You are on page 1of 13

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - TIN HỌC

THÀNH PHỒ HỒ CHÍ MINH


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI TIỂU LUẬN


KẾT THÚC HỌC PHẦN HỌC KỲ II
NĂM HỌC 2020-2021

MÔN THI: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN


CHỦ ĐỀ: Quy luật giá trị và sự vận dụng của quy luật này trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay

Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Hồng Hải (SCN, ca 1, 222)
Sinh viên thực hiện:
1. Họ và tên: Nguyễn Quang Nhật Huy MSSV: 20DH112005
2. Họ và tên: Phạm Quốc Đăng Khoa MSSV: 20DH111360
3. Họ và tên: Phan Thành Trung MSSV: 20DH112160
4. Họ và tên: Tiêu Phạm Trọng Nhân MSSV: 19DH110728
5. Họ và tên: Nguyễn Hoài Nam Duy MSSV: 20DH111950

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2021


1.MỞ ĐẦU

Chúng ta đã biết được quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của
sản xuất và trao đổi hàng hoá .Do đó mà ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì
ở đó có sự xuất hiện cuả quy luật giá trị.Mọi hoạt động cuả các chủ thể kinh tế
trong sản xuất và lưu thông hàng hoá đều chịu sự tác động cuả quy luật này.Quy
luật giá trị là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng kinh tế chu kì,phân hoá giàu
nghèo,những cuộc cạnh tranh không lành mạnh…Chính vì thế chúng ta cần nghiên
cứu về quy luật giá trị,tìm hiểu vai trò và tác động của nó tới nền kinh tế,đặc biệt là
trong thời kì phát triển nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay.Với mong
muốn tìm hiểu rõ bản chất, mối quan hệ của quy luật giát trị và sự tác
động của nó trong nền kinh tế thị trường, nhóm em quyết định chọn đề tài
tiểu luận: “ Quy luật giá trị và sự vận động quy luật này trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay.” Để từ đó có cái nhìn sâu sắc, toàn diên
hơn về quy luật giá trị, ảnh hưởng của nó trong nền kinh tế để rút ra bài
học, biện pháp khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của nó đồng thời
phát huy những ảnh hưởng tích cực của nó đến nền kinh tế Việt Nam.

Bài viết này chia ra thành 4 phần,bao gồm:

+ Tìm hiểu sâu về nội dung của quy luật giá trị

+ Vận dụng thực tiễn của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường Việt
Nam

+ Ý nghĩa của quy luật giá trị

+ Một số tài liệu tham khảo về quy luật giá trị

2.NỘI DUNG

2.1.Cơ sở lý luận

Quy luật giá trị là một trong những quy luật cơ bản trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay. Ở đâu tồn tại sự trao đổi và lưu thông hàng hóa thì ở
đấy có sự hoạt động của quy luật giá trị. Lý luận của quy luật giá trị C.Mác được
trình bay như sau:
- Về nội dung : Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên
cơ sở giá trị của nó, tức là hao phí lao động xã hội cần thiết.

+ Hao phí lao động xã hội cần thiết : là hao phí lao động để sản xuất ra một đơn
vị hàng hóa trong điều kiện sản xuất bình thường với trình độ thành thạo và cường
độ lao động đạt ở mức trung bình.
+ Lượng hao phí lao động xã hội cần thiết quyết định lượng giá trị và biển đổi tùy
thuộc vào sự biến đổi của năng suất lao động. Nếu năng suất lao động xã hội tăng
thì HPLĐXHCT để sản xuất một đơn vị hàng hóa giảm.

- Trong sản xuất, người sản xuất phải cái mức hao phí lao động cá biệt (là hao phí
lao động riêng biệt của người sản xuất để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa) nhỏ hơn
hoặc bằng mức HPLĐXHCT mới có thể tạo lợi thế trong cạnh tranh.
+ Ví dụ : trung bình để dệt một cái áo cần 5 tiếng, nhưng vì anh A khéo tay nên chỉ
cần 4 tiếng để có thể dệt được một cái áo. Vì thế, công ty anh A có lợi thế trong
cạnh tranh.

