You are on page 1of 23

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN


----------

Tiểu luận
Môn: Kinh tế chính trị Mác- Lênin
ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C.MÁC VÀ VẬN DỤNG
VÀO NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Họ và tên sinh viên: Bạch Thị Tú


Ngày sinh: 10- 01- 2002
Mã sinh viên: 2055270050
Lớp hành chính: Quản lý kinh tế A1 K40
Lớp tín chỉ: k40_kT01001_7

1
Hà Nội, 2021

MỤC LỤC
Trang
A Mở đầu :...............................................................................................................3
B Nội dung
Chương 1 lý luận giá trị thặng dư của C.Mác ........................................................4
1.1 Giá trị thặng dư ............................................................................................. .4
1.2 Sự sản xuất giá trị thặng dư của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ........................6
1.3 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường................12
Chương 2 Thực trạng việc nghiên cứu và vận dụng giá trị thặng dư ở nước ta hiện
nay...........................................................................................................................15
2.1 Thực trạng ........................................................................................................15
2.2 Ưu điểm ............................................................................................................18
2.3 Nhược điểm ......................................................................................................19
Chương 3 Giải pháp nghiên cứu và vận dụng giá trị thặng dư ở nước ta hiện nay 20
C Kết luận ...............................................................................................................21

2
A MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài
  Kinh tế chính trị Mác- Lênin có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Nhất là
trong  công cuộc đổi mới đất nước hiện nay yêu cầu học tập nghiên cứu kinh tế
chính trị Mác- Lênin càng được đặt ra một cách bức thiết nhằm khắc phục lạc hậu
về lý luận kinh tế, sự giáo điều tách rời lý luận với cuộc sống góp phần hình thành
tư duy kinh tế mới. Và theo V.I.Lênin, lý luận giá trị thặng dư là” một hòn đá tảng
của học thuyết kinh tế của Mác” và học thuyết kinh tế của C.Mác là nội dung căn
bản của chủ nghĩa Mác. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa dưới tác động của
các quy luật kinh tế mà trọng yếu là quy luật giá trị cùng với tích lũy nguyên thủy
tư bản đã tạo ra những điều kiện hình thành nền kinh tế thị trường với hình thái đầu
tiên là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu
cơ bản trong nghiên cứu khoa học kinh tế chính trị của các thế hệ đi trước và cùng
với phát kiến vĩ đại là học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác đã hoàn thiện lý luận kinh
tế chính trị về nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Sản xuất giá trị thặng dư tối
đa cho nhà tư bản là nội dung chính của quy luật giá tri thặng dư. Nó tác động đến
mọi mặt của xã hội tư bản. Nó quyết định đến sự phát sinh, phát triẻn của chủ nghĩa
tư bản và sự thay đổi của nó bằng một xã hội khác cao hơn, là quy luật vận động
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Như chúng ta đã biết, sau chính sách đổi mới năm 1986, kinh tế Việt Nam
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó cũng đồng nghĩa  phạm trù giá trị thặng
dư hay nói cách khác sự tồn tại của giá trị thặng dư là một tất yếu khách quan ở
Việt Nam. Vì vậy, những giá trị cốt lõi của lý luận giá trị thặng dư không những
giúp cho các thế hệ sau hiểu được những vấn đề kinh tế chính trị cơ bản của nền
kinh tế thị trường, mà còn giúp cho nhận thức những quy luật kinh tế cơ bản, vấn
đề bất cập nảy sinh trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
3
nghĩa ở Việt Nam, từ đó nhận thức sâu sắc hơn về nền tảng tư tưởng của Đảng
Cộng sản Việt Nam, nhận thức đúng đắn về con đường đi lên xây dựng Chủ nghĩa
xã hội Việt Nam mà Đảng và Nhà nước ta đã chọn. Và chỉ có phát triển kinh tế thị
trường mới làm cho nền kinh tế của nước ta phát triển năng động. Phát triển nền
kinh tế thị trường là  phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, cũng
có nghĩa là sản phẩm xã hội ngày càng phong phú, đáp ứng nhu cầu đa dạng của
mọi người.
     Tuy nhiên hiện nay mặc dù chúng ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng trong chừng mực nào đó vẫn
tồn tại thành kiến đối với các thành phần kinh tế tư nhân tư bản, coi các thành phần
kinh tế này là bóc lột. Những nhận thức này không chỉ  xảy ra với các một số cán
bộ đảng viên làm công tác quản lý  mà còn xảy ra ngay trong những trực người trực
tiếp làm kinh tế tư nhân ở nước ta, mà theo lý luận Mác thì vấn đề bóc lột lại liên
quan đến giá trị thặng dư.
   Do đó, nhận thức về lý luận giá trị thặng dư của C.Mác và biểu hiện của giá trị
thặng dư trong nền kinh tế thị trường là những tri thức vô cùng quan trọng đối với
sinh viên Việt Nam các chuyên ngành lý luận chính trị sau khi tốt nghiệp và bước
vào lập nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 
Với những lý do trên em đã chọn đề tài” Lý luận giá trị thặng dư của C.Mác và
vận dụng vào nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”.
2 Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là: Nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư và làm rõ quá trình
vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào sự phát triển kinh tế thị trường Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu là: Làm rõ lý luận giá trị thặng dư, phân tích quá trình và
vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào sự phát triển thị trường ở Việt Nam.

