You are on page 1of 14

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


-----------------***-----------------

TIỂU LUẬN

Môn: Kinh tế chính trị Mác – Lênin

ĐỀ TÀI:
Các giải pháp gia tăng lợi nhuận đối với tư bản sản xuất.
Liên hệ ví dụ thực tiễn

Họ và tên : Hồ Phương Uyên


Lớp : TRI115(HK2.2223).3.K61
MSSV
2011510075
:
SBD
96
:
Giảng viên giảng dạy TS.Vũ Thị Quế Anh
:
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong kinh tế, các nhà tư bản luôn mong muốn thu về mức lợi nhuận cao hơn nhiều
nhất có thể so với số vốn ban đầu mà họ bỏ ra khi sản xuất và trao đổi hàng hóa. Lợi
nhuận có thể nói là như một phần thưởng cao quý cho người lao động với sự chăm chỉ,
sáng tạo, năng động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, lợi nhuận đóng vai
trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế ngày nay. Chính vì vậy, với nền kinh tế thị
trường, nếu muốn gia tăng được khả năng cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp cần phải đa
dạng hóa hoạt động kinh doanh của mình trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Từ đó mà
lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp thu được sẽ bao gồm từ nhiều hoạt động khác nhau.
Dù là tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp hay tư bản cho vay, …thì các nhà tư
bản ấy cũng sẽ luôn tìm kiếm, đưa ra những phương pháp, cách thức phù hợp nhất để
tối đa hóa phần lợi nhuận mà họ đặt mục tiêu thu được. Xuất phát từ thực tiễn ấy, em
chọn nghiên cứu đề tài: “Các giải pháp gia tăng lợi nhuận đối với tư bản sản xuất”.
Qua việc tìm hiểu về lợi nhuận nói chung và lợi nhuận của tư bản sản xuất nói riêng,
bài tiểu luận của em sẽ đưa ra những hiểu biết nhất định về lợi nhuận và theo đó là các
phương pháp gia tăng, tối đa hoá một cách tốt nhất lợi nhuận đối với tư bản sản xuất.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Bài tiểu luận hướng tới mục tiêu phân tích rõ ràng và đưa ra những giải pháp cụ thể
chung nhất để nâng cao lợi nhuận của tư bản sản xuất trong nền kinh tế thị trường
ngày nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Bài tiểu luận tập trung, đi sâu nghiên cứu về lợi nhuận nói chung cũng như lợi nhuận
của tư bản thương nghiệp nói riêng trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế ngày
nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận được xây dựng dựa trên các phương pháp nghiên cứu khoa học: phương
pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp thống kê và so sánh
PHẦN NỘI DUNG
I. Lợi nhuận
1. Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận; tỷ suất lợi nhuận
1.1. Nguồn gốc bản chất của lợi nhuận
Lợi nhuận là một đề tài nghiên cứu tranh luận của nhiều trường phái, nhiều nhà lí luận
kinh tế. Adamsmith là người đầu tiên trong các nhà kinh tế học cổ điển nghiên cứu về
lợi nhuận. Theo ông, lợi tức là một phần của lợi nhuận, sinh ra từ lợi nhuận và nguồn
gốc của lợi nhuận là một bộ phận sản phẩm do công nhân tạo nên.
Trên cơ sở lí luận của Adamsmith, Ricardo kế thừa những thành tựu đồng thời gạt bỏ
đi những chỗ chưa hợp lí từ đó bổ sung và phát triển thành lí luận riêng của mình, ông
cho rằng “Lợi nhuận là một phần giá trị do công nhân tạo nên, đó là phần còn lại của
tư bản sau khi đã trừ lương của công nhân”.
Đến thời Karl Marx. ông lại coi lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái tinh thần bí
hóa của giá trị thặng dư. Karl Marx cho rằng: “giá trị thặng dư hay là lợi nhuận, chính
là phần giá trị dôi ra ấy của giá trị hàng hóa so với chi phí sản xuất của nó, nghĩa là
phần dôi ra của tổng số lượng lao động chứa đựng trong hàng hóa so với số lượng lao
động được trả công chứa đựng trong hàng hóa”