- Trong trao đổi, quy luật giá trị được thực hiện theo nguyên tắc ngang giá : mỗi
hàng hóa đều kết tinh một lượng lao động. Trong trao đổi , hai hàng hóa được trao
đổi với nhau khi chúng đều kết tinh một lượng lao động như nhau. Hoặc trao đổi
buôn bán phải thực hiện với giá cả bằng giá trị.
+ Ví dụ : 2kg táo đổi một con gà, 50 nghìn mua một hộp khẩu trang

- Trong nền kinh tế thị trường, thông qua những quan hệ hàng hóa – tiền tệ,
HPLĐXHCT biểu hiện thành giá trị hàng hóa, và là cơ sở của giá cả hàng hóa.
Cơ chế biểu hiện của HPLĐXHCT : quy luật giá trị được biểu hiện thông qua sự
thay đổi lên xuống của giá cả xoay quanh giá trị hàng hóa. Giá trị hàng hóa được
tác động bởi quan hệ cung – cầu hàng hóa trên nền kinh tế thị trường.
+ Cung : là biểu thị những lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà người sản xuất có thể
sẵn sàng cung cấp ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định.

+ Cầu : là số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà người tiêu dùng sẵn sàng mua trong
một thời gian nhất định (nói đơn giản là nhu cầu mua hàng hóa của người tiêu
dùng)

- Nếu sức mua của đơn vị tiền tệ không thay đổi, không kể đến sự điều tiết của nhà
nước và độc quyền, trong trao đổi và buôn bán sẽ xảy ra một trong ba trường hợp
sau:
+ Trường hợp 1 : cung = cầu , khi đó giá cả hàng hóa sẽ bằng với giá trị hàng hóa
+ Trường hợp 2 : cung > cầu , trong trường hợp cung lớn hơn cầu, giá cả hàng hóa
sẽ nhỏ hơn giá trị hàng hóa
+ Trường hợp 3 : cung < cầu, khi cung bé hơn cầu thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên
lớn hơn giá trị hàng hóa.
*Ví dụ : trong đợt đại dịch Covid-19 gần đây, khi nhận được tin giãn cách xã hội
lâu dài, nhu cầu lưu trữ chất chứa thực phẩm của người dân tăng nhanh. Điểu này
khiến cho các thực phẩm như trứng gà nhanh chóng hết hàng  cung < cầu  giá
cả để mua một vĩ trứng tăng

- Trong nền sản xuất hàng hóa, các nhà sản xuất luôn tìm cách hạ mức hao phí lao
động riêng biệt của mình thấp hơn mức HPLĐXHCT để tạo lợi thế trong cạnh
tranh  quy luật giá trị giúp kích thích tiến bộ, tăng năng suất lao động, phân hóa
người sản xuất thành giàu – nghèo.

*Tác động của quy luật giá trị


– Thứ nhất: Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá trên thị trường.
Điều tiết sản xuất tức là điều khiển, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành
kinh tế, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
Nếu cung < cầu: giá cả lớn hơn giá trị, nghĩa là hàng hóa sản xuất ra có lãi, bán
chạy. Nếu Giá cả hàng hóa cao hơn giá trị sẽ làm cho mở rộng và đẩy mạnh sản
xuất để tăng cung; ngược lại cầu giảm vì giá cả của hàng hóa tăng
Nếu cung > cầu, hàng hóa sản xuất ra nhiều so với nhu cầu của thị trường, giá cả
thấp hơn giá trị, hàng hóa khó bán, sản xuất không có lãi. Vì vậy, người sản xuất
ngừng hoặc giảm sản xuất; nếu giá cả giảm thì cầu hàng hóa sẽ tăng.
Cung = Cầu: giá cả trùng hợp với giá trị. Do đó, nền kinh tế người ta thường gọi là
“bão hòa”.
Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị dựa vào sự thay đổi của  giá cả hàng hóa
trên thị trường. Như vậy, sự biến động của giả cả trên thị trường không những chỉ
rõ sự biến động về kinh tế, mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
– Thứ hai: Thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao
động, làm cho lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể sản xuất
có tính độc lập trong quá trình sản xuất và vì vậy nên sự hảo tổn lao động của các
chủ thể cũng sẽ khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn
hao phí lao động xã hội của hàng hoá ở thế có lợi sẽ thu được lãi cao. Nhà sản xuất
nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ thua lỗ.
Để giành lợi thế trong cạnh tranh, và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp
hao phí lao động cá biệt của mình sao cho nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã
hội cần thiết. Muốn vậy, nhà sản xuất phải dùng các biện pháp để tối đa hoa hóa chi
phí sản xuất, áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất để tăng năng suất, tạo ra cho
mình những lợi thế cạnh tranh.
– Thứ ba: Làm cho sự phân hoá người sản xuất hàng hoá thành người giàu,
người nghèo.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có
điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có
hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, từ đó mà thu
được nhiều lợi nhuận, họ trở thành người giàu. Họ mở rộng thêm sản xuất, quy mô.
Ngược lại những người không có được các lợi thế cạnh tranh sẽ dần thua lỗ, trở
thành người nghèo.

