z’) được quyết định bởi giá trị sử dụng
( p ' ⃑ ).
● Địa tô (r)
Tư bản nông nghiệp là bộ phận lạc hậu nhất, chậm-muộn-lâu đời nhất (chủ thể là người
nông dân, cơ chế kinh tế cứng nhắc, chịu ảnh hưởng của các yếu tố khách quan đặc biệt
là điều kiện tự nhiên). Địa tô là khoản phải trả của người đi thuê với người cho thuê về
quyền sử dụng ruộng đất trong một thời gian nhất định, biểu hiện dưới 2 hình thức:
- Địa tô chênh lệch (= giá cả sx chung-giá cả sx cá biệt)
- Địa tô tuyệt đối (=giá trị nông sản-giá cả sản xuất chung)
Dù biểu hiện dưới hình thức nào nhưng mang bản chất là lợi nhuận siêu ngạch, là hình
thức biểu hiện của m nên địa tô TBCN vẫn phản ánh mối quan hệ bóc lột, phản ánh sự áp
đặt của địa chủ lên nông dân.
Biểu hiện của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong hình thái tư bản thương
nghiệp
Tư bản thương nghiệp hay tư bản hàng hóa là một bộ phận tách ra trong quá trình
tuần hoàn của TBCN, thực hiện chức năng lưu thông và diễn ra hoàn toàn trên thị trường.
Tư bản thương nghiệp vừa phụ thuộc và tư bản công nghiệp vừa độc lập với tư bản
công nghiệp, nó không trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Vai trò: tăng năng suất->tăng m’->tăng p’->tăng p’; trung gian giữa tư bản công
nghiệp và người tiêu dùng; tốc độ chu chuyển tăng->tăng p’->giảm chi phí lưu thông;
tăng tính tiện dụng trong tiêu dùng.
Tư bản thương nghiệp góp phân gián tiếp tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư-
>xứng đáng hưởng thành quả “lợi nhuận thương nghiệp”
Lợi nhuận thương nghiệp (ptn) là một bộ phận giá trị thặng dư được tạo ra trong xã
hội, do TBCN trả cho TBTN vì thay mình lưu thông hàng hóa
Ptn= giá bán-giá mua
Câu 12:
a. Vì sao tư bản cho vay là hàng hóa đặc biệt? Nguồn gốc và bản chất của lợi tức?
Tư bản cho vay là hàng hóa đặc biệt:

Tư bản cho vay là hình thức tư bản xuất hiện từ trước chủ nghĩa tư bản. Điều
kiện tồn tại của hình thức tư bản này là sản phẩm trở thành hàng hoá và tiền tệ đã phát
triển các chức năng của mình. Trong xã hội tư bản, tư bản cho vay là tư bản tiền
tệ tạm thời nhàn rỗi mà người chủ của nó cho nhà tư bản khác sử dụng trong thời gian
nhất định để nhận được số tiền lời nào đó (gọi là lợi tức z).

Tư bản cho vay là hàng hóa đặc biệt, thể hiện ở những đặc điểm khác căn bản:
Một là, quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng tư bản. Đối với người cho vay nó
là tư bản sở hữu, đối với người đi vay nó là tư bản sử dụng.

Hai là, tư bản cho vay là một hàng hoá đặc biệt, vì khi cho vay người bán
không mất quyền sở hữu, còn người mua chỉ được mua quyền sử dụng trong một thời
gian nhất định. Và khi sử dụng thì giá trị của nó không mất đi mà còn tăng lên; giá cả
của nó không do giá trị mà do giá trị sử dụng của tư bản cho vay, do khả năng tạo ra
lợi tức của nó quyết định. Lợi tức chính là gía cả của hàng hoá tư bản cho vay.

Ba là, tư bản cho vay là tư bản được ‘sùng bái” nhất do vận động theo công thức T –T’,
trong đó T’ = T + z nên nó gây ấn tượng hình thức rằng tiền có thể đẻ ra tiền.

