You are on page 1of 23

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA KẾ TOÁN

BÀI KIỂM TRA TỰ LUẬN

HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

ĐỀ TÀI: Phân tích hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa. Ý nghĩa của việc nghiên cứu hai phương pháp này đối
với quá trình phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay?

Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Hiếu

Sinh viên thực hiện: Trần Hạnh Quỳnh

Lớp: KT29A_AUM29

Mã sinh viên: 19221748

1
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG.........................................................................................................5
I. TỔNG QUAN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ, HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT
CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA............5
1. Giá trị thặng dư.....................................................................5
2. Các phương pháp sản xuất của giá trị thặng dư............................................................5
3. Mối quan hệ của hai phương pháp................................................................................7
II. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CỦA TƯ BẢN VỀ HAI PHƯƠNG PHÁP
SẢN XUẤT CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ HIỆN NAY...........8

sản xuất của giá trị thặng


dư trong nền kinh tế hiện
nay
III. GIẢI PHÁP ĐỀ RA VÀ VẬN DỤNG HAI PHƯƠNG PHÁP VÀO
PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA.......................................................................9
PHẦN KẾT LUẬN..........................................................................................................11
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................12

2
LỜI MỞ ĐẦU

Lời đầu tiên cho em xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến cô Nguyễn Thị Thanh Hiếu đã
hỗ trợ giảng dạy, giúp đỡ và hướng dẫn chúng em rất nhiều trong suốt quá trình học tập và
tìm hiểu về bộ môn Kinh tế chính trị. Cô đã giúp chúng em tiếp thu và tích lũy thêm được
nhiều kiến thức bổ ích để có cái nhìn tổng quan hơn về môn học này cũng như cách vận dụng
môn học.
Ở bài tiểu luận này, em đã cố gắng thể hiện hết khả năng của mình nhưng do trình độ kiến
thức và kinh nghiệm còn nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi việc mắc một vài sai sót.
Em rất mong được sự cảm thông, nhận xét, đánh giá và ý kiến đóng góp từ cô để bài tiểu luận
này được hoàn thiện một cách tốt nhất.
Kính chúc cô có nhiều sức khỏe, hạnh phúc và thành công trên con đường sự nghiệp.

Em xin chân thành cảm ơn !

3
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đời sống xã hội từ trước đến nay, kinh tế chính trị Mác – Lênin vẫn luôn đóng một vai
trò quan trọng. Trong bối cảnh đổi mới như hiện nay, công nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập
quốc tế sâu rộng, nghiên cứu kinh tế chính trị Mác – Lênin càng là vấn đề được đặt ra bức
thiết, nhằm khắc phục lạc hậu về lý luận, góp phần hình thành tư duy kinh tế mới. Công cuộc
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam đòi
hỏi phải gắn liền với các phạm trù và các quy luật kinh tế của nó. Vì vậy, nói rằng học thuyết
giá trị thặng dư là “hòn đá tảng” trong toàn bộ lí luận kinh tế của C.Mác quả thật rất đúng.
Nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác, toàn bộ bí mật của nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa được vạch trần, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được nêu ra một cách chính
xác. Mà trong đó kể đến hai phương pháp sản xuất chính là phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối và tương đối được áp dụng rộng rãi nhất, nhằm tạo ra tư bản để tích lũy và
tái mở rộng sản xuất, đưa xã hội ngày càng phát triển.
Đề tài em chọn nghiên cứu về “Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và sự vận dụng
thực tiễn hai phương pháp ở Việt Nam hiện nay”.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài


2.1. Mục đích nghiên cứu
- Quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta đang ngày càng phát triển. Vì vậy,
việc nghiên cứu sản xuất giá trị thặng dư gợi ra cho nhà hoạch định chính sách phương thức
làm tăng của cải, thúc đẩy phát triển kinh tế.
- Nghiên cứu hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư
bản nhằm liên hệ với ngành kinh tế nước nhà, không ngừng phát triển nền kinh tế địa phương
& đưa Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


Với mục đích đã đề ra, cá nhân sinh viên cần thực hiện đủ các nhiệm vụ như sau:
- Khái niệm giá trị thặng dư và hai phương pháp sản xuất của giá trị thặng dư trong nền kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
- Thực trạng sử dụng hiện nay của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và giải pháp cần
đề ra.
- Vận dụng linh hoạt và có ý nghĩa vào phát triển kinh tế ngành / địa phương.

