You are on page 1of 15

ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI

KHOA CHÍNH TRỊ - QPAN - GDTC


*****

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
Câu hỏi tiểu luận: “Phân tích hai phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư và giá trị thăng dư siêu ngạch?Ý nghĩa của việc nghiên
cứu vấn đề này đối với việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện
nay?”

Sinh viên thực hiện: Vũ Trí Thịnh


Mã sinh viên: 71DCGT26001
Lớp: 71DCGT22
Khóa:
Giảng viên hướng dẫn: Trần Thị Tâm

HÀ NÔI – 2021
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài


Sau hơn ba mươi năm đổi mới, đất nước ta đã gặt hái được nhiều thành
tựu như kinh tế ngày càng phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, uy
tín Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Tuy nhiên, với xuất phát điểm từ nông nghiệp nên nền kinh tế nước ta có
quy mô nhỏ, quá trình hòa nhập quốc tế đang gặp phải nhiều khó khăn. Vì
vậy, để khắc phục thực trạng yếu kém và phát huy thế mạnh hiện có nước
ta đã phát triển nền kinh tế thị trường để hiện đại hóa đất nước. Trong đó,
việc vận dụng các quy luật kinh tế mà đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư
đã và đang là một hướng áp dụng có hiệu quả trong bối cảnh nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Giá trị thặng dư là một trong những phát hiện vĩ đại của C.Mác và theo
như V.I.Lênin nhận xét thì “ Học thuyết giá trị thặng dư là viên đá tảng của
học thuyết kinh tế của Mác ”Giá trị thặng dư đã mang lại những bước phát
triển cho nước ta trong giai đoạn hiện nay.Tính tất yếu khách quan về việc
vận dụng giá trị thặng dư vào Việt Nam đã được thông qua trong các văn
kiện Đại hội của Đảng nhưng trong một chừng mực nào đó vẫn còn tồn tại
các thành kiến với các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản coi thành phần
kinh tế này là bốc lột và nhận thức này không chỉ xảy ra với một số cán bộ
là Đảng viên làm công tác quản lý mà còn xảy ra ngay trong những người
trực tiếp làm kinh tế tư nhân ở nước ta.
Trong bối cảnh đó, việc học tập và nghiên cứu môn kinh tế chính trị mà
đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư sẽ góp phần giải quyết những vướng
mắc trong quá trình phát triển các thành phần kinh tế cũng như quá trình vận
dụng giá trị thặng dư vào việc phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay với mong muốn có thể khắc phục sự lạc hậu về lý luận kinh tế, sự
giáo điều, tách rời lý luận và cuộc sống và góp phần hình thành tư duy kinh
tế mới, tạo điều kiện thuận lợi nhằm thúc đẩy nhanh quá trình công nghiếp
hóa – hiện đại hóa.