B NỘI DUNG
4
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C.MÁC
Lý luận giá trị thặng dư của C.Mác được trình bày chủ yếu trong tác phẩm “Tư
bản” có nội dung vô cùng rộng lớn, bao gồm sự luận giải khoa học sâu sắc về
những điều kiện căn bản để hình thành, các quy luật vận động, xu hướng phát triển
của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, biểu hiện trong toàn bộ các khâu của
quá trình tái sản xuất, trong đó những vấn đề quan trong hàng đầu là sản xuất giá trị
thặng dư và các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư. 
1.1 Giá trị thặng dư
1.1.1 khái niệm của giá trị thặng dư
Kế thừa có phê phán những quan điểm của Adam Smith và David Ricardo, Các
Mác đã xây dựng nền học thuyết giá trị thặng dư-  học thuyết đã chỉ rõ nguồn gốc
bản chất của lợi nhuận. Khi xem xét quá trình lưu thông trong chủ nghĩa tư bản,
Mác thấy rằng tiền với tư cách là tư bản vận động theo công thức:
T-H-T
Ta thấy rằng nếu số tiền thu về là( T’) bằng số tiền ứng ra( T) thì quá trình vận
động trở nên vô nghĩa, mục đích của lưu thông tiền tệ ở đây không phải là giá trị sử
dụng mà là giá trị tăng thêm, ở đây  giá trị thặng dư với tư cách là nguồn làm giàu
cho giai cấp các nhà tư bản. Bởi vậy tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra do đó
công thức chung của tư bản phải là 
T - H -T’, trong đó T’ = T + ∆t.
 C.Mác gọi ∆t là giá trị thặng dư.
->Như vậy,  giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động
do công nhân làm thuê tạo ra và thuộc về nhà tư bản. Sở dĩ là dôi ralaf vì người lao
động chỉ cần một phần nhất định thời gian hao phí sức lao động đã được thỏa thuận
theo nguyên tắc ngang giá để bù đắp giá trị hàng hóa sức lao động của mình.
Giá trị thặng dư cũng như tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa, mức độ bóc lột công nhân làm thuê của nhà tư bản. Sản xuất giá trị
thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Một  mặt nó thúc  đẩy nền
5
sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển ngày càng mạnh mẽ; mặt khác nó làm tăng
những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản. Trong đời  sống kinh tế- xã hội hiện
thực của chủ nghĩa tư bản giá trị thặng dư biểu hiện với những hình thức khác
nhau: lợi nhuận, lợi tức, địa tô tư bản chủ nghĩa.
   Nội hàm khái niệm giá trị thặng dư được tiếp nhận  từ lý luận kinh tế của Mác có
thể gói gọn trong định nghĩa rằng: Giá trị thặng dư là giá trị do lao động của công
nhân làm thuê sản sinh ra vượt quá giá trị sức lao động của họ và bị nhà tư bản
chiếm đoạt toàn bộ. Việc sản sinh và chiếm và giá trị thặng dư là sự phản ánh quan
hệ sản xuất căn bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phản ánh quy luật
kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. 
1.1.2 Bản chất của giá trị thặng dư
Về mặt kinh tế kỹ thuật giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới do lao
động tạo ra dôi ra ngoài giá trị sức lao động.
Về mặt kinh tế - xã hội giá trị thặng dư biểu hiện quan hệ giai cấp trong đó giai
cấp các nhà tư bản bộc lộ sức lao động của người làm thuê.
->Giá trị thặng dư không chỉ là một vật mà nó còn là một quan hệ xã hội.
1.2 Sự sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa

  Sản xuất tư bản là sản xuất hàng hóa lớn( Quy mô lớn, tính chất xã hội cao và
trình độ kỹ thuật phát triển). Để đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hóa lớn của tư bản
chủ nghĩa cần phải có hai điều kiện: Tiền phải chuyển hóa thành tư bản và sức lao
động trở thành hàng hóa.
1.2.1 Công thức chung của tư bản và hàng hóa sức lao động
Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột sức lao động của
người làm thuê. Tiền chưa phải là tư bản, mà tiền là  sản phẩm cuối cùng của quá
trình lưu thông hàng hóa và  là hình thức biểu hiện đầu tiên của tư bản, muốn trở
thành tư bản tiền phải được sử dụng để bóc lột lao động làm thuê, lượng tiền phải
đủ lớn theo quy định của pháp luật. Tiền được coi là tiền thông thường thì vận dụng

6
theo công thức H- T- H. Ở đây tiền không phải là tư bản mà đơn thuần chỉ là
phương tiện để đạt tới mục đích bên ngoài lưu thông, nhằm thỏa mãn những nhu
cầu nhất định. Như vậy quá trình này là hữu hạn nó sẽ kết thúc khi nhu cầu được
thỏa mãn. Mà để chuyển hóa chất của tiền phải vận động theo công thức chung của
tư bản của C.Mác, đã chỉ rõ đó là T- H- T’( Tiền- Hàng- Tiền) tức là sự chuyển hóa
từ tiền thành hàng hóa rồi  hàng hóa vận chuyển và ngược lại thành tiền và đặc biệt
là giá trị thặng dư với tư cách là nguồn làm giàu cho giai cấp các nhà tư bản. Mục
đích của lưu thông tư bản không phải là giá trị sử dụng như trong lưu thông hàng
hóa đơn giản mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy nếu số tiền thu về
bằng số tiền ứng ra thì quá trình vận động trở nên vô nghĩa. Do đó số tiền thu về
phải lớn hơn số tiền ứng, nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là T- H- I’
trong đó T’ = T + ∆t. Số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra(  ∆t) được C.Mác gọi là
giá trị thặng dư  số tiền ứng ra ban đầu đã chuyển hóa thành tư bản.  Vậy tư bản là
giá trị mang lại giá trị thặng dư nên sự vận động của tư bản là không có giới hạn vì
sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn.
   Tiền đưa qua lưu thông, thì được giá trị thặng dư mà lưu thông không tạo ra giá
trị nên không tạo ra giá trị thặng dư, tiền rút khỏi lưu thông làm chức năng lưu
thông thì làm chức năng cất trữ thì không thu được giá trị thặng dư. Như vậy cùng
với lưu thông và lại không cùng với lưu thông đây chính là mâu thuẫn của công
thức chung của tư bản. Để có  được giá trị thặng dư  mà vẫn tuân thủ các quy luật
khách quan của nền kinh tế hàng hóa, đặc biệt là  quy luật giá trị, thì trên thị trường
cần xuất hiện phổ biến một loại hàng hóa có giá trị sử dụng đặc biệt là tạo ra giá trị
mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Hàng hóa đó là hàng hóa sức lao động. 
“ Sức lao động  hay năng lực là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại
trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận
dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị nào đó”. Sức lao động là yếu tố cơ bản của quá
trình lao động sản xuất trong mọi thời đại. Sức lao động không phải bao giờ cũng là
hàng hóa nó chỉ tiến thành hàng hóa khi đầy đủ 2 điều kiện: 
7
Một là, “ người chủ sức lao động phải có thể bán được nó với tư cách là hàng
hóa, thì người đó phải có khả năng chi phối được sức lao động ấy, do đó người ấy
phải là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của mình, thân thế của mình”, đồng thời”
người  sở hữu sức lao động bao giờ cũng chỉ bán sức lao động đó trong một thời
gian nhất định”. 
Hai là, “người chủ sức lao động phải không còn có khả năng bán những hàng
hóa trong đó lao động của anh ta được vật hóa, mà trái lại, anh ta buộc phải đem
bán, với tư cách là hàng hóa, chính ngay cái sức lao động chỉ tồn tại ở trong cơ thể
sống của anh ta thôi”.
