Professional Documents
Culture Documents
TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
Câu hỏi tiểu luận: “Phân tích hai phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư và giá trị thăng dư siêu ngạch?Ý nghĩa của việc nghiên
cứu vấn đề này đối với việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện
nay?”
HÀ NÔI – 2021
PHẦN MỞ ĐẦU
2. Khái niệm về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt
đối , giá trị thặng dư tương đối và giá trị thăng dư siêu ngạch
Đã có nhiều phương pháp được dùng để tạo ra giá trị thặng dư,
nhưng hai phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp giá trị
thặng dưtuyệt đối và phương pháp giá trị thặng dư tương đối. Mỗi phương
pháp đại diện cho một trình độ khác nhau của giai cấp tư sản, cũng như
những giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội.
2.1 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
– Khái niệm: Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo
dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng
suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay
đổi.
Vì vậy, kéo dài thời gian lao động hay tăng cường độ lao động đều để sản
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
– Phương pháp này chủ yếu áp dụng trong thời kỳ đầu nền sản xuất tư bản,
với việc phổ biến sử dụng lao động thủ công và năng suất lao động thấp.
2.2 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị
thặng dư siêu ngạch
A. Giá trị thặng dư tương đối
– Khái niệm: Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút
ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động
trong ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt để hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ
đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao
động, cường độ lao động vẫn như cũ.
– Điểm mấu chốt của phương pháp này là phải hạ thấp giá trị sức lao động.
Điều đó đồng nghĩa với giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết
cho công nhân. Muốn vậy phải tăng năng suất lao động xã hội trong các
ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để
trang bị cho ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng.
– Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản
phát triển. nhưng lúc đầu chỉ một số nhà tư bản làm được vì điều kiện khoa
học, kỹ thuật chưa cho phép. Khi đó, các nhà tư bản này tăng được năng
suất lao động nên thu được giá trị thặng dư siêu ngạch. Khi các nhà tư bản
đều cải tiến kỹ thuật, giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ không còn. Tất cả sẽ thu
được giá trị thặng dư tương đối. Do đó giá trị thặng dư siêu ngạch là biến
tướng của giá trị thặng dư tương đối.
C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị
thặng dư tương đối. Bởi vì chúng đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao
động, chỉ khác một chỗ một bên là tăng năng suất lao động cá biệt, một bên
là tăng năng suất lao động xã hội.
– Khái niệm: Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được
do áp dụng công nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá trị cá
biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
– Nhà tư bản chỉ phải bỏ ít chi phí hơn các nhà tư bản khác nhưng vẫn có
thể bán được hàng hóa với giá ngang bằng với giá thị trường, từ đó thu
được giá trị thặng dư cao hơn.
Khi số đông các xí nghiệp đều đổi mới kỹ thuật công nghệ thì giá trị thặng
dư siêu ngạch của doanh nghiệp đó sẽ không còn nữa.
– Trong từng xí nghiệp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm
thời, nhưng xét trên phạm vi toàn xã hội, nó lại thường xuyên tồn tại. Và nó
chính là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ để
tăng năng suât lao động cá biệt, đánh bại đối thủ cạnh tranh, thu được phần
giá trị thặng dư lớn.
Chương 2: Sự hoạt động của 2 phương pháp xuất giá trị sản
thặng dư trong nền kinh tế Việt Nam
1 Giai đoạn trước đổi mới năm 1986
B. Sự hoạt động của phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
trước năm 1986
Với việc Nhà nước kiểm soát toàn bộ hoạt động sản xuất, khiến cho kinh
tế tư nhân không có điều kiện phát triển, điều đó dẫn tới việc phương thức
sản xuất giá trị thặng dư cơ bản không tồn tại ở Việt Nam giai đoạn này.