Kế thừa được những gì tinh tế nhất của các nhà kinh tế học tư sản cổ điển, kết hợp với
quá trình nghiên cứu sâu sắc nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, Karl Marx đã chỉ rõ được
nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và quan điểm về lợi nhuận của ông là hoàn toàn đúng
đắn, do đó ngày nay khi nghiên cứu về lợi nhuận chúng ta đều nghiên cứu dựa trên
quan điểm của Karl Marx.
Lợi nhuận là khoảng сhênh lệch giữa doаnh thu của doаnh nghiệp và сhi phí mà doаnh
nghiệp đó đầu tư vào hoạt động sản xuất để đạt được mức doаnh thu ấy. Lợi nhuận
được сoi là kết quả tài сhính сuối сùng сủa сác hoạt động kinh doanh, sản xuất… của
doanh nghiệр. Nó cũng chính là cơ sở, là nền tảng để đánh giá hiệu quả kinh tế từ hoạt
động của các doanh nghiệp.
Theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thương: Lợi nhuận chỉ ra đời cùng với sự ra đời
của tiền tệ. Tiền tệ là tiêu chuẩn cơ bản của của cải và được coi là phương tiện lưu
thông, cất trữ, là phương tiện dể thu lợi nhuận.
Theo học thuyết kinh tế cổ điển: nguồn gốc của lợi nhuận lao động không được trả
công còn bản chất của lợi nhuận là quan hệ bóc lột. Vì vậy lợi nhuận là phần giá trị lao
động thừa ra ngoài tiền công. Lợi nhuận là lao động không được trả công tạo ra.
Karl Marx khẳng định nguồn gốc của lợi nhuận là do lao động làm thuê tạo ra, về bản
chất của lợi nhuận là hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư, là kết quả của lợi nhuận
không được trả công. Tuy nhiên lợi nhuận thường không bằng giá trị thặng dư, nó
thường cao hoặc thấp hơn tuỳ thuộc vào giá bán hàng hoá do quan hệ cung cầu trên thị
trường quyết định.
Để tạo ra giá trị của hàng hoá cần một lượng lao động nhất định gọi là hao phí lao
động, bao gồm cả lao động trong quá khứ và hiện tại. Lao động trong quá khứ là giá trị
của tư liệu sản xuất (C), lao động hiện tại là lao động tạo ra giá trị mới (V + m). Hao
phí lao động là hao phí thực tế của xã hội, chi phí tạo ra giá trị (W): W = C + V + m.
Nhưng đối với nhà tư bản, trên thực tế họ chỉ quan tâm đến việc mua tư liệu sản xuất
(C) và mua sức lao động (V) bằng vốn. Vì vậy, nhà tư bản chỉ xem xét hao phí bao
nhiêu tư bản chứ
không xеm xét hao phí bao nhiêu lao động xã hội. C. Mác gọi đây là chi phí sản xuất
tư bản chủ nghĩa (k) (k = C + V). Như vậy, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí
mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất ra hàng hoá. Do đó, giá trị hàng hóa W = C + V + m
sẽ được chuyển đổi thành W = k + m. Nhìn vào công thức trên, chúng ta thấy rằng sự
phân biệt giữa C và V đã biến mất, như thể k tạo ra m. Ở đây, hao phí lao động được
che đậy bởi chi phí tư bản (k) như một nguồn giá trị, và bây giờ dường như mọi chi phí
sản xuất tư bản chủ nghĩa đều tạo ra giá trị thặng dư. Giữa giá trị hàng hoá và chi phí
sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn có một khoảng chênh lệch cho nên sau khi bán
hàng (giá cả bằng giá trị), nhà tư bản không những bù đắp đủ số tư bản đã ứng ra mà
còn thu được một số tiền lời ngang bằng với m, số tiền này được gọi là lợi nhuận (p),
do đó cơ cấu sản phẩm là W=k+p. Giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận có sự khác nhau
cơ bản về chất và lượng. Giá trị thặng dư thì sinh ra từ V (tức là lao động của công
nhân) còn lợi nhuận thì được coi là đã sinh ra từ C+V (tư bản ứng trước). Nhưng
chúng cũng có sự giống nhau ở chỗ đều có chung một nguồn gốc là kết quả lao động
không công của công nhân làm thuê. Thực chất lợi nhuận và giá trị thặng dư đều là
một, lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái thần bí hoá của giá trị thặng dư. Như