2.2.Cơ sở thực tiễn

Chúng ta đã biết được quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất
của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Do đó mà ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng
hoá thì ở đó có sự xuất hiện của quy luật giá trị. Mọi hoạt động của các chủ thể
kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hoá đều chịu sự tác động cuả quy luật
này. Quy luật giá trị là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng kinh tế chu kì,
phân hoá giàu nghèo, những cuộc cạnh tranh không lành mạnh…

Hiện nay nước ta đang hội nhập theo nền kinh tế Thế giới với chính sách
mở cửa hợp tác với các nước. Ngay từ đầu, Đảng ta đã đưa ra quan điểm rõ
ràng "Một nền kinh tế phát triển theo mô hình nền kinh tế nhiều thành phần,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa và dưới sự quản lý của nhà nước". Trong quá
trình phát triển nền kinh tế nước ta chiụ tác động của nhiều nhân tố khách
quan, một trong những nhân tố khách quan chủ yếu là quy luật giá trị. Đó là
một quy luật kinh tế căn bản nó tác động vào nền kinh tế như một tất yếu
khách quan, ở đâu có hàng hoá và sản xuất hàng hoá thì quy luật giá trị còn tồn
tại và phát sinh tác dụng, thông qua đó ta thấy vai trò to lớn của quy luật giá trị
nó duy trì và mở rộng sản xuất của xí nghiệp và của xã hội. Việc phân phối thu
nhập quốc dân và theo đó đạt những cân đối cần thiết của nền kinh tế theo hình
thức giá trị, mặt khác nó còn kích thích sản xuất dựa vào hao phí lao động xã
hội cần thiết, đồng thời tính toán kinh tế để bố trí lực lượng sản xuất trong cả
nước nhằm thực hiện tốt yêu cầu của quy luật phát triển kinh tế có kế hoạch.
Với những vai trò đó quy luật giá trị tác động mạnh trong phân phối xã hội chủ
nghĩa: Phân phối theo lao động thông qua giá cả, tiền tệ... nó có tác động đẩy
nhanh hoặc kìm hãm tốc độ thực hiện kế hoạch lưu thông, hoàn thiện hoặc phá
vỡ kế hoạch đó.
Nhưng trong đó nhân tố giá cả là yếu tố biểu hiện cơ bản của quy luật
gía trị. Trong thực trạng nước ta hiện nay nó đang biểu hiện nhiều mặt tích cực,
kích thích lưu thông nâng cao hiệu quả sản xuất, nhưng bên cạnh nó những
biểu hiện nhiều mặt tiêu cực... Hạn chế rất lớn đối với sự phát triển của nước ta
hiện nay vì vậy cần phải nghiên cứu kỹ quy luật giá trị để có những hiểu biết
thêm về những biểu hiện mới của nó từ đó có những chính sách và hướng đi

Trong lĩnh vực sản xuất :