Người lao động không có tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt để sống họ phải bán
sức lao động .Giống như mọi hàng hóa khác sức lao động có hai thuộc tính tính giá
trị và giá trị sử dụng. Giá trị hàng hóa sức lao động bao gồm giá trị của những tư
liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động ở mức giản đơn. Nó được xác
định gián tiếp qua giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống
vật chất tinh thần của bản thân người lao động và gia đình. Khác với các hàng hóa
thông thường sức lao động bao hàm yếu tố tinh thần lịch sử, số lượng và cơ cấu
nhu cầu tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên văn hóa, xã hội,.... và có đặc tính làm tăng
giá trị. Giá trị sử dụng của sức lao động mà người chủ nhận được khi trao đổi, chỉ
thể hiện ra trong quá trình sử dụng thực sự, tức là trong quá trình tiêu dùng sức lao
động. Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa “quá trình tiêu dùng sức lao
động đồng thời cũng là quá trình sản xuất ra hàng hóa và giá trị thặng dư”. 
1.2.2   Quá trình xuất giá trị thăng dư dưới chủ nghĩa tư bản
Để sản xuất giá trị thặng dư, nền sản xuất xã hội phải đạt trình độ nhất định. Sản
xuất giá trị thặng dư trước hết là sản xuất hàng hóa, là quá trình kết hợp sức lao
động với tư liệu sản xuất để tạo ra một giá trị sử dụng với quy cách, phẩm chất giữa
sức lao động với tư liệu sản xuất mà nhà tư bản đã mua được, nên có những đặc
điểm khác biệt so với sản xuất hàng hóa giản đơn: công nhân làm việc dưới sự
kiểm soát của nhà tư bản và sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản. Đồng
8
thời đó là quá trình sản xuất giá trị và giá trị thặng dư dựa trên cơ sở của quy luật
giá trị. 
Ta có thể nghiên cứu quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư bằng một quá trình sản
xuất sợi
Để sản xuất ra 10 kg sợi nhà tư bản phải bỏ ra (mua đúng giá trị):
  10 kg bông:                                   10 USD
  Khấu hao máy:                               2 USD
  Thuê công nhân một ngày              3 USD
                                                             --------
Như vậy tổng chi phí là                      15 USD
Trong quá trình sản xuất và lao động cụ thể người, người công nhân biến bông
thành sợi. Theo đó giá trị của bông và hao mòn của máy móc được chuyển vào giá
trị của sợi. Bằng lao động trừu tượng người công nhân tạo ra giá trị mới, giả định
trong 4 giờ lao động công nhân đã chuyển hoàn toàn 10 kg bông thành sợi giá trị sợ
gồm                          
Giá trị của 10kg sợi là:
Giá trị cũ - giá trị của tư liệu sản xuất dịch chuyển vào: 12 USD
Giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra trong 4 giờ (mỗi giờ 0,5 USD): 3
USD
Tổng giá trị 10kg sợi là 15 USD.
Nhà tư bản ứng ra 15 USD, bán sợi thu về 15 USD. Nếu quá trình lao động dừng
lại tại điểm này thì không có giá trị thặng dư, tiền ứng ra chưa trở thành tư bản.
Nhà tư bản không thu được gì, cuộc vận động không đạt mục đích.
->Kết luận: Nếu giá trị mới tạo ra bằng giá trị sức lao động thì không có giá trị
thặng dư.
Do đó, để có giá trị thặng dư, thời gian lao động phải vượt quá cái điểm bù lại giá
trị sức lao động. Nhà tư bản mua sức lao động của công nhân để sử dụng trong 8
giờ chứ không phải 4 giờ. Công nhân phải tiếp tục làm việc trong 4 giờ nữa, nhà tư
9
bản chỉ phải tốn thêm 10 USD để mua 10 kg bông và 3 USD hao mòn máy móc.
Quá trình lao động 4 giờ sau diễn ra như quá trình đầu. Số sợi được tạo ra trong 4
giờ lao động sau cũng có giá trị 15 USD. Tổng cộng, nhà tư bản ứng ra 20 USD +
4USD + 3USD = 27 USD, Nhà tư bản bán 20kg sợi đúng giá trị thu được 30USD,
so với tư bản đã bỏ ra 30-27=3 USD, nhà tư bản thu dôi ra 3 USD đó gọi là giá trị
thặng dư 