Các Mác viết: “Giá trị thặng dư hay là lợi nhuận chính là phần giá trị dôi ra ấy của giá
trị hàng hóa so với chi phí sản xuất của nó, nghĩa là phần dôi ra của tổng số lượng lao
động chứa đựng trong hàng hoá so với số lượng lao động được trả công chứa đựng
trong hàng hoá. Nếu như nhà tư bản bán hàng hoá với giá cả bằng giá trị thì khi đó m =
p, nếu bán với giá cả cao hơn giá trị thì khi đó m < p, nếu bán với giá cả nhỏ hơn giá
trị thì khi đó m > p. Nhưng trong toàn xã hội thì tổng giá cả luôn bằng tổng lợi nhuận
và bằng tổng giá trị thặng dư. Chính sự không nhất trí giữa m và p đã che dấu thực
chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
1.2. Tỷ suất lợi nhuận
Trong nền kinh tế tư bản mặc dù lợi nhuận là mục đích trực tiếp và tối cao của các nhà
tư bản nhưng khi bắt đầu đầu tư vào một ngành sản xuất kinh doanh nào đó thì cái mà
nhà tư bản quan tâm đến trước hết là tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính
theo phần trăm giữa giá trị thặng dư mà nhà tư bản đã bóc lột được của công nhân làm
thuê so với tổng tư bản ứng trước, ký hiệu là p’, vì thế công thức p’ x (C+V) = p x
100%. p’ không phản ánh trình độ bóc lột mà nó chỉ phản ánh nơi đầu tư vốn có lợi
nhất cho nhà tư bản về lượng. Do đó việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận
là động lực thúc đẩy, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản. Sự thèm khát lợi
nhuận của các nhà tư bản là không có giới hạn. Mức tỷ suất lợi nhuận cao bao nhiêu
cũng không thoả mãn được lòng tham vô đáy của họ.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận
Những nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp là:
- Một là, quy mô sản xuất hàng hoá dịch vụ. Quan hệ cung cầu về hàng hoá thay đổi sẽ
làm cho giá cả thay đổi. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp tới việc quyết định quy mô sản
xuất và tác động trực tiếp tới lợi nhuận doanh nghiệp.
- Hai là, giá cả và chất lượng các đầu vào (lao động, nguyên vật liệu, thiết bị công
nghệ) là phương pháp kết hợp các đầu vào trong quá trình sản xuất kinh doanh. Những
vấn đề này tác động trực tiếp đến chi phí sản xuất và lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Ba là, giá bán hàng hoá, dịch vụ cùng toàn bộ hoạt động nhằm đẩy nhanh quá trình
tiêu thụ và thu hồi vốn, đặc biệt là hoạt động Marketing và công tác tài chính của
doanh nghiệp.
3. Ý nghĩa của lợi nhuận
Lợi nhuận có ý nghĩa rất lớn đối với tư bản vì:
- Lợi nhuận tác động đến mọi hoạt động của tư bản, có ảnh hưởng trực tiếp đến tình
hình tài chính của tư bản. Việc phấn đấu thực hiện được chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện
quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính được ổn định vững chắc. Vì vậy, lợi nhuận
còn được coi là đòn bẩy kinh tế quan trọng, đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản để đánh
giá hiệu quả sản xuất và trao đổi hàng hóa của tư bản.
- Lợi nhuận còn là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp nói lên kết quả của toàn bộ quá trình
sản xuất và trao đổi buôn bán sản phẩm. Vì vậy, lợi nhuận được coi là một trong
những chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất.
- Lợi nhuận còn là nguồn tích lũy cơ bản để tái sản xuất mở rộng, bù đắp thiệt hại rủi
ro, là nguồn vốn rất quan trọng để đầu tư phát triển.
- Đặc biệt, lợi nhuận cao có khả năng nâng cao đời sống của người lao động, tạo hưng
phấn kích thích trí sáng tạo, vậy nên lợi nhuận là một đòn bẩy kinh tế quan trọng, có
tác dụng khuyến khích người lao động và tư bản sản xuất ra nhiều hàng hóa hơn, tăng
hiệu quả sản xuất hết mức có thể trên cơ sở phân phối lợi nhuận đúng đắn, phù hợp.