2. Đối tượng nghiên cứ


- Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và giá trị thặng dư siêu
ngạch
- Nền kinh tế thị trường Việt Nam
3. Phạm vi nghiên cứu
- Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung của Việt Nam từ trước năm
1986 và nền kinh tế thị trường Việt Nam từ năm 1986 đến nay
4. Phương pháp nghiên cứu
Chương 1 : Lý luận của học thuyết kinh tế Mác – Lê-nin về hai phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư
1. Giá trị thặng dư và tư bản
2. . Khái niệm về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt
đối , giá trị thặng dư tương đối và giá trị thăng dư siêu ngạch
2.1 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
2.2 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị
thặng dư siêu ngạch
Chương 2 : Sự hoạt động của 2 phương pháp xuất giá trị sản
thặng dư trong nền kinh tế Việt Nam
1. Giai đoạn trước đổi mới năm 1986
2. Giai đoạn đổi mới từ 1986 đến nay
3. Một số khuyến nghị với tiến trình hội nhập của Việt Nam,
trong bối cảnh Chủ nghĩa tư bản độc quyền đang phổ biến
trên toàn thế giới
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1 : Lý luận của học thuyết kinh tế Mác – Lê-nin về hai
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
1. Giá trị thặng dư và tư bản
Theo Mác, tư bản nẩy sinh từ tiền vào đầu thế kỷ XVI. Khi ông phân
tích những hình thái kinh tế trong đó quá trình lưu thông hàng hoá, thì tiền
là hình thái cuối cùng. "Sản vật cuối cùng ấy của lưu thông hàng hoá là
hình thái biểu hiện đầu tiên của tư bản. Xét về mặt lịch sử thì đâu đâu tư
bản cũng đối lập với sở hữu ruộng đất, trước tiên là dưới hình thái tiền, với
tư cách là tài sản bằng tiền, tư bản của thương nhân và tư bản cho vay
nặng lãi... Lịch sử ấy hàng ngày đang diễn ra trước mắt chúng ta. Khi mới
xuất hiện lần đầu tiên trên vũ đài, tức là trên thị trường, - thị trường hàng
hoá, thị trường lao động hay thị trường tiền tệ, - thì mỗi một tư bản bao giờ
cũng xuất hiện dưới dạng tiền, số tiền này phải được chuyển hoá thành tư
bản thông qua những quá trình nhất định" . Sau đó Mác tiếp tục nghiên
cứu những quá trình nhờ chúng mà tiền biến thành tư bản, và trước hết
ông thấy rằng hình thức trong đó tiền lưu thông với tư cách là tư bản (T H
T’), và một hình thức ngược lại với hình thức trên, tiền lưu thông với tư
cách là vật ngang giá chung của các hàng hoá (H-T-H’). Một người chủ
hàng hoá giản đơn thì bán để mua; anh ta bán cái mà anh ta không cần
dùng, và với tiền thu được, anh ta mua cái mà anh ta cần dùng. Còn nhà
tư bản bắt tay vào công việc thì thoạt tiên mua cái mà bản thân hắn không
cần đến; hắn mua để bán, hơn nữa lại để bán đắt hơn, nhằm thu trở lại giá
trị của số tiền đã bỏ ra lúc ban đầu để mua, cộng với số tiền tăng thêm nào
đó, Mác gọi là giá trị thặng dư.
Nhà tư bản sản xuất ra hàng hóa có giá trị sử dụng, giá trị sử dụng là nội
dung vật chất của hàng hóa, là vật mang tới giá trị và giá trị thặng dư
(T’>T). Đây cũng là quá trình nhà tư bản sử dụng hàng hóa sức lao động
và tư liệu sản xuất để tạo ra giá trị thặng dư. Bởi thế mỗi sản phẩm được
làm ra đều được kiểm soát bởi nhà tư bản và thuộc sở hữu của nhà tư
bản. Trong quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, bằng lao động cụ thể của
mình, công nhân lao động làm thuê sử dụng tư liệu sản xuất và chuyển giá
trị của chúng vào hàng hoá, bằng lao động trừu tượng công nhân tạo ra
giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư.
Như vậy, giá trị thặng dư là giá rơi ra ngoài sức lao động do công nhân
sáng tạo ra và nhà tư bản chiếm không.

2. Khái niệm về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt
đối , giá trị thặng dư tương đối và giá trị thăng dư siêu ngạch
Đã có nhiều phương pháp được dùng để tạo ra giá trị thặng dư,
nhưng hai phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp giá trị
thặng dưtuyệt đối và phương pháp giá trị thặng dư tương đối. Mỗi phương
pháp đại diện cho một trình độ khác nhau của giai cấp tư sản, cũng như
những giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội.
2.1 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
– Khái niệm: Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo
dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng
suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay
đổi.

– Phương pháp sản xuất giá trị thặn dư tuyệt đối:


+ Bất cứ nhà tư bản nào cũng muốn kéo dài ngày công lao động của công
nhân, nhưng việc kéo dài đó không thể vượt qua giới hạn sinh lý của công
nhân. Bởi vì, người công nhân cần có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí
để phục hồi sức khỏe. Do vậy, việc kéo dài thời gian lao động gặp sự phản
kháng gay gắt của giai cấp công nhân đòi giảm giờ làm.
+ Khi độ dài ngày lao động không thể kéo dài thêm, vì lợi nhuận của mình,
nhà tư bản lại tìm cách tăng cường độ lao động của người công nhân. Vì
tăng cường độ lao động có nghĩa là chi phí nhiều sức lao động hơn trong
một khoảng thời gian nhất định. Nên tăng cường độ lao động về thực chất
cũng tương tự như kéo dài ngày lao động.

Vì vậy, kéo dài thời gian lao động hay tăng cường độ lao động đều để sản
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
– Phương pháp này chủ yếu áp dụng trong thời kỳ đầu nền sản xuất tư bản,
với việc phổ biến sử dụng lao động thủ công và năng suất lao động thấp.