Một nguyên tắc căn bản của kinh tế thị trường là trao đổi ngang giá tức
là thực hiện sự trao đổi hàng hóa thông qua thị trường, sản phẩm phải thành
hàng hóa. Nguyên tắc này đòi hỏi tuân thủ quy luật giá trị - sản xuất và trao đổi
hàng hóa phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết. Cụ thể:
- Xét ở tầm vĩ mô: mỗi cá nhân khi sản xuất các sản phẩm đều cố gắng
làm
cho thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội.
- Xét ở tầm vĩ mô: mỗi doanh nghiệp đều cố gắng nâng cao năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm, giảm thì gian lao động xã hội cần thiết.
Theo yêu cầu của quy luật giá trị thì trong xã sản xuất giá trị cá biệt của
từng xí nghiệp phải phù hợp hoặc thấp hơn giá trị xã hộ, do đó quy luật giá trị
dùng làm cơ sở cho việc thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trogn sản xuất
kinh doanh. Các cấp quản lí kinh tế cũng như các ngành sản xuất, các đơn vị
sản xuất ở cớ sở, khi đặt kế hoạch hay thực hiện hoạch kinh tế đều phải tính
dến giá thành, quan hệ cung cầu, để định lượng, kết cấu hàng hóa,…
Nền sản xuất xã hội chủ nghĩa không chịu sự điều tiết của quy luật giá trị
mà chịu sự chi phối của quy luật kinh tế cơ bản của CNXH và quy luật phát
triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân, tuy nhiên quy luật giá trị
không phải không có ảnh hưởng đến sản xuất. Những vật phẩm tiêu dùng cần
thiết để bù đắp vào sức lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất, đều được
sản xuất và tiêu thụ dưới hình thức hàng hóa và chịu sản xuất sự tác động của
quy luật giá trị. Trong những thành phần kinh tế khác nhau, tác động của quy
luật giá trị có những điểm không giống nhau. Vì thế các xí nghiệp của chúng ta
không thể và không được bỏ qua quy luật giá trị.
Do vậy, nhà nước đua ra các chính sách để khuyến khích nâng cao trình
độ chuyên môn. Mỗi doanh nghiệp phải cố gắng cải tiến máy móc, mẫu mã,
nâng cao tay nghề lao động. Nếu không, quy luật giá trị ở đây sẽ thực hiện vai
trò đào thải của nó: loại bỉ những cái kém hiệu quả, kích thích các cá nhân,
ngành, doanh nghiệp phát huy tính hiệu quả. Tất yếu điều đó dẫn tới sự phát
triển của lực lượng sản xuất mà trong đó đội ngũ lao động có táy nghề chuyên
môn ngày càng cao, công cụ lao động luôn luôn được cải tiến. Và cùng với nó,
sự xã hội hóa, chuyên môn hóa lực lượng sản xuất cũng được phát triển. Đây là
những vận dụng đúng đắn của nhà nước.
Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế
Việc chuyển từ chế độ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường thì cùng với nó là việc loại bỏ cơ chế xin cho, cấp phát, bảo hộ trong
hoạt động đáng bởi các chi tiêu sản xuất mà nhà nước đưa ra và phải tự nghiên
cứu để tìm ra thị trường phù hợp với các sản phẩm của mình; thực hiện sự
phân đoạn thị trường để xác định tấn công vào đâu, bằng những sản phẩm gì.
Mặt khác, cùng với xu hướng công khai tài chính doanh nghiệp để giao
dịch trên sàn giao dịch chứng khoán , thúc đẩy tiến trình gia nhập AFTA.
WTO; mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp đều phải nâng cao sức cạnh tranh của
mình để có thể đứng vững khi bão táp của quá trình hội nhập quốc tế hội nhập
đến. Sức cạnh tranh được nâng cao ở đây là nói đến sức canh tranh giữa các
doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước
ngoài , giữa các cá nhân trong nước và các nhân nước ngoài.
Tạo nên sự năng động của nền kinh tế thị trường việt nam.
Cạnh tranh gay gắt sẽ đưa đến một hệ quả tất yếu là làm cho nền kinh tế
năng động lên. Vì trong cạnh tranh, mỗi người sẽ tìm cho mình một con
đường đi mới trong một lĩnh vực sản xuất, kinh doanh tạo nên sự sản xuấ hiệu
quả nhất. Các con đường đó sẽ vô vàn khác nhau, luôn tạo ra những lĩnh vực
sản xuất mới. Và hơn nữa, cạnh tranh năng động sẽ làm cho sản phẩm hàng
hóa đa dạng về mẫu mã, nhiều chất lượng. Bởi vì, sự đào thải của quy luật giá
trị sẽ ngày càng làm cho sản phẩm hoàn thiện hơn, mang lại nhiều lợi ích cho
người tiêu dùng.
Sự năng động thể hiện ở sự phát triển nhiều thành phần kinh tế. Vì, việc
phát triển nhiều thành phần kinh tế có tác dụng thu hút nguồn nhân lực vào các
thành phần kinh tế, phát huy nội lực, tận dụng nội lực để sản xuất ra nhiều
hàng hóa thu lợi nhuận hay nâng cao trình độ sản xuất một ngành, một lĩnh
vực nhất định.
Thúc đẩy quá trình hội nhập quốc.
Với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, siêu lợi nhuận, sự đầu tư trong nước
và đầu tư ra nước ngoài ngày càng phát triển, hay nói cách khác là thúc đẩy
quá trình hội nhập quốc tế.
Mỗi nước đều có những ưu thế, lợi thế riêng. Do thời gian và trình độ
xuất phát điểm của nền kinh tế khác nhau nên có nước cần vốn thì nước thừa
vốn. Do tốc độ phát triển khác nhau nên có nước phát triển có nước lạc hậu; do