Nguồn gốc và bản chất của lợi tức:


Nguồn gốc: Giá trị thặng dư m
Bản chất: Mối quan hệ chiếm đoạt, gián tiếp
Lợi tức (z) chính là một phần của lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho
nhà tư bản cho vay căn cứ vào lượng tư bản tiền tệ mà nhà tư bản cho vay đã bỏ ra cho
nhà tư bản đi vay sử dụng.
⇨ Là một biến tướng của lợi nhuận bình quân, khoản dôi ra phải trả cho chủ sở hữu
khi đến kỳ đáo hạn.
⇨ Là một biến tướng của giá trị thặng dư m, phản ánh mối quan hệ chiếm đoạt.
b. Phân tích bản chất kinh tế của địa tô tư bản chủ nghĩa và các hình thức địa tô?
Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa. Nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải
thuê ruộng đất của địa chủ và thuê công nhân để tiến hành sản xuất. Do đó nhà tư bản
phải trích một phần giá trị thặng dư do công nhân tạo ra để trả cho địa chủ dưới hình
thức địa tô. Như vậy, địa tô tư bản chủ nghĩa là một bộ phận lợi nhuận siêu ngạch
ngoài lợi nhuận bình quân của tư bản đầu tư trong nông nghiệp do công nhân nông
nghiệp tạo ra mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa chủ với tư cách
là kẻ sở hữu ruộng đất.
c. Phân tích sự hình thành địa tô chênh lệch. Phân biệt địa tô chênh lệch I và địa tô
chênh lệch II?
Nông nghiệp có một số đặc điểm khác với công nghiệp, như số lượng ruộng đất bị giới
hạn; độ màu mỡ tự nhiên và vị trí địa lý của ruộng đất không giống nhau; các điều kiện
thời tiết, khí hậu của địa phương ít biến động; nhu cầu hàng hoá nông phẩm ngày càng
tăng. Do đó, xã hội buộc phải canh tác trên ruộng đất xấu nhất (về độ màu mỡ và vị trí
địa lý) nên giá cả hàng hoá nông phẩm được hình thành trên cơ sở điều kiện sản xuất xấu
nhất chứ không phải ở điều kiện trung bình như trong công nghiệp. Vì thế, canh tác trên
đất tốt và trung bình sẽ có lợi nhuận siêu ngạch. Phần lớn lợi nhuận siêu ngạch sẽ tồn tại
thường xuyên, tương đối ổn định và chuyển hoá thành địa tô chênh lệch.
Như vậy, địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình
quân thu được trên ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số chênh lệch
giữa giá cả sản xuất chung được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu
nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình (ký hiệu Rcl)
Địa tô chênh lệch có hai loại là địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II
+ Địa tô chênh lệch I là loại địa tô thu được trên những ruộng đất có điều kiện
tự nhiên thuận lợi. Chẳng hạn, có độ màu mỡ tự nhiên trung bình, tốt và có vị trí gần
nơi tiêu thụ hay gần đường giao thông
Ví dụ 1, Địa tô chênh lệch I thu được trên những ruộng đất có độ màu mỡ tự
nhiên trung bình và tốt (giả sử có P’ = 20%)

Ví dụ 2, Địa tô chênh lệch I thu được trên những ruộng đất có vị trí thuận lợi
như gần nơi tiêu thụ hay gần đường giao thông
+ Địa tô chênh lệch II là loại địa tô thu được nhờ thâm canh năng suất, là kết
quả của tư bản đầu tư thêm trên cùng đơn vị diện tích.
Ví dụ 3, Cần chú ý rằng, năng suất của lần đầu tư thêm phải lớn hơn năng suất
của lần đầu tư trên ruộng xấu, thì khi đó mới có được lợi nhuận siêu ngạch

Trong thời hạn hợp đồng, lợi nhuận siêu ngạch do đầu tư thâm canh đem lại
thuộc nhà tư bản kinh doanh ruộng đất. Chỉ đến khi hết thời hạn hợp đồng, địa chủ mới
tìm cách nâng giá cho thuê ruộng đất, tức là biến lợi nhuận siêu ngạch do đầu tư thâm
canh đem lại (địa tô chênh lệch II) thành địa tô chênh lệch I. Tình trạng này dẫn đến
mâu thuẫn: nhà tư bản thuê đất muốn kéo dài thời hạn thuê, còn địa chủ lại muốn rút
ngắn thời hạn cho thuê. Do đó, trong thời gian thuê đất, nhà tư bản tìm mọi cách quay
vòng, tận dụng, vắt kiệt độ màu mỡ đất đai.
Câu 13: Đặc điểm giai cấp công nhân?
“Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành
và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp
độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính xã hội hoá ngày càng cao, là lực lượng
sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất,
tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu
của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội” (Mác – Ăngghen).
Do đó, giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất thời đại ngày nay, “công nhân là
một phát minh của thời đai mới”.

Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng và có tinh thần cách
mạng triệt để nhất.

Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng vì họ đại biểu cho phương thức sản
xuất tiên tiến gắn liền với những thành tựu khoa học công nhiệp hiện đại. Đó là giai cấp
được trang bị môt lý luận khoa học, cách mạng (chủ nghĩa Mác –Lênin) và luôn luôn đi
đầu trong mọi phong trào cách mạng theo mục tiêu xóa bỏ chế độ cũ lạc hậu, xây dựng xã
hội mới tiến bộ, nhờ đó có thể tập hợp được đông đảo các giai cấp, tầng lớp khác vào
phong trào cách mạng.

Trong cuộc cách mạng tư sản, giai cấp tư sản chỉ có tinh thần cách mạng trong thời kỳ
đấu tranh chống chế độ phong kiến, còn khi giai cấp này đã giành được chính quyền thì
họ quay trở lại bóc lột giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, những giai cấp đã từng đi
với giai cấp tư sản trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Khác với giai cấp tư sản, giai
cấp công nhân, lại bị giai cấp tư sản bóc lột nặng nề, có lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp
với lợi ích của giai cấp tư sản. Điều kiện sống, điều kiện lao động trong chế độ tư bản chủ
nghĩa đã chỉ cho họ thấy, họ chỉ có thể được giải phóng bằng cách giải phóng toàn xã hội
khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa.

Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
Giai cấp công nhân lao động trong nền sản xuất đại công nghiệp với hệ thống sản xuất
mang tính chất dây chuyền và nhịp độ làm việc khẩn trương, buộc giai cấp này phải tuân
thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động, cùng với cuộc sống đô thị đã tạo nên tính tổ chức, kỷ
luật chặt chẽ của giai cấp công nhân.

Khi giai cấp công nhân tham gia vào các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn, tham gia vào
cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản cũng đòi hỏi giai cấp này phải có ý thức tổ chức
kỷ luật chặt chẽ. Nhất là khi giai cấp công nhân được sự giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin,
tổ chức ra đảng cộng sản thì ý thức tổ chức kỷ luật lại càng được nâng lên. Giai cấp công
nhân không có ý thức tổ chức kỷ luật cao thì không thể giành được thắng lợi trong cuộc
đấu tranh chống lại giai cấp tư sản.

Thứ ba, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế.
Do địa vị kinh tế-xã hội của giai cấp công nhân trên toàn thế giới đều giống
nhau và kẻ thù của giai cấp công nhân là chủ nghĩa đế quốc - lực lượng quốc tế. Vì
vậy muốn giành thắng lợi, giai cấp công nhân buộc phải đoàn kết và hợp tác quốc
tế mới chiến thắng kẻ thù.

Câu 14: Phân tích sứ mệnh lịch sử, nội dung cơ bản sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân?
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:

Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại, lực lượng đại biểu cho sự
phát triển của lực lượng sản xuất tiến bộ, cho xu hướng phát triển của phương thức sản
xuất tương lai; do vậy, về mặt khách quan nó là giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo
nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ mọi chế độ áp bức,
bóc lột và xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa biểu hiện những khiếm khuyết
không thể khắc phục được, giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là: Thủ tiêu chủ
nghĩa tư bản, từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; giải
phóng mình đồng thời giải phóng toàn xã hội thoát khỏi tình trạng áp bức bóc lột.
Ph.Ăngghen viết “thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ mệnh lịch
sử của giai cấp vô sản hiện đại”. V.I.Lênin đánh giá cao vai trò sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập và chỉ rõ “Điểm chủ yếu
trong học thuyết Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô
sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”

