You are on page 1of 9

KIỂM TRA HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

ĐỀ BÀI:
Câu1:
-   Tại sao nói học thuyết giá trị - lao động là hòn đá thử vàng còn học
thuyết giá trị thặng dư là hòn đá tảng trong hệ thống lý luận kinh tế của C. Mác?
- Hãy cho biết giá trị thặng dư siêu ngạch có xuhướng di chuyển như thế
nào giữa các doanhnghiệp trong cạnh tranh(từ đâu tới đâu)?
Câu 2. Đầu tư sinh lợi:
Có 3 phương án đầu tư:
- Gửi tiền vào ngân hàng để thu lợi tức;
- Mua cổ phiếu công ty để thu cổ tức;
- Và mua ruộng đất để thu tô.
Theo em nên đầu tư vào phương án nào để đảmbảo an toàn vốn và sinh lợi
cao nhất?
BÀI LÀM:
Câu 1:
- Học thuyết giá trị lao động là hòn đá thử vàng vì nó là dòng chảu cốt lõi
của quá trình sản xuất, tầm quan trọng của học thuyết có ứng dụng rất
cao trong việc giải thích cách hoạt động sản xuất kinh tế hàng hóa sao
cho thỏa mãn sự khát khao về lợi ích của chủ thể kinh tế.
Học thuyết giá trị là xuất phát điểm trong toàn bộ hệ thống lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, là cơ sở kinh tế để xác lập quan hệ giữa vật với vật, người với
người thống qua quan hệ lao động, các thực thể, yếu tố cấu thành hàng hóa.
Thuyết giá trị lao động được xem là hòn đá thử vàng, tiêu chuẩn xem xét tính
đúng đắn của các học thuyết kinh tế khác.
Phân công lao động chia lao động xã hội thành các ngành, nghề khác nhau.
Sự tách biệt về kinh tế của những người làm sản xuất, sự chiếm hữu khác nhau
về tư liệu sản xuất, tất cả làm cho người sản xuất độc lập và đối lập với nhau
nhưng họ vẫn nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội. Sản xuất hàng hóa
chỉ ra đời khi có điều kiện nói trên. Đối với người sản xuất, sản phẩm họ tạo ra
là hàng hóa, có nghĩa là dùng để trao đổi, để bán. Vì vậy, để tối đa hóa lợi
nhuận, họ phải lựa chọn những ngành, nghề phù hợp mà hàng hóa tạo ra đáp
ứng được nhu cầu thị yếu ngày càng cao của người tiêu dùng.
Việc trao đổi hàng hóa phải dựa trên nguyên tắc ngang giá, tức là hai hàng
hóa có giá trị sử dụng khác nhau nhưng lượng giá trị bằng nhau thì phải trao đổi
ngang nhau. Điều này phải dựa vào lượng hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất thì hao phí lao động cá biệt phải phù hợp với hao phí lao động xã
hội cần thiết. Trong nền sản xuất hàng hóa, vấn đề đặc biệt quan trọng là hàng
hóa có bán được hay không? Để có thể bán được thì hao phí lao động để sản
xuất ra hàng hóa của các chủ thể kinh doanh phải phù hợp với mức hao phí lao
động mà xã hội có thể chấp nhận. Mức hao phí càng thấp thì họ càng có khả
năng phát triển kinh doanh, thu được nhiều lợi nhuận,… Ngược lại sẽ bị thua lỗ,
phá sản…
Việc nghiên cứu học thuyết giá trị lao động của Mác – Lênin là việc tìm
câu trả lời cho câu hỏi: “ Người sản xuất nào có cơ hội trở thành người giàu?