  Chủ nghĩa tư bản dựa trên sản xuất công nghiệp, năng suất lao động cao thì ngày
lao động (8 giờ) được chia thành hai phần:
Thời gian lao động cần thiết (4 giờ) tạo ra giá trị bằng giá trị sức lao động V=3
để tái sản xuất sức lao động.
Thời gian lao động thặng dư (4 giờ) tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản m=3
 Quá trình sản xuất giá trị thặng dư, xét từ phía nhà tư bản, là quá trình ứng ra và
sử dụng tư bản với tư cách là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Để tiến hành sản
xuất, nhà tư bản phải ứng tư bản ra mua tư liệu sản xuất và sức lao động
  Tư bản bất biến( C) là : Bộ phận tư bản ứng trước tồn tại dưới hình thức tư liệu
sản xuất; giá trị lao động cụ thể của công nhân làm thuê  bảo tồn và chuyển chuyển
nguyên vẹn vào  giá trị sản phẩm;không tạo ra giá trị thặng dư như là điều kiện hết
sức cần thiết để tạo ra giá trị thặng dư. Tư bản bất biến là điều kiện quan trọng để
sản xuất ra hàng hóa, xuất ra giá trị và giá trị thặng dư. Không có máy móc hiện đại
sẽ không có năng suất lao động cao và cũng không tạo ra giá trị thặng dư. Nhưng tự
máy móc không tự khấu hao, không trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư. 
Tư bản khả biến( v) là: bộ phận tư bản ứng trước tồn tại dưới hình thức tiền
công; giá trị thông qua lao động trừu tượng của công nhân mà tăng lên; là nguồn
gốc tạo ra giá trị thặng dư tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. 
Để có giá trị thặng dư, nhà tư bản không những cần phải thực hiện quá trình sản
xuất giá trị thặng dư, mà còn cần phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho quá trình
đó và thực hiện giá trị tư bản, giá trị thặng dư chứa đựng trong những hàng hóa đã
được sản xuất ra. Tổng thể những hoạt động đó biểu hiện sự vận động tuần hoàn
10
của tư bản. Tuần hoàn của tư bản là sự vận động của tư bản lần lượt trải qua ba giai
đoạn dưới ba hình thái kế tiếp nhau (tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng
hóa) gắn với thực hiện những chức năng tương ứng (chuẩn bị các điều kiện cần
thiết để sản xuất giá trị thặng dư, sản xuất giá trị thặng dư, thực hiện giá trị tư bản
và giá trị thặng dư) và quay trở về hình thái ban đầu cùng với giá trị thặng dư.
 Chu chuyển tư bản là tuần hoàn tư bản được xét là quá trình định kỳ, thường
xuyên lặp đi  lặp lại và đổi mới theo thời gian( n= CH/ch).
Xét theo phương thức chu chuyển giá trị của tư bản sản xuất vào giá trị sản
phẩm, tư bản được chia thành các bộ phận là tư bản cố định và tư bản lưu động. Tư
bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới hình thái tư liệu lao động tham
gia toàn bộ vào quá trình sản xuất những giá trị của nó chỉ chuyển dần dần, từng
phần vào giá trị sản phẩm theo mức độ hao mòn. 
 Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới hình thái sức lao động
nguyên nhiên vật liệu, vật liệu phụ. ..., giá trị của nó được chuyển một lần, toàn
phần vào giá trị sản phẩm khi kết thúc từng quá trình sản xuất.
Mục đích của nhà tư bản trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không
những chỉ dừng lại ở mức có được giá trị thặng dư, mà quan trọng là phải thu được
nhiều giá trị thặng dư, do đó cần có thước đo cụ thể để đo lường giá trị thặng dư về
lượng. C.Mác đã sử dụng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng để đo lường giá trị
thặng dư.
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả
biến. Công thức tính tỷ suất giá trị thặng dư là:   m’=m/v x 100% 
   Tỷ suất giá trị thặng dư cũng có thể tính theo tỷ lệ phần trăm giữa thời gian lao
động thặng dư (t’) và thời gian lao động tất yếu (t):  m’=t’/t x 100%  
Tỷ xuất giá trị thặng dư phản ánh trình độ bóc lột của tư bản, chủ nghĩa tư bản
phát triển càng cao bao nhiêu thì tỷ xuất giá trị thặng dư càng cao bấy nhiêu.