4. Vai trò của lợi nhuận:

4.1. Đối với tư bản sản xuất

Mọi doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường đều hướng tới mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận. Đây là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ tồn tại và phát triển khi nó tạo ra được lợi nhuận, có
lợi nhuận doanh nghiệp mới có khả năng quay vòng vốn, mở rộng sản xuất kinh
doanh, nếu doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả thì kết quả sản xuất kinh doanh
giảm sút dẫn tới doanh thu không bù đắp chi phí bỏ ra thì doanh nghiệp sẽ dẫn đến khả
năng bị thị trường đào thải, dẫn đến phá sản. Như vậy, có thể thấy rằng lợi nhuận là
yếu tố vô cùng quan trọng, quyết định đến sự tồn tại của doanh nghiệp nhất là trong
thời kì kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như ngày nay.
Có lợi nhuận, doanh nghiệp có khả năng xoay vòng vốn, tái đầu tư, mở rộng sản xuất
kinh doanh, có tiềm lực để áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất, mua sắm
máy móc, thiết bị từ đó hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm, thu hút được
khách hàng và có chỗ đứng trên thị trường. Tóm lại, lợi nhuận là tiền đề quan trọng
giúp cho doanh nghiệp tồn tại, phát triển và mở rộng quy mô kinh doanh. Tuy nhiên
lợi nhuận không phải là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá lợi nhuận của một doanh nghiệp,
bởi lợi nhuận là tiêu chí tài chính cuối cùng nên nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố
chủ quan, khách quan. Do đó khi đánh giá chất lương hoạt động của doanh nghiệp,
người ta phải kết hợp chỉ tiêu lợi nhuận với các chỉ tiêu về tỉ suất lợi nhuận trên doanh
thu, tỉ suất lợi nhuận trên vốn sở hữu,…
4.2. Đối với người lao động
Người lao động là yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh
cũng như lợi nhuận của doanh nghiệp. Qua đó, doanh nghiệp thể hiện sự quan tâm đến
người lao động thông qua việc trả lương, trích lập các quỹ khen thưởng, phúc lợi, bảo
hiểm, trợ cấp,…lơi nhuận cao tạo điều kiện nâng cao thu nhập từ đó cải thiện đời sống
cho người lao động. Nếu người lao động nhận được mức lương cao và ổn định thì
người lao động sẽ cảm thấy hưng phấn, hăng say trong công việc, nâng cao hiệu suất
lao động, từ đó góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phát triển
hơn, do đó lợi nhuận ngày càng được sản sinh ra nhiều hơn.
4.3 Đối với nhà nước
Thông qua lợi nhuận của doanh nghiệp mà nhà nước tiến hành thu thuế để bổ sung cho
ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu
tư, an sinh xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,… Thuế
thu nhập doanh nghiệp đánh vào phần lợi nhuận thu trong kì nên khi lợi nhuận càng
cao thì số thuế phải nộp càng lớn.
Tóm lại, lợi nhuận không chỉ quan trọng đối với nền kinh tế. Do vậy các doanh nghiệp
cần quan tâm, sử dụng hợp lí nguồn sự tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp mà còn
ảnh hưởng sâu rộng tới cả lợi nhuận, đồng thời luôn đưa ra được các giải pháp để tăng
cường nguồn lợi nhuận sao cho phù hợp với tình hình cũng như với từng giai đoạn
kinh tế.
II. Các biện pháp nâng cao lợi nhuận đối với tư bản sản xuất:
Tăng lợi nhuận trong kinh doanh là mục tiêu cơ bản của các doanh nghiệp là sự tồn tại