Người sản xuất nào có nguy cơ phá sản trở thành người nghèo? Tại sao? Những
nhà sản xuất có cơ hội trở thành người giàu phải là người nắm rõ được quy luật
giá trị. Nhà sản xuất phải tìm hiểu rõ thị trường hàng hóa, phân tích được nhu
cầu thị hiếu của từng nhóm khách hàng từ đó đầu tư và hàng hóa tạo ra đang
cuốn hút người tiêu dùng, có thể bán ra hàng hóa đó với doanh số cao nhất có
thể. Đồng thời người sản xuất còn phải dựa trên hao phí lao động xã hội cần
thiết để sản xuất hàng hóa. Muốn tối đa hóa lợi nhuận thì nhà sản xuất phải rút
ngắn thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội cần thiết càng
nhiều càng tốt. Để làm được như vậy, họ phải tìm mọi cách cải tiến khoa học kỹ
thuật, hợp lí hóa sàn xuất, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mới vào sản
xuất, tăng năng xuất lao động làm giảm giá trị hàng hóa. Ngoài ra nhà sản xuất
còn phải đem lợi nhuận tái đầu tư vào sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất từ đó
lãi mẹ sinh lãi con, sẽ càng ngày càng kiếm được lợi nhuận hơn. Tuy nhiên đối
với người sản xuất không nắm rõ được học thuyết giá trị , đem tiền đầu tư vào
những điều mình thích, mình cho là có lời nhưng lại không biết phân tích điều
kiện thực tế hay chỉ hoa mắt với cái lợi trước mắt mà không lo cải tiến kỹ thuật
sẽ có nguy cơ phá sản cao.
Tầm quan trọng của học thuyết trong thực tiễn sản xuất:
Thứ nhất, đối với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nếu cả lao động
được tích lũy (tư bản) cũng tham gia vào việc tạo ra giá trị (chứ nó không chỉ
giản đơn mang giá trị phần hao mòn vô hình của mình trong quá trình sản xuất
sang hàng hóa mới được tạo ra), thì rõ ràng tồn tại “phần lợi nhuận hợp pháp” có
nguồn gốc không phải từ lao động sống tự thân, từ hoạt động của sức công nhân,
mà từ tư liệu sản xuất thuộc về nhà tư bản (không xét đến cùng). Nhưng về lý
thuyết, rất phức tạp để xác định “phần hợp pháp” đó. Cả công nhân lẫn nhà tư
bản đều không mấy quan tâm trực diện chuyện này. Công nhân thì cho rằng,
toàn bộ những gì được tạo ra đều phải thuộc về những người trực tiếp sản xuất
như họ. Nhà tư bản lại cho rằng, khi đã trả cho giá trị của sức lao động (trả tiền
cho việc sử dụng nó trong suốt thời gian thuê mướn, tức là dưới dạng cảm tưởng
như tiền lương của toàn bộ lao động), thì nhà tư bản có quyền định đoạt toàn bộ
sản phẩm được sản xuất ra, trong đó có cả sản phẩm thặng dư. Nhưng việc xác
định được “phần hợp pháp” đó
Thứ hai, khi phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa thắng lợi, thì còn có
thể xác định khách quan hơn phần sản phẩm xã hội tổng thể được dùng để thỏa
mãn các nhu cầu chung của xã hội, và phần được phân phối theo lao động có
tính đến độ dài thời gian, cường độ, và chủ yếu là độ phức tạp của chính lao
động. Những nhận xét nêu trên giúp hé lộ ra nhiều điểm có ý nghĩa đối với học
thuyết giá trị thặng dư. Mác đã gọi tập 4 của Tư bản là Học thuyết giá trị thặng
dư. Do vậy sự tồn tại của sản phẩm thặng dư và giá trị thặng dư đối với Mác là
không thể tranh cãi, hay Mác thẳng thắn thừa nhận sự tồn tại của chúng.