3. Phương pháp nghiên cứu

4. Phân tích, nghiên


cứu lý thuyết: thu
thập, phân tích, xử lý
và tổng hợp
4
5. tài liệu, so sánh, lôgic
– lịch sử, trừu tượng hóa
khoa học.
6. - Phân tích thực tiễn
để nhìn rõ thực trạng và
đề xuất giải pháp
7. - Dẫn chứng cụ thể
8. Phân tích, nghiên
cứu lý thuyết: thu
thập, phân tích, xử lý
và tổng hợp
9. tài liệu, so sánh, lôgic
– lịch sử, trừu tượng hóa
khoa học.
5
10.- Phân tích thực tiễn
để nhìn rõ thực trạng và
đề xuất giải pháp
11.- Dẫn chứng cụ thể
- Phân tích, nghiên cứu lý thuyết: thu thập, phân tích & tổng hợp tài liệu, so sánh, trừu tượng
hoá khoa học.
- Phân tích thực tiễn để nhìn rõ thực trạng và đề xuất giải pháp.
- Dẫn chứng cụ thể.

4. Ý nghĩa nghiên cứu


Qua việc nghiên cứu đề tài này, cá nhân em muốn tìm hiểu sâu và làm rõ hơn hai phương
pháp sản xuất của giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Từ đó, vận
dụng vào việc phát triển kinh tế tại địa phương nói riêng, Việt Nam nói chung. Ngoài ra, qua
tìm hiểu, hiểu biết của chính bản thân em cũng đang được nâng cao từng ngày, giúp cải thiện
hơn trong quá trình học tập và tiến tới một kết quả đầy tốt đẹp.

5. Nghiên cứu hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nhằm liên hệ với
6. ngành kinh tế nước nhà, không ngừng phát triển nền kinh tế địa phương – đưa
7. Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.
8. Nghiên cứu hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nhằm liên hệ với
9. ngành kinh tế nước nhà, không ngừng phát triển nền kinh tế địa phương – đưa
10. Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.

Quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta đang ngày càng phát triển. Vì vậy, việc
nghiên cứu sản xuất giá trị thặng dư gợi ra cho nhà hoạch định chính sách phương thức làm
3

Nghiên cứu hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nhằm liên hệ với
ngành kinh tế nước nhà, không ngừng phát triển nền kinh tế địa phương – đưa
Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.

6
Phân tích, nghiên cứu lý
thuyết: thu thập, phân
tích, xử lý và tổng hợp
tài liệu, so sánh, lôgic –
lịch sử, trừu tượng hóa
khoa học.
- Phân tích thực tiễn để
nhìn rõ thực trạng và đề
xuất giải pháp
- Dẫn chứng cụ thể
I. Tổng quan về giá trị
thặng dư, hai phương
pháp sản xuất

7
II. của giá trị thặng dư
trong nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa
III.Tổng quan về giá trị
thặng dư, hai phương
pháp sản xuất
IV. của giá trị thặng dư
trong nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa
V. Tổng quan về giá trị
thặng dư, hai phương
pháp sản xuất

8
VI. của giá trị thặng dư
trong nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa
VII. Tổng quan về giá trị
thặng dư, hai phương
pháp sản xuất
VIII. của giá trị thặng dư
trong nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa
TỔNG QUAN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ, HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT
CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
I. TỔNG QUAN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ, HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT
CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA

1. Giá trị thặng dư


- Học thuyết về giá trị thặng dư là một trong những phát kiến lớn nhất mà Mác đã đóng góp
cho nhân loại. Cho đến nay học thuyết giá trị thặng dư của Mác vẫn giữ nguyên giá trị. Tuy
nhiên nó cần được phát triển phù hợp với thực tiễn ngày nay.
Trước C.Mác, ngay cả những nhà kinh tế tư bản lỗi lạc như D. Ricardo cũng không giải thích
được vì sao trao đổi hàng hoá theo đúng quy luật giá trị mà nhà tư bản vẫn thu được lợi
nhuận. Nhờ phân biệt được phạm trù lao động và tính chất hai mặt của lao động sản xuất
hàng hoá, C. Mác đã chứng minh một cách khoa học rằng trong quá trình sản xuất hàng hoá
lao động cụ thể của công nhân chuyển giá trị của tư liệu sản xuất đã được tiêu dùng sang sản
phẩm, đồng thời lao động trừu tượng của người đó thêm vào sản phẩm một giá trị mới lớn
hơn giá trị sức lao động của mình. Khoản lớn hơn đó, tức là số dư ra ngoài khoản bù lại giá
trị sức lao động, C. Mác gọi là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt.
- Khi nói đến tư bản người ta thường liên tưởng đến tiền, đến tư liệu sản xuất, nhưng không
phải như vậy, mà tư bản là quan hệ sản xuất hàng hoá, là mối quan hệ sản xuất giữa giữa giai
9
cấp tư sản và giai cấp công nhân làm thuê, tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng
cách bóc lột lao động không công của công nhân làm thuê. Bởi vậy, cũng dễ hiểu khi mục
đích của giai cấp tư sản là giá trị thặng dư. Nhưng để sản xuất giá trị thặng dư, trước hết nhà
tư bản phải sản xuất ra hàng hoá có giá trị sử dụng, vì giá trị sử dụng là nội dung vật chất của
hàng hoá, là vật mang giá trị và giá trị thặng dư. Đây cũng là quá trình nhà tư bản tiêu dùng
hàng hoá sức lao động và tư liệu sản xuất để sản xuất giá trị thặng dư. Bởi thế mỗi sản phẩm
được làm ra đều được kiểm soát bởi nhà tư bản và thuộc sở hữu của nhà tư bản. Trong quá
trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, bằng lao động cụ thể của mình công nhân lao động làm thuê
sử dụng tư liệu sản xuất và chuyển giá trị của chúng vào hàng hoá, bằng lao động trừu tượng
công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư.
Khi thu được giá trị thặng dư nhà tư bản sẽ chia nó làm nhiều phần, sử dụng vào những mục
đích khác nhau, trong đó một phần rất lớn dùng mua tư liệu sản xuất, để tái mở rộng sản xuất
nhằm đem lại nhiều sản xuất giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản.

2. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa
Đã có nhiều phương pháp được dùng để tạo ra giá trị thặng dư, nhưng C. Mác đã chỉ ra nhà
tư bản sử dụng hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
và sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Mỗi một phương pháp mang một đặc điểm, tính chất
riêng, đặc trưng đại diện cho một trình độ khác nhau của giai cấp tư sản, cũng như từng giai
đoạn lịch sử khác nhau của xã hội.

2.1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

- Ở giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi khoa học kĩ thuật còn
thấp, tiến bộ vô cùng chậm chạo, trì trệ, thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư đó
là kéo dài ngày lao động của công nhân. Giai đoạn này, nền kinh tế sản xuất chủ yếu dùng là
lao động thủ công hoặc lao động với những máy móc giản đơn ở công trường thủ công. Như
vậy, có thể hiểu: giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và
thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
- Chẳng hạn, nếu ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao
động thặng dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. Giả định nhà tư bản kéo dài ngày lao
động thêm 2 giờ nữa với mọi điều kiện không đổi thì giá trị thặng dư tuyệt đối sẽ tăng từ 4
giờ lên 6 giờ và tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:
m’= 6 giờ/ 4 giờ * 100%= 150%
- Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động và
phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản. Nhưng ngày lao
động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất và tinh thần
của người lao động quyết định. Dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là
hàng hoá, nhưng nó lại tồn tại trong cơ thể sống của con người. Vì vậy, ngoài thời gian người
công nhân làm việc cho nhà tư bản trong xí nghiệp, người công nhân đòi hỏi còn phải có thời
gian để ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái sản xuất ra sức lao động.
- Mặt khác, sức lao động là thứ hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật chất người công
nhân đòi hỏi còn phải có thời gian cho những nhu cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất, tôn
giáo của mình. Từ đó tất yếu dẫn đến phong trào của giai cấp vô sản đấu tranh đòi giai cấp tư
sản phải rút ngắn thời gian lao động trong ngày. Giới hạn dưới của ngày lao động không thể
bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thăng dư bằng không. Như vậy, về
mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu nhưng không thể vượt quá
giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.

10
Vì vậy, giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới tinh vi hơn, đó là
phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.