và phát triển của các doanh nghiệp. Nhưng lợi nhuận đạt đến mức nào là hợp lý, vừa
để đảm bảo sự tăng trưởng bền vững vừa đảm bảo phát triển xã hội theo định hướng xã
hội chủ nghĩa không chỉ vì chạy theo lợi nhuận mà làm tổn hại đến doanh nghiệp khác
hoặc vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến hoạt động chung của xã hội. Dưới đây là một
vài biện pháp nâng cao lợi nhuận:
Tăng số lượng và chất lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ.
Ngày nay, nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng hay của thị trường rất đa dạng và
phong phú, dễ biến động. Trong điều kiện các nhân tố khác ổn định thì việc tăng lượng
sản phẩm hàng hóa và dịch vụ theo nhu cầu thị trường sẽ làm tăng lợi nhuận của doanh
nghiệp. Muốn tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ cần chuẩn bị tốt các yếu tố và điều
kiện cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thuận lợi, tổ chức tốt
quá trình kinh doanh một cách cân đối nhịp nhàng và liên tục, khuyến khích người lao
động tăng nhanh năng xuất lao động.
Nhu cầu thị trường đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng sản phẩm hàng hóa và dịch
vụ. Phấn đấu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng mẫu mã sản phẩm tiêu thụ là
điều kiện để tăng nhanh khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp từ đó giúp tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp. Nhưng để nâng cao chất lượng sản phẩm đòi hỏi bản thân
doanh nghiệp phải nổ lực cố gắng, nghiên cứu thị trường kĩ càng, nắm bắt được thị
hiếu của người tiêu dùng cũng như cầu nghiên cứu đối thủ cạnh tranh.
Giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm
Giá thành là sự tổng hợp của nhiều nhân tố tạo nên như: Chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp, chi phí phân công, chi phí sản xuất chung, chi phí cố định (Thể hiện qua việc
khấu hao tài sản cố định hàng năm được tính vào giá thành) do vậy để hạ giá thành sản
phẩm cần phải giảm các nhân tố chi phí trên:
- Biện pháp tiết kiện nguyên vật liệu, năng lượng: Cải tiến phương pháp công nghệ, sử
dụng nguyên vật liệu thay thế, giảm tỉ lệ phế phẩm, giảm chi phí mua sắm, bảo quản,
vận chuyển và tiết kiệm vật liệu.
- Biện pháp giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành sản phẩm: Muốn
giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành sản phẩm cần tăng năng suất lao
động bằng cách cải tiến công tác tổ chức sản xuất, tổ chức lao động, có chế độ khuyến
khích người lao động thích hợp bằng cách áp dụng chính sách lương thưởng đúng
mức. Năng suất lao động tăng nhanh hơn chi phí về tiền lương bình quân sẽ cho phép
giảm chi phí trong giá thành sản phẩm.
- Biện pháp giảm chi phí cố định trong giá thành sản phẩm: Giảm chi phí cố định ở
đây không có nghĩa là sử dụng công nghệ rẻ tiền, cũ kĩ mà cần sử dụng những máy
móc, công nghệ tiên tiến nhằm tăng lượng sản phẩm sản suất ra. Tốc độ tăng sản phẩm
hàng hóa sẽ làm cho chi phí cố định trong giá thành giảm vì tốc độ tăng chi phí cố định
nhỏ hơn tốc độ tăng sản phẩm. Như vậy để tăng lượng sản phẩm sản xuất, phải mở
rộng quy mô sản xuất, tăng năng xuất và trình độ lao động. Tuy nhiên, việc đầu tư, sử