Trong thời gian lao động, người công nhân tạo ra không chỉ giá trị cần thiết
cho sự tồn tại sức lao động của mình, của năng lực lao động ở nghĩa thông
thường (bao gồm cả tồn tại của giống loài mình, của giai cấp những người sản
xuất), mà cả phần giá trị thặng dư bị người sở hữu tư liệu sản xuất trực tiếp tước
đoạt. Nếu những suy ngẫm mang tính phê phán nêu trên (không chỉ lao động,
mà các yếu tố khác của sản xuất cũng tham gia tạo thành nguồn gốc của giá trị)
là đúng, thì ngoài lao động sống là nguồn gốc chủ yếu của phần giá trị thặng dư,
còn phải kể thêm vào đây các phương tiện được sử dụng trong quá trình sản xuất
ra nó, và các yếu tố khác đã được nhắc tới ở trên. Và do vậy, không phải toàn bộ
giá trị thặng dư đều thuộc về người chủ sở hữu phương tiện sản xuất (Mác gián
tiếp nhắc nhở điều này khi ông hoạch định sự phân phối sản phẩm xã hội tổng
thể ở giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa). Một phần của nó, dưới dạng
thuế khóa, sẽ được chi dùng để thỏa mãn các nhu cầu chung.
Như vậy chúng ta có thể thấy việc thực hiện nghiên cứu học thuyết giá trị,
hiểu rõ quy luật giá trị sẽ có kiến thức điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa;
kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Từ đó giúp cho chúng ta hiểu rõ nguyên nhân
của việc lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa; nguyên nhân
của sự phân hóa xã hội thành người giàu, người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng
trong xã hội để có phương hướng, giải pháp khắc phục. qua đây chúng ta cũng
thấy được các điểm chính của học thuyết nay từ đó có thể vận dụng vào thực
tiễn.
- Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác là nội dung cơ bản của học
thuyết kinh tế Mác – Lênin và là "hòn đá tảng" trong học thuyết kinh tế
của C. Mác bởi giá trị lý luận và ý nghĩa của nó là một đóng góp to lớn
cho quá trình phát triển và bộc trần bản chất kinh tế của xã hội tư bản.
Nội dung cơ bản của học thuyết giá trị thặng dư:
Học thuyết giá trị thặng dư được hình thành trên cơ sở học thuyết giá trị -
lao động mà trực tiếp là việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất
hàng hóa. Việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có
ý nghĩa to lớn về mặt lý luận, đem đến cho lý thuyết giá trị - lao động một cơ sở
khoa học thực sự.
Khi nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác chỉ rõ giá trị thặng dư là
lao động không công của công nhân cho nhà tư bản chỉ được tạo ra trong quá
trình sản xuất nhờ tính chất đặc biệt của loại hàng hoá sức lao động. Đồng thời
C.Mác khẳng định rằng: Sản xuất ra giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối
của chủ nghĩa tư bản. Quy luật giá trị thặng dư đòi hỏi sản xuất giá trị thặng dư
ngày càng nhiều cho các nhà tư bản bằng cách tăng cường bóc lột lao động làm
thuê trên cơ sở mở rộng sản xuất và phát triển kỹ thuật. C. Mác chỉ ra có hai
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối, đồng thời chỉ ra
sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của sản xuất giá trị
thặng dư tương đối.
Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa, vì: Quy luật này không những vạch rõ mục đích của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa là sản xuất giá trị và giá trị thặng dư mà còn vạch rõ phương thức
mà các nhà tư bản sử dụng để kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động và
tăng năng suất lao động để tăng cường bóc lột công nhân làm thuê.
Quy luật giá trị thặng dư ra đời cùng với sự ra đời của quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa, tồn tại và phát huy tác dụng cùng với sự tồn tại và vận động của
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Quy luật giá trị thặng dư chi phối các quy luật kinh tế khác, như: Quy luật
lợi nhuận, quy luật lợi nhuận bình quân, quy luật lợi nhuận siêu ngạch,…
Quy luật này quyết định toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển của chủ
nghĩa tư bản, đồng thời đây cũng là nguyên nhân làm cho mâu thuẫn cơ bản và
nói chung toàn bộ mâu thuẫn của xã hội tư bản ngày càng sâu sắc, tất yếu dẫn
đến sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, thoạt nhìn, việc mua bán sức lao động cũng giống như mua bán
các hàng hóa thông thường khác, nhưng ẩn sau quan hệ “thuận mua vừa bán” đó
là sự bóc lột tinh vi của nhà tư bản đối với người công nhân. Do đó, “sản xuất
giá trị thặng dư” chỉ là sự bóc lột lao động không công của công nhân một cách
tinh vi của nhà tư bản.