2.2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
- Để khắc phục những vấn đề mà phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối gặp phải thì nhà tư
bản đã áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối vào sản xuất. Việc kéo
dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động và vấp phải cuộc
đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ
nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kĩ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất
lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên
cơ sở tăng năng suất lao động, bó lột giá trị thặng dư tương đối.
- Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu
bằng cách nâng cao năng suất lao động xã hội, nhờ đó tăng thời gian lao động thăng dư lên
ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn như cũ. Vì giá trị sức lao động được quyết
định bởi các tư liệu tiêu dùng và dịch vụ để sản xuất, tái sản xuất sức lao động, nên muốn hạ
thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho
người lao động. Điều đó chỉ được thực hiện bằng cách tăng năng suất lao động xã hội cho các
ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra các tư
liệu sinh hoạt và dịch vụ.
- Giả sử ngày lao động là 8 giờ, nó được chia ra 4 giờ là thời gian lao động tất yếu, 4 giờ là
thời gian lao động thặng dư, khi đó tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. Nhưng khi máy móc
được thay đổi, ngày lao động không thay đổi, thời gian lao động tất yếu của người công nhân
chỉ còn lại là 3 giờ, thời gian lao động thặng dư đã tăng lên là 5 giờ, vì vậy tỷ suất thặng dư
đã tăng lên là 166%. (Đồng nghĩa với trình độ bóc lột tăng lên).
- Sự ra đời và phát triển và sử dụng rộng rãi máy móc đã làm cho năng suất lao động tăng lên
nhanh chóng. Máy móc có ưu thế tuyệt đối so với các công cụ thủ công, vì công cụ thủ công
là công cụ lao động do con người trực tiếp sử dụng bằng sức lao động nên bị hạn chế bởi khả
năng sinh lý của con người, nhưng khi lao động bằng máy móc sẽ không gặp phải những hạn
chế đó. Vì thế, việc sử dụng máy móc làm năng suất lao động tăng lên rất cao, làm giảm giá
trị tư liệu sinh hoạt, làm hạ thấp giá trị hàng hoá sức lao động, rút ngắn thời gian lao động tất
yếu kéo dài thời gian lao động thặng dư, giúp nhà tư bản thu được nhiều giá trị thặng dư hơn.
- Phương pháp giá trị thặng dư tương đối ngày càng được nâng cao do các cuộc cách mạng
khoa học, đặc biệt cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển với tốc độ vũ bão, đem lại
sự phát triển chưa từng có trong lịch sử loài người, nó khác với cuộc cách mạng khoa học là
dẫn đến sự hình thành các nguyên lý công nghệ sản xuất mới.
- Một dạng của giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư siêu ngạch, đây là cái đích
hướng tới của các nhà tư bản. Giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư thu được do áp
dụng công nghệ mới làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội của nó. Xét
trong từng trường hợp giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, nó sẽ bị mất đi khi
công nghệ đó đã được phổ biến rộng rãi, nhưng xét theo phạm vi toàn xã hội thì đây một hiện
tượng thường xuyên. C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị
thặng dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên
cơ sở tăng năng suất lao động.

3. Mối quan hệ của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư

3.1. Điểm tương đồng


- Nhìn chung, hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đều có đôi nét giống nhau. Ví dụ
như, đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, nhà tư bản tìm mọi cách thức để đạt được
giá trị thặng dư mà mình mong muốn.

11
- Nhà tư bản làm cho thời gian lao động thặng dư kéo dài ra. Khi đó, tỷ suất giá trị thặng dư
tăng lên không ngừng. Như vậy, mục tiêu mà họ hướng tới đều đạt được một cách rất suôn
sẻ.
- Không chỉ vậy, phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp giá trị thặng dư
tương đối này còn nâng cao trình độ và quy mô bóc lột của nhà tư bản đối với lao động.