2.2 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị
thặng dư siêu ngạch
A. Giá trị thặng dư tương đối
– Khái niệm: Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút
ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động
trong ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt để hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ
đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao
động, cường độ lao động vẫn như cũ.

– Điểm mấu chốt của phương pháp này là phải hạ thấp giá trị sức lao động.
Điều đó đồng nghĩa với giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết
cho công nhân. Muốn vậy phải tăng năng suất lao động xã hội trong các
ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để
trang bị cho ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng.

– Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản
phát triển. nhưng lúc đầu chỉ một số nhà tư bản làm được vì điều kiện khoa
học, kỹ thuật chưa cho phép. Khi đó, các nhà tư bản này tăng được năng
suất lao động nên thu được giá trị thặng dư siêu ngạch. Khi các nhà tư bản
đều cải tiến kỹ thuật, giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ không còn. Tất cả sẽ thu
được giá trị thặng dư tương đối. Do đó giá trị thặng dư siêu ngạch là biến
tướng của giá trị thặng dư tương đối.

B. giá trị thặng dư siêu ngạch

C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị
thặng dư tương đối. Bởi vì chúng đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao
động, chỉ khác một chỗ một bên là tăng năng suất lao động cá biệt, một bên
là tăng năng suất lao động xã hội.
– Khái niệm: Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được
do áp dụng công nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá trị cá
biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
– Nhà tư bản chỉ phải bỏ ít chi phí hơn các nhà tư bản khác nhưng vẫn có
thể bán được hàng hóa với giá ngang bằng với giá thị trường, từ đó thu
được giá trị thặng dư cao hơn.
Khi số đông các xí nghiệp đều đổi mới kỹ thuật công nghệ thì giá trị thặng
dư siêu ngạch của doanh nghiệp đó sẽ không còn nữa.
– Trong từng xí nghiệp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm
thời, nhưng xét trên phạm vi toàn xã hội, nó lại thường xuyên tồn tại. Và nó
chính là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ để
tăng năng suât lao động cá biệt, đánh bại đối thủ cạnh tranh, thu được phần
giá trị thặng dư lớn.
Chương 2: Sự hoạt động của 2 phương pháp xuất giá trị sản
thặng dư trong nền kinh tế Việt Nam
1 Giai đoạn trước đổi mới năm 1986

A. Mô hình kinh tế trước năm 1986


Giai đoạn kinh tế trước năm 1986, hay còn gọi là Thời kì bao cấp,
là giai đoạn áp dụng mô hình kinh tế cũ - kinh tế kế hoạch hóa tập trung ở
miền Bắc cho cả nước sau thống nhất.
Thứ nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành
chính dựa trên hệ thống chi tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các
doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng
sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân
sự, tiền lương… đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao
chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp
giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước
thu.
Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm
gì về vật chất đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do
các quyết định không đúng gây ra thì ngân sách Nhà nước phải gánh chịu.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ
hiện vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát –
giao nộp”. Hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
Cơ chế bao cấp trong thời kì này thể hiện chủ yếu qua 3 hình thức sau:
+ Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng
hóa thấp hơn giá trị thực của chúng nhiều lần so với giá trị thị trường. Với
giá thấp như vậy, coi như một phần những thứ đó được cho không. Do đó,
hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
+ Bao cấp qua chế độ tem phiếu (tiền lương hiện vật): Nhà nước quy định
chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên, công
nhân theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với mức
giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành lương
hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc
phân phối theo lao động.
+ Bao cấp qua chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng không có chế
tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều
đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách vừa làm cho sử dụng vốn
kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “xin cho”

B. Sự hoạt động của phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
trước năm 1986
Với việc Nhà nước kiểm soát toàn bộ hoạt động sản xuất, khiến cho kinh
tế tư nhân không có điều kiện phát triển, điều đó dẫn tới việc phương thức
sản xuất giá trị thặng dư cơ bản không tồn tại ở Việt Nam giai đoạn này.