Giá trị lý luận của học thuyết giá trị thặng dư:
Các nhà kinh tế trước C. Mác thấy được lao động tạo ra giá trị, nhưng
không tách ra được lao động nào (cụ thể hay trừu tượng) tạo ra giá trị. C. Mác
cho thấy, chỉ có lao động trừu tượng mới tạo ra giá trị của hàng hóa. Nhờ phát
hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa cùng với một loạt
những kết quả nghiên cứu khác: Về lượng giá trị, cấu thành lượng giá trị; nguồn
gốc, bản chất, chức năng tiền tệ; quy luật giá trị và tác động của nó; mâu thuẫn
công thức chung của tư bản và đặc biệt là nhờ phát hiện ra giá trị sử dụng đặc
biệt của hàng hóa sức lao động có thuộc tính hết sức đặc biệt là sản sinh ra giá
trị lớn hơn giá trị bản thân nó và nhờ phân biệt được quá trình lao động và quá
trình làm tăng giá trị (quá trình sản xuất GTTD), C. Mác đã vạch rõ bản chất của
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN), thực chất của quá trình sản xuất GTTD.
Qua đó, C. Mác làm rõ GTTD được tạo ra trong sản xuất chứ không phải là
trong lĩnh vực lưu thông; lưu thông rất cần cho quá trình sản xuất và thực hiện
GTTD.
Tất cả thành quả đó, tạo nên cơ sở khoa học vững chắc giúp C. Mác giải
thích được nguồn gốc thực sự và quá trình vận động, biến tướng của GTTD
thành lợi nhuận, lợi tức, địa tô trong sản xuất, lưu thông, phân phối; phân tích
được bản chất của tư bản bất biến và tư bản khả biến... xây dựng nên học thuyết
khoa học về GTTD, về tích lũy, về tái sản xuất và khủng hoảng kinh tế... Với
học thuyết GTTD, C. Mác đã giải phẫu toàn bộ hệ thống kinh tế TBCN, bóc trần
bản chất và nguồn gốc của cái gọi là hình thức “thu nhập” là lợi nhuận, lợi tức
và địa tô.
Học thuyết GTTD cho thấy rõ bản chất và đặc điểm bóc lột của TBCN.
Kinh tế hàng hóa TBCN là sự phát triển của kinh tế hàng hóa giản đơn. Nhưng,
kinh tế hàng hóa TBCN khác với kinh tế hàng hóa giản đơn không chỉ về lượng
(tức là không phải chỉ khác ở số lượng lớn sản phẩm bị thu hút vào chu chuyển
hàng hóa và hình thái hàng hóa của sản phẩm trở thành hình thái thống trị) mà
còn khác về chất. Trên vũ đài hàng hóa xuất hiện một loại hàng hóa mới là sức
lao động, do đó, thị trường hàng hóa (nói chung) được bổ sung bằng một bộ
phận đặc biệt là thị trường sức lao động. Tất nhiên, thị trường sức lao động
không phải do C. Mác khám phá ra, vì ai cũng biết đến sự tồn tại của lao động
làm thuê trong các xã hội trước TBCN. Nhưng điểm nhấn là ở chỗ, chỉ có C.
Mác mới nhìn thấy lao động làm thuê (hàng hóa sức lao động và chỉ trên cơ sở
sản xuất hàng hóa, lao động bị tách khỏi tư liệu sản xuất (TLSX) mới trở thành
lao động làm thuê) là một nhân tố cơ bản làm cho tiền chuyển hóa thành tư bản
và kinh tế hàng hóa giản đơn chuyển hóa thành kinh tế hàng hóa TBCN - thời
đại mới của quá trình sản xuất xã hội, thời đại của tư bản công nghiệp.