dụng các trang thiết bị mới cần phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp.
Tăng cường công tác quản lí tài chính
Huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực,
vật lực, tải lực của các doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình sản
xuất kinh doanh với tổng kinh phí thấp nhất. Không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế
là mối quan tâm hàng đầu của bất kì nền sản xuất nào nói chung và mối quan tâm của
doanh nghiệp nói riêng. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vừa là câu hỏi, vừa là thách
thức đối với các doanh nghiệp hiện nay.
Huy động vốn có hiệu quả là một trong những biện pháp quan trọng, nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Các nguồn vốn mà các
doanh nghiệp có thể khai thác như vốn liên doanh, vốn tín dụng, vốn huy động từ
chính cán bộ nhân viên trong công ty,.. Trong quá trình khai thác cac nguồn vốn này,
doanh nghiệp cần phải giữ chữ tín trong công tác huy động vốn đối với các đối tác, với
các tổ chức tín dụng, ngân hàng.
Việc huy động vốn đã khó nhưng việc sử dụng vốn sao cho chi phí bỏ ra thấp nhất
nhưng đem lại hiệu quả cao nhất. Doanh nghiệp phải lựa chọn đúng phương án kinh
doanh, phương án sản xuất, các phương án này phải dựa trên cơ sở tiếp cận thị trường,
xuất phát từ nhu cầu của thị trường. Có như vậy sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất
ra mới tiêu thụ được, doanh nghiệp mới có điều kiện để nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như làm gia tăng lợi nhuận.
Xây dựng các phương án kinh doanh phù hợp với tình hình thực tế
Với mỗi doanh nghiệp khi bắt đầu bước vào thị trường cần phải xây dựng cho mình
một kế hoạch kinh doanh đúng đắn và phù hợp. Phương án kinh doanh cần phải tận
dụng được tối đa mọi nguồn lực sẳn có của doanh nghiệp, tránh thất thoát lãng phí
đồng thời phải phù hợp với tình hình thực tế của thị trường sao cho các sản phẩm dịch
vụ đưa ra có chi phí thấp nhưng hiệu quả và lợi nhuận thu về cao. Để xây dựng được
phương án kinh doanh hiệu quả thì doanh nghiệp cần phải xác định được vị trí của
mình trên thị trường, xác định được các thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp, tìm
hiểu xem khách hàng của mình là ai, đối thủ cạnh tranh như thế nào. Tất cả những điều
này đều có ý nghĩa rất quan trọng với mọi doanh nghiệp.
Phân phối và sử dụng nguồn lợi nhuận hợp lí
Nguồn lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp thu về sau quá trình sản xuất kinh doanh phụ
thuộc vào mục đích và định hướng của từng công ty sẽ có cách sử dụng khác nhau.
Việc phân phối và sử dụng lợi nhuận, doanh nghiệp cần phải giải quyết hài hòa mối
quan hệ lợi ích giũa nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
Doanh nghiệp thực hiện các khoản đóng góp cho nhà nước thông qua thuế, phí và lệ
phí.
Chia lãi cho các thành viên góp vốn liên kết theo quy định hợp đồng (nếu có)
Bù đắp các khoản lổ của các năm trước đã hết thời hạn được trừ vào lợi nhuận trước
thuế
Trích lập các quỹ đặc biệt từ lợi nhuận sau thuế theo tỉ lệ đã được nhà nước quy định
đối với công ty đặc thù mà pháp luật phải trích lấp.
Thực hiện quy định việc trả lương, thưởng theo đúng quy định trong hợp đồng lao
động