C. Sự phát triển của nền kinh tế trước năm 1986


Trong giai đoạn này, Nhà nước liên tục thực hiện 2 kế hoạch đổi mới kinh
tế: kế hoạch 5 năm giai đoạn 1976-1980 và 1981-1986.
Tuy nhiên trong những năm đầu của kế hoạch 5 năm này cơ chế cũ chưa
mất đi, cơ chế mới chưa hình thành nên Đổi mới chưa có hiệu quả đáng
kể.
Trong giai đoạn 5 năm lần thứ nhất, kế hoạch có nhiều điểm duy ý chí nên
phần lớn chỉ tiêu đều không đạt. Sản xuất đình trệ, tăng trưởng chỉ đạt 0,4
%/ năm (kế hoạch là 13-14 %) trong khi tỷ lệ tăng dân số hàng năm trên
2,3 %. Tình trạng thiếu lương thực diễn ra gay gắt, năm 1980 phải nhập
1,576 triệu tấn lương thực. Ngân sách thiếu hụt lớn, giá cả tăng hàng năm
20 %, nhập khẩu nhiều gấp 4-5 lần xuất khẩu. Nhà nước thiếu vốn đầu tư
cho nền kinh tế, nhiều công trình phải bỏ dở, hàng tiêu dùng thiết yếu thiếu
trầm trọng. Sau đó vào năm 1982, Đại hội V của Đảng Cộng sản Việt Nam
đã thừa nhận kinh tế Việt Nam trong thời kỳ 1976-1980 là: "kết quả sản
xuất không tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra, những mất
cân đối lớn của nền kinh tế vẫn trầm trọng, thu nhập quốc dân chưa bảo
đảm được tiêu dùng của xã hội trong khi dân số tăng nhanh; thị trường, vật
giá, tài chính, tiền tệ không ổn định, đời sống của nhân dân lao động còn
nhiều khó khăn"
Tại Đại hội IV ĐCS VN đã quyết định cải tạo XHCN trong cả nước với mục
tiêu lớn: xây dựng chế độ làm chủ tập thể và sản xuất lớn. Do các mục tiêu
đề ra quá lớn nên trong kế hoạch 5 năm lần thứ II (1981-1985) nền kinh
tế vẫn thiếu cân đối và lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Sản xuất đình trệ
thể hiện trên tất cả các lĩnh vực. Nạn lạm phát tăng nhanh, đầu những năm
80 tăng khoảng 30-50 % hàng năm, cuối năm 1985 lên đến 587,2 % và
siêu lạm phát đạt đến đỉnh cao vào năm 1986, với 774,7 %
Nhìn chung, nền kinh tế còn hết sức khó khăn trì trệ, đời sống nhân dân
khổ cực, năng suốt lao động thấp do thiếu động lực phát triển.