Theo quan điểm của của C.Mác và Ph. Ăngghen, nội dung sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân được thực hiện qua hai bước: Bước thứ nhất:“ Giai cấp vô
sản chiếm lấy chính quyền nhà nước và biến tư liệu sản xuất trước hết thành sở hữu
nhà nước...”. “Giai cấp vô sản chiếm lấy chính quyền nhà nước và biến tư liệu
sản xuất trước hết thành sở hữu nhà nước...” Bước thứ hai: “... giai cấp vô sản cũng tự thủ
tiêu với tư cách là giai cấp vô sản, chính vì thế mà nó cũng xoá bỏ mọi sự
phân biệt giai cấp và mọi đối kháng giai cấp”. Hai bước này quan hệ chặt chẽ với nhau:
giai cấp công nhân không thực hiện được bước thứ nhất thì cũng không thực hiện được
bước thứ hai nhưng bước thứ hai là quan trọng nhất để giai cấp công nhân hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của mình.

Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải tập hợp được các tầng
lớp nhân dân lao động xung quanh nó, tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng xóa bỏ xã hội
cũ và xây dựng xã hội mới về mọi mặt từ kinh tế tới chính trị và văn hóa, tư tưởng. Đó là
một quá trình lịch sử hết sức lâu dài và khó khăn.

Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân có những đặc điểm khác về chất so
với sứ mệnh lịch sử của giai cấp tư sản cũng như các giai cấp khác trong lịch sử.

Trước hết, về kinh tế, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là
thực hiện sự chuyển biến từ chế độ tư hữu này sang một chế độ tư hữu khác, thay
đổi hình thức bóc lột này bằng một hình thức bóc lột khác. Ngược lại, mục tiêu
cuối cùng của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ chiếm hữu
tư nhân tư liệu sản xuất, xoá bỏ mọi hình thức người bóc lột người, xoá bỏ sự phân
chia xã hội thành các giai cấp.
Thứ hai, tất cả các phong trào lịch sử, từ trước tới nay, đều là do thiểu số
thực hiện hoặc mưu cầu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào của
tuyệt đại đa số, mưu cầu lợi ích cho tuyệt đa số.

Thứ ba, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự nghiệp vừa mang tính
dân tộc vừa mang tính quốc tế. Giai cấp công nhân không thể hoàn toàn được giải
phóng, nếu nó không giải phóng được dân tộc và toàn thể quần chúng lao động trên
phạm vi quốc tế.

Thứ tư, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân phải được thực hiện một
cách liên tục, không ngừng trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá tư
tưởng cho đến khi xây dựng xong xã hội cộng sản chủ nghĩa ở mõi nước và trên
toàn thế giới.