Phương thức sản xuất TBCN được xây dựng trên cơ sở của một hình thức
bóc lột đặc biệt, tức là hình thức chiếm đoạt lao động của người khác (lao động
thặng dư) dưới hình thái GTTD. Khác với phạm trù “lợi nhuận” vốn được nhà tư
bản yêu thích, GTTD biểu hiện một cách chính xác như sau: 1- Là giá trị, tức lao
động vật hóa; 2- Là lao động thặng dư vật hóa, là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị
sức lao động và bị nhà tư bản chiếm dụng. Từ đó, đặc điểm bóc lột của CNTB
không phải là ở sự tồn tại lao động thặng dư, mặc dù dưới sự thống trị của tư
bản, trình độ bóc lột được nâng lên rất cao, mà đặc điểm của nó là lao động
thặng dư đã hao phí mang hình thái GTTD, còn tỷ lệ giữa thời gian lao động
thặng dư và thời gian lao động tất yếu thì mang hình thái tỷ lệ giữa GTTD và tư
bản khả biến. Quan hệ bóc lột bị vật hóa, bị che lấp đằng sau quan hệ giữa vật
với vật. Vì thế, sự bóc lột trong chủ nghĩa tư bản (CNTB) là rất tinh vi và không
có giới hạn.
Học thuyết giá trị thặng dư làm rõ rằng:
Thứ nhất, chỉ có lao động sống mới tạo ra giá trị của hàng hóa, tạo ra
GTTD. Nguồn gốc tạo ra GTTD là sức lao động của công nhân làm thuê, chỉ có
lao động sống (sức lao động đang hoạt động) mới tạo ra giá trị, trong đó có
GTTD, nguồn gốc của GTTD là sự tiêu dùng sức lao động kéo dài ngoài thời
gian tái sản xuất ra giá trị của nó;
Thứ hai, GTTD là quy luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản xuất
TBCN, không có sản xuất GTTD thì không có CNTB, GTTD là nguồn gốc của
mâu thuẫn cơ bản, nội tại của xã hội tư bản (mâu thuẫn giữa lao động và tư bản,
giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân), mâu thuẫn này ngày càng sâu sắc,
đưa đến sự thay thế tất yếu CNTB bằng một xã hội cao hơn.
Thứ ba, chừng nào còn chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX, còn
hàng hóa sức lao động, chừng nào mà người lao động còn phải thêm vào thời
gian lao động cần thiết để nuôi sống mình một số thời gian lao động dôi ra để
sản xuất những tư liệu sinh hoạt cho người chiếm hữu TLSX, chừng đó, học
thuyết giá trị thặng dư của C. Mác vẫn còn nguyên giá trị. 
Ý nghĩa của học thuyết giá trị thặng dư:
Học thuyết giá trị thặng dư đã bóc trần bản chất của nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa;  chứng minh khoa học về cách thức bóc lột của giai cấp tư sản và
luận chứng những mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản. Cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm xóa bỏ mọi chế độ áp bức bóc lột
tư bản chủ nghĩa là tất yếu.
Học thuyết giá trị thặng dư còn trang bị cho giai cấp công nhân và nhân
dân lao động công cụ nhận thức các quy luật kinh tế, thúc đẩy cải tiến kỹ thuật,
phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều hàng
hóa… phục vụ cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
Học thuyết giá trị thặng dư là biểu hiện mẫu mực nghiên cứu và vận dụng
quan điểm duy vật lịch sử vào sự phân tích các quá trình kinh tế trong xã hội tư
bản. Nó cung cấp  tri thức về lịch sử phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa, là
cơ sở khoa học để phân tích nguyên nhân và dự báo chiều hướng phát triển kinh
tế và xã hội.