3.2. Điểm khác biệt


- Mỗi một phương pháp có một đặc trưng riêng. Chính những cái riêng ấy làm nên những mặt
mà chỉ có tại từng phương pháp một mới thể hiện đúng và rõ bản chất nhất.
- Nếu như, phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối dựa vào việc tăng cường độ lao động của
công nhân để tăng giá trị thặng dư thì ở phương pháp thặng dư tương đối lại khác. Nhà tư bản
có cách thức tinh vi và nhạy bén hơn. Họ dựa vào việc phát triển năng suất lao động để tạo ra
tỷ suất giá trị thặng dư đến một giai đoạn cao nhất. Như ở phương pháp thặng dư tuyệt đối,
nhà tư bản sẽ kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động cần thiết để đạt được
mục tiêu. Còn ở phương pháp thặng dư tương đối, thay vì cách kéo dài như vậy, họ rút ngắn
thời gian lao động cần thiết để tăng tương ứng thời gian lao động thặng dư. Như vậy, nhưng
hạn chế mà ở phương pháp thặng dư tuyệt đối vấp phải, ở phương pháp này sẽ hoàn toàn
không còn thấy nữa.
- Vấp phải giới hạn thời gian trong ngày, những tranh cãi quyết liệt từ phía công nhân đòi
giảm thời gian lao động và thời gian để công nhân tái sản xuất lao động, phương pháp sản
xuất thặng dư tuyệt đối vẫn còn nhiều khúc mắc và chưa thực sự hiệu quả giúp cho nhà tư
bản đạt được gí trị thặng dư như mong muốn. Với cải tiến khoa học công nghệ, phương pháp
thăng dư tương đối không giới hạn về thời gian. Bởi việc áp dụng công nghệ sản xuất mới tạo
khả năng phát triển năng suất lao động lên vô hạn. Khi đó, giá trị thặng dư sẽ không ngừng
tăng lên.
Nhìn chung, hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng
kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê. Dưới chủ nghĩa tư bản,
việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân mà trái
lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay việc tự động hóa sản xuất làm cho
cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế
cho cường độ lao động cơ bắp.

II. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CỦA TƯ BẢN VỀ HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN
XUẤT CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ HIỆN NAY

Thực tế cho thấy, hai


phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư không hề tách
rời
12
nhau, mà chỉ trong mỗi
thời kì khác nhau, sự vận
dụng của hai phương pháp

nhiều hay ít mà thôi.
Trong thời kì đầu của chủ
nghĩa tư bản, phương pháp
giá
trị thặng dư tuyệt đối được
sử dụng nhiều hơn so với
phương pháp giá trị thặng
dư tương đối. Còn trong
thời kì sau của chủ nghĩa
tư bản thì ngược lại.
13
Hiện nay, ở thời điểm xã
hội vô cùng hiện đại, quá
trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa ngày càng
được chú trọng và phát
triển hơn, nhà tư bản kết
hợp hài
hòa và cô cùng tốt giữa
hai phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư tương đối

tuyệt đối. Chính điều này
đã tạo ra ngày càng nhiều
giá trị thặng dư cho nhà tư
14
bản.
Mục đích sau cùng của
các nhà tư bản dù ở giai
đoạn nào cũng đều là sản
xuất ra giá trị thặng dư tối
đa. Vì vậy, thay vì chọn
một trong hai phương
pháp,
nhà tư bản lựa chọn kết
hợp, sử dụng nhiều
phương pháp để tăng tỷ
suất và khối
lượng giá trị thặng dư.
Bằng cách tăng cường các
15
phương tiện kỹ thuật và
quản
lý để bóc lột ngày càng
nhiều sức lao động làm
thuê, nhà tư bản đặt mục
tiêu tạo
ra một giá trị thặng dư với
con số vượt bậc. Máy móc
hiện đại được áp dụng,
các lao động chân tay
bị cắt giảm nhưng điều
đó không đi đôi với
giảm nhẹ