Câu 15: Phân tích vị trí vai trò của giai cấp công nhân trong hình thái sản xuất
TBCN để chỉ ra địa vị kinh tế xã hội khách quan của giai cấp, từ đó quy định sứ
mệnh của giai cấp công nhân.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là tất yếu lịch sử bắt nguồn từ qui luật phát triển
cơ bản của xã hội loài người. Sự phát triển của nền kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa đã
tạo nên những điều kiện khách quan qui định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân là đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa, vì vậy nó là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân đại biểu cho sự tiến hoá tất
yếu của lịch sử, là giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương
thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Địa vị kinh tế của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa
Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Sự phát triển của
nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã tạo ra một lực lượng xã hội mới – giai cấp
công nhân hiện đại. Giai cấp công nhân là hiện thân của lực lượng sản xuất cơ bản,
tiên tiến ngày càng mang tính chất xã hội hoá cao trong phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Chính từ sự phát triển của bản thân nền đại công nghiệp tư bản chủ
nghĩa đã làm cho giai cấp công nhân ngày càng phát triển về số lượng và chất
lượng; tỷ lệ giai cấp công nhân trong cơ cấu lao động xã hội, cơ cấu dân số xã hội
ngày càng gia tăng. Giai cấp công nhân trực tiếp lao động trong các ngành nghề,
lĩnh vực sản xuất cơ bản, tiên tiến, quan trọng nhất của xã hội, do đó nó đại biểu
cho lực lượng sản xuất hàng đầu có vai trò quyết định trong sự phát triển của nền
kinh tế - xã hội.
Địa vị xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa
Giai cấp công nhân hiện đại sinh ra trong lòng xã hội tư bản, gắn bó hữu cơ
với giai cấp tư sản trong quá trình sản xuất, nhưng lại đối lập căn bản với giai cấp
tư sản về lợi ích. Giai cấp công nhân là giai cấp không có hoặc về cơ bản là không
có tư liệu sản xuất, bị giai cấp tư sản bóc lột trực tiếp nặng nề nhất – bóc lột giá trị
thặng dư.
Giai cấp tư sản muốn duy trì chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, duy trì
chế độ bóc lột. Ngược lại, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân là muốn giải phóng
mình thì phải xoá bỏ được chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, tức là phải lật đổ chính
quyền tư sản, giành được chính quyền về tay mình, sử dụng chính quyền đó để xây
dựng xã hội mới không còn tình trạng áp bức bóc lột.
Giai cấp công nhân có lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của các giai cấp,
tầng lớp lao động khác do vậy tạo ra khả năng đoàn kết với quảng đại quần chúng
lao động trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản để giải phóng mình và giải
phóng toàn xã hội.
Câu 16: Cách mạng xã hội chủ nghĩa là gì? Phân tích tính tất yếu của nó?
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng cuối cùng trong lịch sử, lần đầu tiên giai
cấp công nhân đứng lên tổ chức lãnh đạo cách mạng giải phóng mình và giải phóng toàn
thể nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bất công v.v. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là
cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ cũ nhất là chế độ tư bản chủ nghĩa, bằng chế
độ xã hội chủ nghĩa, trong cuộc cách mạng đó, giai cấp công nhân là người lãnh đạo
và cùng với quần chúng nhân dân lao động khác xây dựng một xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng chính trị,
kết thúc bằng việc giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính
quyền, thiết lập được nhà nước chuyên chính vô sản- nhà nước của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động.
Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình hoàn thiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, được tiến hành qua hai giai đoạn gồm giai
đoạn giai cấp công nhân giành chính quyền, tổ chức thành giai cấp thống trị và giai
đoạn giai cấp công nhân sử dụng chính quyền để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tính tất yếu của cách mạng chủ nghĩa xã hội:
Cũng như mọi cuộc cách mạng xã hội khác đã diễn ra trong lịch sử, cách
mạng xã hội chủ nghĩa là kết quả tất yếu của sự phát triển những mâu thuẫn trong
lòng chủ nghĩa tư bản.
Dưới chủ nghĩa tư bản, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, lực
lượng sản xuất đã đạt tới trình độ xã hội hoá ngày càng cao làm cho quan hệ xuất dựa
trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất trở nên
lạc hậu, lỗi thời. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã
hội tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt đến mức độ cần phải thay thế bằng quan hệ
sản xuất mới phù hợp mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. “Từ chỗ là
những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành
xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách
mạng”; “Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động đạt đến cái điểm mà
chúng không còn thích ứng với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa (...) nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó với tính tất yếu của một quá
trình tự nhiên”.
Mâu thuẫn cơ bản giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội
tư bản biểu hiện ra ngoài xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân- đại biểu cho
lực lượng sản xuất tiên tiến với giai cấp tư sản- đại diện cho quan hệ sản xuất lạc
hậu, lỗi thời kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn cơ bản trong
xã hội tư bản luôn vận động không ngừng tạo ra sự đối kháng, mâu thuẫn gay gắt,
quyết liệt không thể điều hoà được cần được giải quyết bằng cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
Sự phù hợp thực sự với tính chất ngày càng xã hội hoá cao của lực lượng sản
xuất chỉ có thể là sự thay thế quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng quan hệ sản
xuất mới thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa không tự diễn ra mà nó chỉ diễn ra khi giai cấp công nhân nhận thức được sứ
mệnh lịch sử của mình, tập hợp được quần chúng lao động đứng xoá bỏ chế độ tư
bản chủ nghĩa khi có thời cơ cách mạng.
Câu 17: Phân tích mối quan hệ giữa Đảng cộng sản và giai cấp công nhân?
- Giai cấp công nhân là cơ sở giai cấp của Đảng Cộng sản

Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
chỉ rõ: “Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các
đảng công nhân khác. Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của
toàn thể giai cấp vô sản”. Giai cấp vô sản là cơ sở giai cấp của Đảng, là nguồn bổ
xung lực lượng cho Đảng. Những đảng viên của Đảng cộng sản là những người
công nhân có giác ngộ lý tưởng cách mạng, được trang bị lý luận cách mạng, tự
giác gia nhập Đảng.