sự phân bố tài nguyên khác nhau nên mỗi nước lại có điều kiện sản xuất khác
nhau và tạo ra một lợi thế so sánh trên thương trường. Điều này thúc đẩy sự
chuyên môn hóa, hiệu tác sản xuất để có chi phí sẽ làm cho giá cả thấp, và do
đó thắng trên thương trường.
Ngoài ra, quy luật giá trị tác động có tác dụng giáo dục những cán bộ
lãnh đạo kinh tế tiến hành sản xuất hợp lý, tôn trọng kỉ luật, học hỏi tiềm lực
của sản xuất, tính toán chính xác, nắm bắt tình hình thực hiện của sản xuất, biết
tìm cách lực lượng dự trữ tiềm tàng giấu kín trong sản xuất.
Tuy nhiên vẫn còn các cán bộ lãnh đạo, các nhà chuyên môn về công tác
kế hoạch đều hiểu không thấu đáo tác dụng của quy luật giá trị, không nghiên
cứu và không biết chú ý đến tác dụng đó trong khi tính toán. Là nguyên nhân
vì sao chính sách nước ta còn hay mơ hồ.
Trong lĩnh vực lưu thông.
Phân phối và lưu thông trong xã hội chủ nghĩa có sự tác động khách
quan của quy luật giá trị. Việc vận dụng quy luật lưu thông, phân phối được thể
hiện ở những mặt sau.
Hình thành giá cả
Giá cả là một phạm trù phức tạp, sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị là
một tất yếu khách quan của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta đã vận
dụng quy luật giá trị vào những mục đích nhất định, đã phải tính đến những
nhiệm vụ kinh tế, chính trị trước mắt và lâu dài, căn cứ vào nhiều quy luật kinh
tế xã hội chủ nghĩa.
Hình thành giá cả là hình thức vận dụng quy luật giá trị tập trung nhất.
Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị, cho nên khi xác định giá cả
phải đảm bảo yêu cầu khách quan là lấy giá trị cơ sở, phản ánh đầy đủ những
hao phí về vật tư và lao động để sản xuất hàng hóa. Giá cả phải bù đắp chi phí
sản xuất hợp lý, tức là bù đắp giá thành sản xuất, đồng thời bảo đảm một mức
lãi thích đáng để tái sản xuất mở rộng. Đó là nguyên tắc chung áp dụng phổ