2 Giai đoạn đổi mới từ 1986 đến nay


A. Mô hình kinh tế sau năm 1986
Năm 1986, Việt Nam bắt đầu công cuộc “Đổi mới” chuyển đổi từ nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa và
đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập
quốc tế.
-Thực hiện mạnh mẽ chính sách dân chủ hoá về kinh tế trên cơ sở các
nguyên tắc hiến định là tự do kinh doanh, tự do khế ước trong khuôn khổ
pháp luật. Mọi công dân Việt Nam có đủ điều kiện theo luật định đều có
quyền tự mình hoặc liên kết với những người khác thành lập doanh nghiệp
hoặc kinh doanh trên mọi lĩnh vực, ngành nghề mà pháp luật không cấm.
Trên cơ sở đó, một nền kinh tế nhiều thành phần, không chỉ có quốc doanh
và tập thể như trước đây đã hình thành; nhiều loại hình sở hữu về tư liệu
sản xuất đã ra đời, trong đó có các loại hình sở hữu hỗn hợp đan xen nhau
giữa các thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước
pháp luật, được tự do cạnh tranh với nhau theo một “luật chơi’’ chung
của kinh tế thị trường. Nhà nước thực hiện cổ phần hóa các danh
nghiệp nhà nước trao một phần quyền kiểm soát đến các doanh
nghiệp tư nhân.Tuy nhiên, để bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa của nền kinh tế quốc dân, Nhà nước sẽ định ra một số
ngành nghề then chốt mà kinh tế quốc doanh nắm độc quyền giữ
vai trò chủ đạo - Từng bước xoá bỏ, đi đến xoá bỏ hoàn toàn cơ
chế quản lý kinh tế cũ theo lối hành chính, mệnh lệnh và kế
hoạch hoá tập trung cao độ trên cơ sở thiết lập từng bước vững
chắc cơ chế thị trường, Nhà nước vẫn giữ vai trò điều tiết vĩ mô
nền kinh tế quốc dân bằng các chính sách và công cụ kinh tế,
chấm dứt sự can thiệp theo lối mệnh lệnh hành chính vào hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, ngay cả đối với
các doanh nghiệp nhà nước. Bằng việc tăng cường ban hành
pháp luật, Nhà nước dần dần tạo ra một hành lang pháp lý an
toàn cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong khuôn khổ
hành lang pháp lý đó, Nhà nước thừa nhận và tôn trọng đầy đủ
quyền tự chủ của các doanh nghiệp, của các nhà kinh doanh và
thực hiện sự bảo hộ cần thiết đối với mọi quyền lợi hợp pháp của
họ.
- Xây dựng nền kinh tế vừa mở bên trong, vừa mở với bên ngoài,
đưa nền kinh tế Việt Nam hòa nhập vào thị trường và đời sống
kinh tế của khu vực và thế giới
B. Sự hoạt động của phương pháp sản xuất giá trị thặng dư sau năm
1986
Khi chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, trong xã hội Việt Nam có một
hình thái hoạt động vốn bình thường nay trở nên sôi động. Đó là thành
phần kinh tế tư nhân và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các
doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dần hình
thành và tăng trửng nhanh chóng. Hàng hóa được trao đổi mua bán mạnh
mẽ trong và ngoài nước đem về lơi nhuận cho các nhà sản xuất. Trong giai
đoạn đầu này, khi cơ chế quản lí các hoạt động kinh tế còn nhiều han chế
phương pháp sx gttd tuyệt đối vẫn được sử dụng nhưng ngay sau đó đã
nhanh chóng chuyển sang phương thức sản xuất thặng dư tương đối nhờ
áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật khiến năng suốt lao động tăng cao.
C. Sự phát triển của nền kinh tế sau năm 1986
Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu phát triển
kinh tế gây ấn tượng, được thế giới đánh giá cao, sức mạnh kinh tế của
đất nước tăng lên nhiều. Sau 10 năm đổi mới (1996) đất nước đã thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội; sau 25 năm đổi mới (năm 2010) đất
nước đã ra khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển, bước vào nhóm
nước có thu nhập trung bình. Trong giai đoạn 2001- 2010, kinh tế tăng
trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm. Tổng sản phẩm trong
nước (GDP) năm 2010 theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD gấp 3,26 lần so
với năm 2000, năm 2011 khoảng 170 tỷ USD. GDP bình quân đầu người
năm 2010 đạt 1168 USD, năm 2014 ước tính khoảng 1900 USD/ người.
Trong 5 năm 2011-2015, do sự tác động của khủng hoảng tài chính thê
giới, suy thoái kinh tế toàn cầu nên nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều
khó khăn, tốc độ tăng GDP bị giảm sút. Tuy vậy, tốc độ tăng GDP bình
quân vẫn ở mức khá, ước đạt 5,8%. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) trong 5 năm 2006-2010 đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77,8% so với
kế hoạch đề ra. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấn hớn 1,3
lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt
17,5%. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng lên, khu vực