- Đảng Cộng sản là đội tiên phong chiến đấu, là lãnh tụ chính trị, là bộ tham
mưu chiến đấu của giai cấp công nhân

Đảng Cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, bao gồm những người ưu tú, tiên tiến nhất tiếp thu lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin; nắm bắt được quy luật vận động, phát triển khách quan của lịch
sử; họ hơn hẳn bộ phận còn lại của giai cấp công nhân ở chỗ là họ hiểu được những
điều kiện, tiến trình và kết quả của phong trào vô sản.

Đảng Cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Nhờ có lý luận tiên phong của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng Cộng sản đã vận
dụng vào điều kiện cụ thể đề ra cương lĩnh, đường lối chiến lược, sách lược, nhiệm
vụ của quá trình cách mạng cũng như của từng giai đoạn cách mạng. Sau khi đề ra
đường lối cách mạng đứng đắn, Đảng Cộng sản tập hợp, giáo dục, thuyết phục, tổ
chức, động viên giai cấp công nhân và nhân dân lao động thực hiện, biến đường lối
của Đảng thành hiện thực. Đảng Cộng sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, trực tiếp tổ chức, lãnh đạo, bố trí cán bộ lãnh đạo
quá trình cách mạng.

Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp công nhân và nhân dân lao
động có sự thống nhất về tư tưởng và hành động, tập trung sức mạnh giai cấp và
sức mạnh của dân tộc để tạo động lực cho cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi.

Câu 18: Phân tích bản chất, nguồn gốc của tôn giáo? Quan điểm của Đảng và Nhà
nước Việt Nam về tôn giáo trong thời kỳ hội nhập?
* Nguồn gốc:

- Nguồn gốc kinh tế - xã hội: Theo Ph.Ăngghen “tôn giáo sinh ra trong thời
đại hết sức nguyên thuỷ, từ những khái niệm hết sức sai lầm, nguyên thủy của con
người về bản chất của chính họ và về giới tự nhiên bên ngoài, xung quanh họ” .Trong xã
hội cộng sản nguyên thuỷ, tôn giáo ra đời do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém. Trình
độ thấp kém của lực lượng sản xuất đã làm cho con người không nắm bắt được thực tiễn
những lực lượng tự nhiên. Do vậy, con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước tự nhiên
rộng lớn và bí ẩn, vì thế, họ đã gán cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần
thánh hóa những sức mạnh đó. Đó là hình thức tồn tại đầu tiên của tôn giáo.

- Nguồn gốc nhận thức: Thực chất nguồn gốc nhận thức của tôn giáo là sự tuyệt đối hoá,
cường điệu hoá mặt chủ thể của nhận thức con người, dẫn đến thiếu khách quan, mất dần
cơ sở hiện thực, dễ rơi vào ảo tưởng, thần thánh hoá đối tượng.

- Nguồn gốc tâm lý: Đó là ảnh hưởng của yếu tố tâm lý đến sự ra đời của tôn giáo. Đặc
biệt là những trạng thái tâm lý tiêu cực. Không chỉ vậy, những trạng thái tâm lý tích cực
như sự hân hoan, vui sướng, mãn nguyện v.v, đôi khi cũng có thể là một nguyên nhân
dẫn con người đến với tôn giáo. Các yếu tố như thói quen, truyền thống, phong tục, tập
quán cũng là những nguyên nhân tâm lý dẫn đến sự hình thành, duy trì và phát triển
niềm tin tôn giáo.

*Bản chất:

“Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác của con người chưa tìm được bản thân mình
hoặc đã lại để mất bản thân mình một lần nữa (…)Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng
sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần
của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”

Xét về bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội tiêu cực, nó vừa biểu thị
sự phản kháng tiêu cực trước những nỗi khổ đau và bất hạnh của con người, vừa
biểu thị sự nhẫn nhục, sự bất lực của con người trước những sức mạnh tự phát của
tự nhiên và xã hội.

Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã làm rõ bản chất của tôn
giáo trên cơ sở xem tôn giáo như là một hình thái ý thức xã hội “Tất cả mọi tôn
giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của
những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh
trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu
trần thế”

Như vậy, tôn giáo là sản phẩm của con ngựời, gắn với những điều kiện lịch
sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác định. Xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện
tượng xã hội tiêu cực. Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số giá trị văn hoá
phù hợp với đạo đức, đạo lý của xã hội. Chủ nghĩa Mác -Lênin và những người
cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không
tín ngưỡng của nhân dân.

* Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tôn giáo trong thời kỳ hội nhập

- Những quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về công tác tôn giáo
trong tình hình mới:

+ Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và
sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào
các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

+ Đảng, Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc,
không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo
khác nhau, đoàn kết đồng bào không theo tôn giáo và đồng bào theo tôn giáo. Phát huy
những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo, động viên các tổ chức tôn giáo,
chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.

+ Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Động
viên đồng bào nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc
thông qua thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng, bảo đảm
lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo.

+ Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị; trong đó, các tổ
chức quần chúng có vai trò quan trọng trong công tác quản lý Nhà nước đối với các tôn
giáo.

- Công tác tôn giáo, chính sách tôn giáo:

+ Thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân, trong đó có đồng bào
các tôn giáo.

+ Tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo đúng chính sách và
pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

+ Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo
trong quần chúng, tín đồ, chức sắc, nhà tu hành ở cơ cở. Xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

+ Tăng cường thông tin tuyên truyền về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nước, phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo; tự giác và phối hợp đấu tranh
làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống đối chế độ.

+ Hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với đường lối đối
ngoại của Đảng và Nhà nước.

- Vấn đề theo đạo và truyền đạo :

+ Mọi tín đồ điều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và các cơ sở thờ tự hợp pháp .

+ Các tổ chức tôn giáo được nhà nước thừa nhận hoạt động theo pháp luật và được pháp
luật bảo hộ.

+ Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái
phép vi phạm các qui định của hiến pháp và pháp luật.

VĂN HÓA
● Khái niệm :

Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao
động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình, biểu hiện trình độ phát
triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.

+ Nghĩa rộng : Văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. “Văn hoá là sự
tổng hoà của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” (Hồ Chí
Minh)
+ Nghĩa hẹp : văn hoá vật chất là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết
tinh trong sản phẩm vật chất; văn hoá tinh thần là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá
trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người.
● Vai trò của văn hóa :
Văn hóa là tài sản tinh thần chung của dân tộc, là yếu tố đặc biệt trong sự gắn kết cộng
đồng thành một khối thống nhất. Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: “Văn hóa là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp
cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao sóng gió và thác ghềnh, tưởng chừng
như không thể vượt qua được, để không ngừng phát triển và lớn mạnh”. Văn hóa là hồn
cốt của dân tộc, là động lực của sự phát triển, nó luôn mang tính chủ động, có khả năng
đi trước, vừa là nhân tố khởi xướng đổi mới đồng thời cũng là nơi tiếp nhận thành quả
của đổi mới.
⮚ Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội
Về cơ bản, xã hội bao gồm và hiện hữu hai nền tảng: Nền tảng vật chất và nền tảng tinh
thần. Nền tảng vật chất có thể bao gồm các yếu tố như nhà cửa, phương tiện đi lại, giao
thông …., nói cách khác đó là các yếu tố kinh tế và nền tảng tinh thần không gì khác đó
chính là các giá trị văn hoá. Hai bộ phận này bổ sung cho nhau, cùng phát triển và cùng
thúc đẩy xã hội.
Nền tảng tinh thần của dân tộc Việt Nam chính là những giá trị truyền thống do nhân
dân ta sáng tạo ra trong hàng nghìn năm lịch sử, được gạn lọc, đúc kết tạo nên những
nét riêng, bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Nó được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác, được lưu giữ muôn đời, tạo ra một cốt cách Việt Nam không một dân tộc nào có
thể nhầm lẫn được.
Văn hóa không đứng ngoài phát triển. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội gắn kết chặt chẽ,
đồng bộ và tương xứng với nhiệm vụ phát triển kinh tế (là trung tâm); xây dựng chỉnh
đốn Đảng (là then chốt) chính là điều kiện quyết định sự phát triển bền vững và toàn
diện của đất nước vì “xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” tiến
bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
⮚ Văn hóa là động lực của sự phát triển 
Nói văn hoá là động lực của sự phát triển chính là nói tới quá trình trong đó con người
được và tự trang bị cho mình những kiến thức, hệ giá trị để có thể trở thành một nhân
tố tạo ra sự phát triển.
Văn hoá là động lực mà văn hoá có những chức năng cơ bản mà không lĩnh vực nào có
được, đó là các chức năng về bồi dưỡng tư tưởng tình cảm cách mạng, bồi dưỡng
những phẩm chất đạo đức và phong cách tốt đẹp, lành mạnh, định hướng các giá trị
chân, thiện, mỹ, năng cao dân trí…Văn hoá là động lực thể hiện ở tính hướng đích, định
hướng giá trị và chức năng giáo dục.
⮚ Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, trong đó hàm chứa văn hoá vừa là mục tiêu,
vừa là động lực. Phát triển xã hội bền vững suy cho cùng là xây dựng con người toàn
diện, văn hoá là mục tiêu của sự phát triển cũng chính là nhắc tới vai trò quan trọng của
nó trong qua trình hình thành và phát triển các phẩm chất, năng lực của con người.
Theo Hồ Chí Minh, vai trò của văn hoá đối với sự hình thành và phát triển con người
toàn diện Việt Nam thể hiện ∙ Củng cố niềm tin cho con người ∙ Xây dựng lối sống mới ∙
Đấu tranh chống lại hiện tượng phi văn hoá, phản nhân văn, xây dựng những mối quan
hệ tốt đẹp.