biến cho mọi quan hệ trao đổi, quan hệ giữa các xí nghiệp quốc doanh nghiệp
với nhau, cũng như nhà nước với nông dân.
Nguồn hàng lưu thông.
Trong nền kinh tế XHCN, việc cung cấp hàng hóa cho thị trường thực
hiện một cách có kế hoạch. Đối với những mặt hàng có quan hệ lớn đến quốc
tế dân sinh, nếu cung cầu không cân đối thì nhà nước dùng biện pháp đẩy
mạnh sản xuất, tăng cường thu mua, cung cầu theo định lượng, theo tiêu chuẩn
mà không thay đổi giá cả. Chính thông qua hệ thống giá cả quy luật có ảnh
hưởng nhất định đến việc lưu thông của một hàng hóa nào đó. Giá mua cao sẽ
khơi thêm nguồn hàng, gái bán hạ sẽ thúc đẩy mạnh việc tiêu thụ, và ngược lại.
Do đó mà nhà nước ta đã vận dụng vào việc định giá cả sát giá trị, xoay
quanh gái trị để kích thích cải tiến kĩ thuật tăng cường quản lí. Không những
thế nhà nước ta còn chủ động tách giá cả khỏi giá trị với từng loại hàng hóa
trong từng thời kì nhất định, lợi dụng sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị để
điều tiết một phần sả xuất và lưu thông , điều chỉnh cung cầu cà phân phố. Giá
cả được coi là một công cụ kinh tế quan trọng để kế hoạch hóa sự tiêu dùng
của xã hội.
Ví dụ như là giá cả của sản phẩm công nghiệp nặng lại đặt thấp hơn giá
trị để khuyến khích sự đầu tư phát triển, áp dụng kĩ thuật vào sản xuất.
Tuy nhiên sự điều chỉnh này ở nước ta không phải bao giờ cũng phát huy tác
dụng tích cực, nhiều khi những chính sách này lại làm cho giá cả bất ổn, tạo
điều kiện cho hàng hóa nước ngoài tràn vào nước do giá cả hợp lý hơn.
Kinh tế thị trường tuân thủ nguyên tắc trao đổi ngang giá hàng hóa, theo
đuổi hiệu quả phân phối tối ưu của các nguồn. Thước đo giá trị chú trọng hiệu
quả kinh tế thị trường; một khi mở rộng, vận dụng vào lĩnh vực đời sống xã hội
và quan hệ con người, không tránh khỏi sản sinh những quan hệ khác nhau gắn
bó đạo đức con người đó chuẩn mực giá trị coi trọng tình nghĩa, xem thường
lợi ích hay coi trọng lợi ích, xem thường tình nghĩa . “do vậy, ở nước ta, phát
triển kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phải chú ý sự chuyển đổi
quan niệm sao cho phù hợp với đạo đức dân tộc truyền thống và hiện đại. thể
hiện rõ nhất ở nước ta hiện nay là nạn nhân hàng giả, trốn thuế, buôn lậu…..”
Tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay
Áp dụng Quy luật giá trị vào nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa, chúng ta thấy được những thế mạnh của nó khi tác động vào hoạt
động sản xuất, kinh doanh, đó là:
Quy luật giá trị góp phần điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa:
Trong sản xuất, nếu như một mặt hàng nào đó có giả cả cao hơn giá trị,
hàng hoá bán chạy và lợi cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản
xuất, đầu tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những người sản
xuất hàng hoá khác cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này, do đó, tư
liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này tăng lên, quy mô sản xuất càng được
mở rộng. Còn nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ
vốn. Tình hình đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này
hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao
động ở ngành này giảm đi ở ngành khác lại có thể tăng lên. Trường hợp còn
lại, mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thỡ người sản xuất có thể tiếp tục sản
xuất mặt hàng này. Như vậy, quy luật giá trị đó tự động điều tiết tỷ lệ phân
chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp
ứng nhu cầu của xã hội. Tốc động điều tiết lưu thông hàng hoá của quy luật giá
trị thể hiện ở chỗ nó thu hút hàng hoá từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả
cao, và do đó, góp phần làm cho hàng hoá giữa các vùng có sự cân bằng nhất
định.rõ
ràng cụ thể để nước ta ngày càng phát triển đi lên.Với các đặc trưng của mô
hình này như đã nói ở trên, các quy luật kinh tế được phép huy tác dụng của nó
trong đó quy luật kinh tế căn bản chi phối toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế.