nông nghiệp giảm xuống. Năm 2010, trong cơ cấu GDP, khu vực công
nghiệp chiếm 41,1%, khu vực dịch vụ chiếm 38,3%, khu vực nông nghiệp
chiếm 20,6%. Kết cấu hạ tầng ngày càng được xây dựng hiện đại, đồng
bộ; nguồn nhân lực qua đào tạo ngày càng tăng lên ( năm 2013 là 49%),
đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Những thành tựu đó cho
thấy những đóng góp không nhỏ trong việc áp dụng phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư đối với nền kinh tế thị trường ở VN.
Cụ thể về phương thức sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối,hien nay mất
dần. Chỉ tồn tại ở một số hoạt động sản xuất nhỏ lẻ như thủ công và một
số hoạt động sản xuất có sức lao động thấp. Về phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư tương đối, các tiến bộ khoa học kĩ thuật được ứng dụng vào
trong hoạt động sản xuất ngày càng nhiều. Máy móc, trang thiết bị hiện đại
đã giúp giảm thiểu sức lao động của con người đi đáng kể trong khi vẫn
đem tới giá trị thặng dư cho doanh nghiệp cũng như các nhà đầu tư nước
ngoài ở Việt Nam. Xu hướng sản xuất giá trị thặng dư trở thành phương
thức chủ yếu trong hoạt động kinh tế với qui mô và tốc độ phát triển ngày
càng cao. Tỷ trọng trong GDP của khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm cả
kinh tế cá thể luôn duy trì ổn định trong khoảng 39-40%. Bước đầu đã hình
thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, hoạt động đa
ngành, có khả năng cạnh tranh tốt hơn trên thị trường trong nước và quốc
tế; đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh. Số lượng DN của tư nhân
tăng nhanh với nhiều loại hình đa dạng; phong trào khởi nghiệp được đẩy
mạnh…Mức độ đóng góp vào tổng sản phẩm trong nước của kinh tế tư
nhân luôn chiếm tỷ trọng lớn và tăng liên tục trong những năm qua. Tính
đến nay, cả nước có khoảng trên 500.000 DN tư nhân đang hoạt động và
mỗi năm có thêm hàng vạn DN được thành lập mới; Thu hút khoảng 51%
lực lượng lao động cả nước và tạo khoảng 1,2 triệu việc làm cho người lao
động mỗi năm, góp phần quan trọng vào quá trình tái cấu trúc nền kinh tế,
tăng thu nhập cho người dân…
Trong nhiều năm trở lại đây các dự án có vốn đầu tư nước ngoài(FDI) vào
Việt Nam ngày càng nhiều, đặc biệt là Nhật Bản. Số liệu từ Cục Đầu tư
nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết, năm 2017, vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đạt 35,88 tỷ USD, tăng 44,4% so với
cùng kỳ 2016 và tăng cao nhất trong 10 năm trở lại đây. Cùng với đó, vốn
FDI giải ngân đạt 17,5 tỷ USD, tăng cao nhất từ trước đến nay
3. Một số khuyến nghị với tiến trình hội nhập của Việt Nam, trong bối
cảnh Chủ nghĩa tư bản độc quyền đang phổ biến trên toàn thế giới
3.1Mục tiêu
Về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
Nước ta có nguồn lao động dồi dào, cần phát huy khả năng tạo việc làm
cho người lao động. Tận dụng lợi thế này để sử dụng hiệu quá sức lao động
trong sản xuất thúc đẩy kinh tế phát triển.
Về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối:
-Cần phát huy sự năng động của DN, tháo gỡ các khó khăn trong các chính
sách, tạo điều kiện thuận cho doanh nghiệp năng động sáng tạo thích ứng
với sự cạnh tranh của nền kinh tế.
-Khoa học công nghệ có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất của
doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Tuy nhiên vấn đề này vẫn
còn nhiều hạn chế. Từ năm 2001 đến nay, Nhà nước chủ trương chi cho
KHCN 2% tổng chi ngân sách hằng năm, nhưng thực tế chưa năm nào đạt
2%, mà thông thường chỉ đạt 1,5 - 1,7% tổng chi. Dự toán ngân sách nhà
nước năm 2018 vừa được Quốc hội thông qua đã quyết định tăng chi cho
KHCN 8% so với năm 2017, nhưng chi cho KHCN vẫn chưa đạt 2% tổng chi
ngân sách. Chúng ta cần tăng cường ngân sách hơn nữa cho hoạt động
trên.
-Nâng cao khả năng quản trị trong doanh nghiệp và năng suốt lao động
- Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng và hạn chế sự phân phối bất bình
đẳng, sự chiếm đoạt phúc lợi, chế độ bảo hiểm của công nhân …
3.2. Một số khuyến nghị
Đối với Nhà nước:
Nhà nước cần phải hoàn thiện pháp luật, các chính sách, các chủ trương để
bảo vệ quyền lợi người lao động. Ví dụ như Nhà nước quy định mức lương
tối thiểu và thời gian làm việc của công nhân cho tất cả các doanh nghiệp ở
Việt Nam. Từ đó ấn định giá trị thấp nhất của sức lao động khiến cho nhà tư
bản không thể lợi dụng tình trạng thiếu việc làm để trả lương thấp hay kéo
giá trị sức lao động xuống thấp (Hiện tại mức lương tổi thiểu cho người lao
động là 2.580.000đ và thời gian làm việc theo quy định là 8 tiếng một ngày).