Học thuyết giá trị thặng dư đến nay vẫn còn nguyên giá trị:
Trong thời đại “hậu công nghiệp” hay “xã hội thông tin” ngày nay, có
nhiều lý lẽ đưa ra để bác bỏ lý luận GTTD. Ở các nước tư bản phát triển, mức
sống của đại đa số công nhân được nâng cao hơn trước rất nhiều, một số công
nhân đã có cổ phiếu trong các xí nghiệp, công ty tư bản, xuất hiện tầng lớp trung
lưu đông đảo. Vì thế, nảy sinh luận điệu không còn có sự “phân biệt tư bản và
lao động”, “không ai bóc lột ai”, CNTB nếu còn bóc lột thì chỉ bóc lột “người
máy”. Vì trong các xí nghiệp hiện đại, tự động hóa, quá trình sản xuất ra sản
phẩm không cần hoặc cần rất ít lao động sống, nhưng giá trị do các xí nghiệp
này tạo ra tăng gấp bội so với các xí nghiệp cổ điển dùng rất nhiều công nhân,...
Những luận điểm “mới mẻ” ấy quả thật cũng có sự hấp dẫn, nhưng
chúng không bác bỏ được sự thật. Chủ nghĩa tư bản mặc dù có những bước phát
triển mới, biến đổi về lượng và chất cục bộ, nhưng bản chất bóc lột không hề
thay đổi. Ngày nay, CNTB tuy có những điều chỉnh nhất định về hình thức sở
hữu, quản lý và phân phối để thích nghi ở mức độ nào đó với điều kiện mới,
nhưng sự thống trị của CNTB tư nhân vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột
của nó vẫn không hề thay đổi. Nhà nước tư sản hiện nay tuy có tăng cường can
thiệp vào đời sống kinh tế - xã hội, nhưng về cơ bản nó vẫn là bộ máy thống trị
của giai cấp tư sản. Những khái niệm và luận điểm phản ánh, đề cập những sự
kiện, quan hệ kinh tế - xã hội mới nhất bao giờ cũng hấp dẫn người ta. Nhưng
chúng không bác bỏ được thực tế là: không phải lao động quá khứ như máy
móc, thiết bị kỹ thuật làm ra giá trị mới, mà lao động sống mới làm ra giá trị
mới, lao động sống mới tạo ra GTTD trong thời đại kinh tế công nghiệp trước
đây đã như vậy, trong kinh tế tri thức hiện đại cũng vậy.
Tuy nhiên, do trình độ đạt được của văn minh nhân loại và do cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân, mà một bộ phận không nhỏ công nhân ở các nước
tư bản phát triển có mức sống tương đối sung túc, nhưng về cơ bản, họ vẫn phải
bán sức lao động và vẫn bị nhà tư bản bóc lột GTTD. Chỉ có điều khác biệt ở
chỗ, quy luật GTTD ngày càng phát huy tác dụng mạnh mẽ trong điều kiện toàn
cầu hóa và kinh tế tri thức, song, cơ chế tác động của quy luật này phức tạp hơn,
hình thức bóc lột GTTD tinh vi hơn nhiều so với trước đây.
Luận điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về chế độ người bóc lột người
trong xã hội tư bản vẫn giữ nguyên giá trị khoa học. Mặc dù đã có sự thay đổi và
điều chỉnh, song có thể khẳng định: bản chất bóc lột của CNTB không thay đổi;
khi nào những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản còn tồn tại thì khi ấy, học
thuyết GTTD vẫn sẽ mãi là ánh sáng chỉ đường cho sự nghiệp giải phóng giai
cấp công nhân và loài người khỏi mọi hình thức nô dịch, áp bức, bóc lột của
CNTB.