Phần còn lại được doanh nghiệp chuyển vào nguồn vốn sở hữu hoặc tái đầu tư tùy vào
điều lệ của công ty…
Các biện pháp khác:
- Hạ thấp chi phí lưu thông:
 Chọn địa bàn hoạt động xây dựng hệ thống kho tàng cửa hàng hợp lý nhằm đảm
bảo thuận tiện vận chuyển, dự trữ và bảo quản hàng hoá đồng thời cũng phải
thuận tiện cho khâu đi lại mua bán của khách hàng.
 Thúc đẩy lưu chuyển hàng hoá bằng cách nâng cao chất lượng phục vụ bán
hàng, chọn đúng mặt hàng kinh doanh phù hợp thị hiếu người tiêu dùng.
 Tiết kiệm chi phí lao động vật hoá, lao động sống.
- Biện pháp lâu dài: Chủ doanh nghiệp phải biết bồi dưỡng đầu tư, đào tạo, nâng
cao trình độ cho công nhân bắt kịp với sự phát triển của máy móc công nghệ. Tổ chức
lao động và sử dụng con người: sử dụng lao động đúng công việc, khả năng trình độ
của họ để khơi dậy tiềm năng trong mỗi con người, làm cho người lao động gắn bó và
cống hiến sức lực tài năng cho doanh nghiệp., quan tâm đến đời sống, điều kiện làm
việc của mỗi người trong doanh nghiệp, biết khen thưởng vật chất và tinh thần một
cách thoả đáng và tôn trọng con người để khuyến khích họ làm nhiệt tình, phát huy
sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong công việc.
KẾT LUẬN
Có thể nói rằng lợi nhuận luôn là mục tiêu, là động lực mà mỗi doanh nghiệp luôn
hướng tới. Lợi nhuận không chỉ là điều kiện tồn tại mà còn là chìa khóa quan trọng
trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó góp phần rất lớn vào sự phát triển, an sinh xã
hội của mỗi quốc gia, là cơ sở để xây dựng tiềm lực kinh tế, phát triển kinh doanh, giải
quyết vấn đề thất nghiệp cho xã hội, đồng thời cũng là cơ sở nâng cao chất lượng cuộc
sống cho người lao động. Chính vì những vai trò hết sức to lớn đó là lợi nhuận luôn
được đặt lên hàng đầu. Các doanh nghiệp luôn tìm tòi, đổi mới phương pháp để nâng
cao lợi nhuận. Đó là cách để họ tồn tại và phát triển. Tuy nhiên cách thức như thế nào
để gia tăng lợi nhuận mà không làm tổn hại đến lợi ích xã hội và sự phát triển bền
vững của mỗi quốc gia mới là một bài toán khó. Hiểu được bản chất, vai trò của lợi
nhuận thì các doanh nghiệp mới phát triển đúng hướng và vững mạnh không vì lợi
nhuận mà bất chấp tất cả. Đó cũng là mục tiêu và thông điệp em muốn gửi tới trong
bài tiểu luận này. Hiểu đúng bản chất của lợi nhuận để tìm ra phương pháp thích hợp
áp dụng cho từng điều kiện hoàn cảnh của mỗi doanh nghiệp chính là chìa khóa để
thành công.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Giáo trình triết học Mác-Lênin. NXB chính trị quốc gia- 2002

Phân viện báo chí và tuyên truyền-Bộ môn khoa học luận. Danh từ, thuật ngữ
khoa học, công nghệ và khoa học về khoa học. NXB khoa học kỹ thuật. Trung
tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây-2002

Khoa học và công nghệ thế giới. Kinh nghiệm và định hướng chiến lược. NXB
bộ khoa học, công nghệ và môi trường-2002. Trung tâm thông tin tư liệu khoa học
và công nghệ quốc gia .

GS,TS: Nguyển Trọng Chuẩn; PGS,TS: Nguyễn Thế Nghĩa; PGS,TS: Đặng Hữu
Toàn (đồng chủ biên). Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam. lý luận và
thực tiễn. NXB chính trị quốc gia Hà Nội- 2002

PGS,TS: Đặng Hữu Toàn. Chủ nghĩa Mác-Lênin và công cuộc đổi mới ở Việt
Nam

You might also like