16
cường độ lao động của
người công nhân. Mà trái
lại, do việc áp dụng máy
móc
không đồng bộ nên khi
máy móc chạy với tốc độ
cao, có thể chạy với tốc
độ
liên tục buộc người công
nhân phải chạy theo tốc
độ vận hành máy. Điều
này
làm cho cường độ lao
động tăng lên, năng suất
17
lao động cũng tăng. Ngoài
ra,
nền sản xuất hiện đại áp
dụng tự động hóa cao
cường độ lao động người
công
nhân tăng lên với hình
thức mới đó là cường độ
lao động thần kinh thay
thế cho
cường độ lao động cơ bắp,
tạo ra sản phẩm chứa
nhiều chất xám có giá trị
lớn
18
- Thực tế cho thấy hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư không hề tách rời nhau, mà chỉ
trong mỗi thời kì khác nhau, sự vận dụng của hai phương pháp là nhiều hay ít mà thôi. Trong
thời kì đầu của chủ nghĩa tư bản, phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối được sử dụng nhiều
hơn so với phương pháp giá trị thặng dư tương đối. Còn trong thời kì say của chủ nghĩa tư
bản thì ngược lại.
- Hiện nay, ở thời điểm xã hội vô cùng hiện đại, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày
càng được chú trọng và phát triển hơn, nhà tư bản kết hợp hài hoà vô cùng tốt giữa hai
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và tuyệt đối. Chính điều này đã tạo ra ngày
càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản
- Mục đích sau cùng của các nhà tư bản dù ở giai đoạn nào cũng đều là sản xuất ra giá trị
thặng dư tối đa. Vì vậy, thay vì chọn một trong hai phương pháp, nhà tư bản lựa chọn kết
hợp, sử dụng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Bằng cách
tăng cường các phương tiện kỹ thuật và quản lý để bóc lột ngày càng nhiều sức lao động làm
thuê. Máy móc hiện đại được áp dụng, các lao động chân tay bị cắt giảm nhưng không đồng
nghĩa giảm nhẹ cường độ lao động của người công nhân. Mà trái lại, việc áp dụng máy móc
không đồng bộ nên khi máy móc chạy với tốc độ cao, người công nhân phải chạy theo tốc độ
vận hành máy. Điều này giúp cho cường độ lao động & năng suất lao động tăng lên đáng kể.
Ngoài ra, nền sản xuất hiện đại áp dụng tự động hoá cao cường độ lao động người công nhân
tăng lên với hình thức mới đó là cường độ lao động thần kinh thay cho cường độ lao động cơ
bắp, tạo ra sản phẩm chứa nhiều chất xám có giá trị lớn.
- Trong suốt những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng, nghiên cứu và vận dụng học
thuyết kinh tết của Mác và cụ thể là học thuyết giá trị thặng dư. Ở điều kiện hoàn cảnh mới
hiện nay, các nghiên cứu đã chứng minh những luận điểm đúng đắn của Mác: “Chỉ có lao
động mới tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, máy móc tuy có vai trò không thể thiếu trong quá
trình sản xuất, là điều kiện để sản xuất giá trị thặng dư song nó không làm tăng giá trị mà chỉ
chuyển dần giá trị của nó vào trong sản phẩm mới; phân tích rõ đặc điểm, vai trò của lao
động trí tuệ, lao động quản lý trong quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thặng dư;
khẳng định sản xuất tạo ra giá trị thặng dư hay lợi nhuận vẫn là quy luật tuyệt đối của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn là chế độ xã hội dựa trên cơ sở
bóc lột lao động làm thuê...”. Điều này cho thấy lý luận giá trị thặng dư của Mác trong điều
kiện mới của thời đại được khẳng định.
- Có thể nói, sản xuất tư bản trong điều kiện hiện đại ngày nay là sự kết hợp vô cùng tinh vi
của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối. Vận dụng tốt lý luận giá
trị thặng dư trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
điều này khẳng định rõ Việt Nam đang làm rất tốt trong công cuộc áp dụng công nghệ kĩ
thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động, phân phối giá trị thặng dư. Việc kết hợp hai
phương pháp giá trị thặng dư là việc làm rất khôn ngoan mà tư bản làm để không ngừng cải
tiến kinh tế đất nước.

III. GIẢI PHÁP ĐỀ RA VÀ VẬN DỤNG VÀO PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ
NƯỚC TA

Trong bối cảnh hiện nay, việc sản xuất giá trị thặng dư nghiên cứu hai phương pháp nói trên
được vận dụng vào các doanh nghiệp nước ta với mục đích kích thích sản xuất, tăng năng