* Văn hoá là động lực và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội vì:
- Văn hoá cho chúng ta cách nhìn là sự chuyển biến của xã hội là sự chuyển biến về văn
hoá.
- Văn hoá cho chúng ta cách nhìn lịch sử một cách biện chứng và chính xác hơn (đây là
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội) và có cách nhìn khác với lịch sử.
- Văn hoá lại khẳng định văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội.
Văn hoá công cụ hoàn thiện con người và xã hội là vì xã hội. Thông qua các chức năng
của mình đã tác động lại với con người với rất nhiều mặt tích cực làm con người ngày
càng hoàn thiện hơn, cụ thể:
- Con người nhận thức về vũ trụ, trời đất, nghĩa là văn hoá nhận thức, ở đây văn hoá đã
trang bị cho con người những chi thức cần thiết để làm chủ thiên nhiên, xã hội và bản
thân. Hơn nữa bằng các hoạt động văn hoá giúp con người tự sáng tạo, nâng cao trình
độ nhận thức cũng là tự hoàn thiện mình.
- Ở chức năng giáo dục của văn hoá, thì thông qua các hoạt động sản phẩm tác động
một cách có hệ thống lên tinh thần và thể chất con người làm cho con người có được
phẩm chất và năng lực như xã hội yêu cầu. Mặt khác văn hoá tạo thành những giá trị
chuẩn mực để con người học tập, nhờ đó văn hoá đóng vai trò quyết định trong việc
hình thành nhân cách con người.
- Ở chức năng thẩm mỹ của văn hoá, nó hướng con người hoàn thiện ở góc độ cần có lối
ứng xử xã hội thích hợp, ngăn ngừa những hành vi phi văn hoá để tạo lên lối ứng xử văn
hoá phù hợp với tiến bộ xã hội.
- Văn hoá còn hoàn thiện con người ở chức năng giải trí của nó nghĩa là khi con người
hưởng thụ nền văn hoá nghiêm túc thì giúp họ lấy được tinh thần, họ được nghỉ ngơi để
có thể bắt đầu công việc mới, giúp con người phát triển toàn diện và sáng tạo hơn lao
động có hiệu quả hơn.

Quan điểm của Đảng và Nhà nước

1. “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

2. Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
3. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.

4. Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

5. Văn hoá là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.”

You might also like