Tóm lại, trong xu hướng phát triển kinh tế tri thức hiện nay, học thuyết giá
trị thặng dư của C.Mác vẫn giữ nguyên giá trị, chúng ta cần khai thác học thuyết
giá trị thặng dư với tư cách là một hệ thống lý luận phong phú và sâu sắc về kinh
tế thị trường nhằm vận dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã
hội trong nền kinh tế tri thức. Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác luôn là cơ
sở lý luận cho sự vận dụng vào quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch có xuhướng di chuyển như thế nào giữa các
doanh nghiệp trong cạnh tranh(từ đâu tới đâu):
Giá trị thăng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư thu được do các xí nghiệp sản
xuất có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, khi bán hàng hoá theo giá trị xã
hội, sẽ thu được một số giá trị thặng dư vượt trội so với các xí nghiệp khác . Giá
trị thặng dư siêu ngạch = Giá trị xã hội của hàng hóa – Giá trị cá biệt của hàng
hóa. Giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư
tương đối; là động lực trực tiếp thúc đẩy tăng năng suất lao động.
Vì muốn thu được nhiều giá trị thặng dư và chiếm ưu thế cạnh tranh, các
nhà tư bản áp dụng những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Mục đích là cải tiến,
hoàn thiện phương pháp quản lý kinh tế, nâng cao  năng suất lao động. Kết quả
giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội. Nhà tư bản nào áp dụng cách
này thì hàng hóa khi bán sẽ thu được một số giá trị thặng dư nhiều hơn nhà tư
bản khác.
Giá trị thặng dư siêu ngạch chính là phần giá trị thặng dư thu được trội hơn
giá trị thặng dư bình thường của xã hội. Nếu xét từng nhà tư bản xuất thì giá trị
thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời. Tuy nhiên xét về toàn xã hội tư bản
thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Do đó giá trị
thặng dư siêu ngạch là động lực thúc đẩy mạnh nhất cho các nhà tư bản cải tiến
kỹ thuật, tăng năng suất lao động.
Như thế nhà tư bản chỉ phải bỏ ra ít chi phí hơn các nhà tư bản khác mà vẫn
bán được với giá như các nhà tư bản khác, từ đó thu được giá trị thặng dư cao
hơn. Khi số đông các xí nghiệp đều đổi mới kĩ thuật và công nghệ một cách phổ
biến thì giá trị thặng dư siêu ngạch của doanh nghiệp đó sẽ không còn nữa.

Trong từng xí nghiệp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm
thời, nhưng trong phạm vi xã hội thì nó lại thường xuyên tồn tại. Giá trị thặng
dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất để thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công
nghệ để tăng năng suất lao động cá biệt, đánh bại đối thủ của mình trong cạnh
tranh.

C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị
thặng dư tương đối. Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do
rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động trong
ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt để hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng
thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động,
cường độ lao động vẫn như cũ. Trong đó, giá trị thặng dư là một bộ phận của
giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị
nhà tư bản chiếm không.

C. Mác viết: "Bí quyết của sự tự tăng thêm giá trị của tư bản qui lại là ở
chỗ tư bản chi phối được một số lượng lao động không công nhất định của
người khác".
Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là
động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản
xuất. Tăng năng suất lao dộng, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh
chóng. Vậy doanh nghiệp nào trong thị trường cạnh tranh có thể áp dụng được
tiến bộ khao học kỹ thuật, tở chức quản lý hợp lý và đáp ứng cao nhu cầu người
tiêu dùng thì có giá trị thặng dư siêu ngạch cao. Do đó giá trị thăng dư có xu
hướng di chuyển từ cao xuống thấp

Câu 2:
Theo em đầu tư sinh lời vào mua ruộng dất để thu tô là phương pháp đảm
bảo an toàn vốn và sinh lợi cao nhất. Vì lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn
định, lâu dài và nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải trả cho địa chủ dưới
hình thái địa tô tư bản chủ nghĩa. Địa tô tư bản chủ nghĩa là phần lợi nhuận còn
lại sau khi khấu trừ đi lợi nhuận bình quân mà các nhà tư bản kinh doanh nông
nghiệp phải nộp cho địa chủ, phần lợi nhuận đó là lợi nhuận siêu ngạch.

You might also like