19
suất lao động xã hội, sử dụng kỹ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí quản lý.
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản xuất giá trị
thặng dư gợi ra cho nhà định hoạch chính sách, phương thức làm tăng của cải thúc đẩy phát
triển kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp, để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế cần tận dụng triệt để các nguồn lực nhất là lao động và sản xuất kinh doanh. Về lâu
dài, chúng ta cần phải coi trọng việc tăng năng suất lao động xã hội, đẩy mạnh công nghiệp
hoá - hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. Đây được coi là giải pháp cơ bản để tăng năng suất
lao động xă hội.
- Những biến động phức tạp, khó lường trong phát triển kinh tế thế giới như toàn cầu hoá,
khu vực hoá các công ty quốc gia, sự thay đổi của các yếu tố địa chính trị, địa kinh tế và đặc
biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với sự phát triển của công nghệ số, công nghệ sinh
học, thực tế ảo,... Sự thay thế của máy móc tự động và trí tuệ nhân tạo cho lao động sống của
con người;... đang có xu hướng dần suy giảm, tri thức đã và đang trở thành yếu tố quyết định
nhất trong nền sản xuất hiện đại. Nhiều yếu tố mới đã xuất hiện trong phân phối thu nhập qua
sự hình thành của tầng lớp trung lưu bao gồm bộ phận công chức, người lao động có tay nghề
cao có mức sống khá,.... tại các nước tư bản phát triển. Nhiều nước tư bản phát triển đã đạt
trình độ cao về phúc lợi xã hội, phải chăng đó là những điều kiện biểu hiện mới của sản xuất.
và phân phối giá trị thặng dư. Chính sách phân phối còn nhiều điều bất hợp lý chưa thực sự
khơi dậy được hiệu quả các động lực để phát triển kinh tế, làm cho khoảng cách giàu nghèo
ngày càng giãn rộng.
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối được vận dụng vào công
nghiệp hoá - hiện đại hoá nước ta. Hiện nay, giá trị thặng dư là do lao động không công của
công nhân lao động làm thuê tạo ra, là mục đích của tư bản, của giai cấp tư sản. Giá trị thặng
dư thu được là cơ sở tiền đề để xây dựng đất nước & chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, vì
mục đích của xã hội, vì con người không tách ra khỏi xu hướng của xã hội. Việt Nam vận
dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào công cuộc xây dựng đất nước. Quá trình
chuyển đổi các hoạt động sản xuấ kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao
động thủ công sang sử dụng một cách phổ biến công nghệ phương tiện hiện đại hoá là tiền đề
về vật chất kỹ thuật, về con người, yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất cho chủ nghĩa xã hội.
Là một nước tiến lên xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn thống trị của giai cấp tư sản,
chúng ta không được kế thừa tất cả những vấn đề nảy sinh một cách tự phát như những sáng
tạo của người đi trước.
- Vận dụng sáng tạo hai phương pháp sản xuất cùng lý luận giá trị thặng dư của C.Mác, Việt
Nam trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang vô
cùng cố gắng và tận dụng mọi cơ hội để phát triển. Ngày nay, sức cạnh tranh trên thị trường
ngày càng lớn. Để thành công trong công việc kinh doanh, người chủ kinh doanh không chỉ
có đóng góp tài sản, tiền vốn mà còn đóng góp sức lao động của mình vào quá trình sản xuất.
Sức lao động đó trực tiếp góp phần tạo ra giá trị thặng dư. Tài sản và vốn là yếu tố thu hút lao
động, và nhờ vậy sản xuất ra giá trị thặng dư và phần thu nhập của người chủ kinh doanh là
không liên quan đến bóc lột. Hiện nay, ở nước ta đang thực hiện cách phân phối này – phân
phối theo lao động và phân phối theo vốn tài sản. Phân phối theo lao động thì dựa trên
nguyên tắc lao động ngang nhau thì hưởng ngang nhau, làm nhiều hưởng hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít.
Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay cần có phương hướng khai thác và vận dụng những tư
tưởng và các nguyên lý của học thuyết giá trị thặng dư một cách hiệu quả để đạt được những
thành tựu mới đưa nền kinh tế đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cần phải nhận thức lại hàng hoá sức lao động không phải là phạm trù riêng có của chủ nghĩa
tư bản và phạm trù giá trị thặng dư xét về mặt định lượng cũng vậy. Nó tồn tại như là một
bước tiến của các xã hội mà ở đó năng suất lao động vượt khỏi lao động tất yếu của họ. Nó là