3.KẾT LUẬN

Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến sâu sắc từ kinh tế chỉ
huy sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước . Sự đổi mới tưduy kinh
tếcủa Đảng và nhà nước ta thểhiện trong các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế
đã phát huy được những động lực to lớn của nền kinh tếmới đối với sự phát triển
của đất nước . Đặc biệt sự đổi mới về cả nhận thức lý luận lẫn công tác điều
hành thực tiễn trên lĩnh vực áp dụng quy luật giá trị định hướng XHCN vào
nền kinh tế đã góp phần đáng kể vào những thành quả kinh tế chung .Thực tiễn
những năm qua chứng tỏ rằng quy luật giá trị với những biểu hiện của nó nhưgiá
cả, tiền tệ, giá trị hàng hoá .. là lĩnh vực tác động hết sức nhanh nhạy và lớn lao
tới đời sống kinh tếxã hội của đất nước ảng và nhà nước tađã nhận thức đúng
đắn về vấn đề này và đã thực hiện nhiều cuộc cải cách kinh tế tuân theo những nội
dung của quy luật giá trị nhằm hình thành và phát Triển một nền kinh tế hàng hoá
XHCN đa dạng và hiệu quả và đã đạt được những hiệu quảnhất định. Bên cạnh đó
việc xụp đổ của nền kinh tế Liên Xô và các nước Đông Âu cũng là một thực tế cho
thấy quan niệm về giá trị giá cả mà các nước đó đã từng áp dụng có rất nhiều
nhược đIểm và do đó không thể là cơ sở lý luận cho chính sách điều tiết nền kinh
tế ở nước ta . Nhưng những lý thuyết giá trị của kinh tế học phương tây mặc dù
có những ưu đIểm nhất định nhưng cũng có nhiều khiếm khuyết đặc biệt trong
quan đIểm về cơ sở khách quan của giá cả. Cách duy nhất để có được cơ sở lý luận
đúng đắn cho chính sách phát triển kinh tế ở nước ta là dựa trên nguyên lý cơ bản
của lý luận giá trị, tiếp tục phát triển nó cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới,
làm giàu nó bởi chính những thay đổi cho phù hợp với đIều kiện kinh tế của
nước mình.Tóm lại quá trình phát triển kinh tế là một quá trình lâu dài , đòi hỏi gắt
gao việc áp dụng đúng đắn các quy luật kinh tế, trong thời gian qua tuy đôi lúc sự
vận dụng đó của nước ta còn chưa quán triệt nhiều khi là sự quẩn quanh ,dập
khuân nhưng bên cạnh đó ta cũng đã đạt được những tiến bộ nhất định má nếu tiếp
tục phát huy thì trong tương lai không xa chúng ta sẽcó một nền kinh tế XHCN
phát triển và thịnh vượng.

Tóm lại quy luật gia trị có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế
thị trường , nó là quy luật kinh tế căn bản chi phối sự vận động của nền kinh tế thị
trường . Sự tác động cuar quy luật giá trị một mặt thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế, mặt khác gây ra cac hệ quả tiêu cực ... Đối với nên kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta giai đoạn hiện nay,quy luật giá trị đóng vai trò
cực kỳ quan trọng . Tuy nhiên có phát huy được các mặt tích cực ,đẩy lùi các mặt
tiêu cực còn là một vấn đề phụ thuộc nhiều vào vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước
và nhận thức của mỗi công dân.

4.TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Sách kinh tế chính trị Mác-Lenin,Trường Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội 1999.

2.Sách Kinh tế chính trị Mác - Lênin,NXB Chính trị quốc gia ,Hà Nội 2000

3.Sách Kinh tế chính trị Mác - Lênin,NXB Giao dục ,Hà Nội 2000.

4.Sách Kinh tế chính trị ,NXB Đại học và trung học chuyển nghiệp ,Hà Nội 1974.

5.Sách Kinh tế chính trị , Trung học kinh tế ,Hà Nội 2000.

6.Chính trị, Bộ Giáo dục và Đào tạo – Chủ biên: Lê Thế Lạng, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2004.

7.Giáo trình Kinh tế học Chính trị Mác – Lê nin (tái bản), Hội đồng Trung ương chỉ
đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2005

8.Kinh tế Chính trị Mác – Lênin (in lần thứ hai có sửa chữa, bổ sung), Vũ Anh
Tuấn, Phạm Quang Phân, Tô Đức Hạnh, Nhà xuất bản Tổng hợp, thành phố Hồ
Chí Minh, năm 2007

9.100 câu hỏi và bài tập kinh tế chính trị Mác – Lênin (tái bản lần thứ 5), An Như
Hải, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, năm 2008

You might also like