Đối với các doanh nghiệp:


Chế độ đãi ngộ là quá trình chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của người
lao đông để họ có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và qua đó góp
phần hoàn thành mục tiêu của doanh nghiệp. Chế độ đãi ngộ nhân sự đóng
vai trò không thể thiếu cho các doanh nghiệp vì nó là điều kiện đủ để nâng
cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chính sách đãi
ngộ còn giúp nâng cao đời sống công nhân, góp phần tạo động lực kích
thích người lao động lao động làm việc hiệu quả, từ đó giúp cho các doanh
nghiệp có thể duy trì nguồn nhân lực ổn định và có chất lượng. Các doanh
nghiệp cần phải hướng đến chính sách đãi ngộ tài diện hơn. Ngoài những
hình thức đãi ngộ qua con đường tài chính như bên cạnh lương cơ bản còn
có các khoản trực tiếp phụ cấp lương, tiền thưởng hay gián tiếp như bảo
hiểm, trợ cấp xã hội, phúc lợi; doanh nghiệp cần phải cải thiện chính sách
đãi ngộ phi tài như môi trường làm việc an toàn và lành mạnh, cơ hội thăng
tiến trong công việc, …
Các doanh nghiệp phải có tổ chức công đoàn bảo vệ quyền lợi người lao
động. Tổ chức công đoàn bảo đảm cho công nhân lao động trong điều kiện
tốt và giảm sự nặng nề trong bóc lột của nhà tư bản với công nhân.
Đối với người lao động:
Người lao động cần phải thực hiện nghĩa vụ của người lao động, bao gồm
các việc: thực hiện hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể; chấp hành
kỉ luật lao động, nội quy lao động, tuân theo sự điều hành hợp pháp của
người sử dụng lao động; thực hiện các quy định của pháp luật về bảo hiểm
xã hội và bảo hiểm y tế. Người lao động cũng cần phải nhận thức được
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bao gồm các việc như tự do lựa chọn
nghề nghiệp, nâng cao trình độ bản thân, được hưởng lương phù hợp với
trình độ kĩ năng của mình trên cơ sở thỏa thuận, được bảo hộ lao động, làm
việc trong môi trường bảo đẩm an toàn lao động, vệ sinh lao động; được
nghỉ theo chế độ, nghỉ hằng năm có lương và được hưởng phúc lợi tập thể.
Khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại, người lao động có quyền
được yêu cầu và đối thoại với các chủ doanh nghiệp xem xét lại hoặc có thể
tự mình đấu tranh thông qua các hình thức như tổ chức đình công hoặc
chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật nếu như không
nhận được phản hồi thỏa đáng.

PHẦN KẾT LUẬN


Quá trình nghiên cứu 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư cho thấy khi
gạt bỏ mục đích và tính chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản thì sản xuất giá trị
thặng dư chính là khoa học sử dụng lao động có hiệu quả nhất mà bất kỳ xã
hội nào cũng cần phải quan tâm. Bởi vậy, các phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư có thể vận dụng trong các doanh nghiệp ở nước ta nhằm kích thích
sản xuất tăng năng suất lao động xã hội, sử dụng kĩ thuật mới, cải tiến tổ
chức quản lý, tiết kiệm chi phí sản xuất. + Đối với quá trình phát triển nền
kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản xuất giá trị thặng dư gợi
ra cho nhà hoạch định chính sách phương thức làm tăng của cải thúc đẩy
phát triển kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp, để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cần tận dụng triệt để các nguồn lực nhất là lao
động và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài cần phải coi trọng việc tăng
năng suất lao động xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh
tế quốc dân là giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội. + Quy
luật giá trị thặng dư đã phát huy vai trò to lớn của nó đem lại những tiến bộ
vượt bậc và thành tựu kinh tế cho CNTB. Nước ta nói riêng và các nước
XHCN nói chung cần nỗ lực không ngừng trên con đường của mình để xây
dựng XHCN trên thế giới. Riêng nước ta, đang trong giai đoạn độ lên CNXH
từ chế độ PK bỏ qua giai đoạn TBCN với xuất phát điểm là một nền kinh tế
lạc hậu chủ yếu là dựa vào nông nghiệp. Yêu cầu đặt ra là phải từng bước
xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Vì vậy, chúng ta phải học tập những
thành tựu mà CNTB đã đạt được trong đó quan tâm đặc biệt đến quy luật
kinh tế cơ bản của nó là giá trị thặng dư, sửa chữa quan niệm sai lầm trước
kia trong xây dựng kinh tế. Trong quá trình làm còn có nhiều sai sót , mong
thầy cô bỏ qua và góp ý kiến , em xin trân thành cảm ơn !
Tài Liệu Tham khảo :
Hoctap24h.vn
Wikipedia
Hoc247.net
Báo VNCB
Doc.edu.vn
……….
Em xin trân thành cảm ơn !!

You might also like