20
nguồn gốc của tích luỹ để mở rộng và hiện đại hoá sản xuất kinh doanh; là nguồn gốc của sự
giàu có văn minh. Chính nó đòi hỏi xã hội cần phải:
- Tìm mọi cách để tăng thời gian lao động thặng dư và nhất là tăng năng suất của lao động
thặng dư.
- Tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản của vốn khi đầu tư và sử dụng nó. Đó là nguyên tắc bảo tồn
vốn và nguyên tắc sinh lợi, nhất là nguyên tắc sinh lợi, để cho một đồng vốn đầu tư sử dụng
được tăng thêm giá trị.
- Xây dựng đồng bộ các loại thị trường, kể cả thị trường sức lao động.
Vấn đề thu hồi giá trị thặng dư và định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện cho phép bóc
lột giá trị thặng dư đã được Lênin trình bày lý luận và kinh nghiệm chỉ đạo thực tiễn ở nước
Nga trước đây. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là:
- Điều tiết một cách đúng đắn, đầy đủ, không để thất thoát phần giá trị thặng dư vào ngân
sách nhà nước.
- Nhà nước sử dụng giá trị thặng dư được điều tiết sao cho có lợi đối với việc thực hiện mục
tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”.
- Nhà nước phải đủ mạnh về thực lực kinh tế, năng lực quản lý và uy tín đối với xã hội.
- Ngăn chặn được những “ma lực” hút sự vận động của nền kinh tế đi chệch khỏi quỹ đạo xã
hội chủ nghĩa.
Về khái niệm giai cấp công nhân được hiểu ở thế kỷ trước cũng khác nhiều so với cách hiểu
của thế kỷ này. Có thể nhận thức lại khái niệm giai cấp công nhân về nhiều phương diện,
song chúng ta không thể bỏ qua hai khía cạnh:
- Xã hội mới – xã hội chủ nghĩa muốn giải phóng người công nhân từ người làm thuê thành
người làm chủ, song không thể làm chủ, nếu họ không có sở hữu về tài sản, vốn. Do vậy, giai
cấp công nhân ngày nay không còn là giai cấp vô sản mà phải là giai cấp hữu sản. Thực tiễn
đã diễn ra như vậy.
- Giai cấp công nhân muốn giữ vai trò lãnh đạo cách mạng, nếu cơ cấu của nó được quan
niệm như là một lực lượng lao động vận động theo hướng lao động có trí tuệ cao, chiếm tỷ
trọng ngày càng nhiều và trở thành đặc trưng của lao động sống.
Kết quả phát triển khả quan của Việt Nam cho thấy trong những năm vừa qua nước ta đã xác
định đúng mục tiêu và nhiệm vụ của mình, chúng ta đã đi đúng hướng trong phát triển kinh
tế, con đường phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là hoàn
toàn phù hợp nhưng cũng phải khẳng định rằng Việt Nam phải cố gắng nhiều hơn nữa thì mới
có thể đạt được mục tiêu tới năm 2025 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp.
Việc nghiên cứu các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đã giúp cho chúng ta thấy rằng:
Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tạo ra tiềm lực to lớn, đủ khả năng xây dựng cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc của toàn dân, và thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh, bảo vệ vững chắc nền độc lập của tổ quốc. Đó là quá trình phấn đấu lâu dài,
gian khổ, đòi hỏi mọi người phải có hoài bão lớn, quyết tâm cao, chấp nhận những khó khăn
thử thách và hy sinh cần thiết để vĩnh viễn đưa dân tộc ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Đó là
điều mà toàn thể nhân dân Việt Nam mong đợi và đang cố gắng.

KẾT LUẬN

Như vậy, quy luật giá trị thặng dư đã phát huy vai trò to lớn của nó đem lại những tiến bộ
vượt bậc và thành tựu kinh tế cho chủ nghĩa tư bản. Nước ta nói riêng và các nước xã hội chủ

21
nghĩa nói chung cần nỗ lực không ngừng trên con đường của mình để xây dựng xã hội chủ
nghĩa trên thế giới. Riêng nước ta, đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ chế độ
phong kiến bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa với xuất phát điểm là một nền kinh tế lạc hậu
chủ yếu là dựa vào nông nghiệp. Yêu cầu đặt ra là phải từng bước xây dựng cơ sở vật chất
cho chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chúng ta phải học tập những thành tựu mà chủ nghĩa tư bản đã
được trong đó quan tâm đặc biệt đến quy luật kinh tế cơ bản của nó là giá trị thặng dư, sửa
chữa quan niệm sai lầm trước kia trong xây dựng kinh tế.

22
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Giáo trình bộ môn Kinh tế


chính trị
3. Tạp chí lý luận chính
trị
4. Tạp chí phát triển kinh
tế
5. Wikipedi
1. Giáo trình bộ môn Kinh tế chính trị
2. Tạp chí lý luận chính trị
3. Tạp chí phát triển kinh tế
4. Wikipedia

23

You might also like