11
Khối lượng giá trị thặng dư là lượng giá trị thặng dư bằng tiền mà nhà tư bản thu
được. Khối lượng giá trị thặng dư nói lên quy mô của giá trị thặng dư và số tuyệt
đối của giá trị thặng dư. Công thức tính khối lượng giá trị thặng dư là: 

M = m’ x V
Trong đó: M - khối lượng giá trị thặng dư
V - tổng tư bản khả biến
m’ - tỷ suất giá trị thăng dư
m - giá trị thặng dư
v - tư bản khả biến 

1.3Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường tư 
bản chủ nghĩa 
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất giá trị thặng dư tối đa. Và để thu được
nhiều giá trị thặng dư cần có phương pháp nhất định. Có rất nhiều biện pháp và
hình thức để sản xuất giá trị thặng dư. C.Mác đã khái quát thành hai phương pháp
sản xuất giá trị thặng dư chủ yếu là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất
giá trị thặng dư tương đối. 
1.3.1 Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối 
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật
còn thấp, tiến bộ của chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là
kéo dài ngày lao động của công nhân. 
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động
vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao
động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi. 
Để có nhiều giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày lao
động và tăng cường độ lao động.Ngày lao động được chia thành 2 phần lao động
tất yếu và lao động thặng dư. Để kéo dài lao động thặng dư ra, lao động tất yếu sẽ

12
bị rút ngắn lại bằng những phương pháp khiến người ta sản xuất một vật ngang giá
với tiền công mà đã mất ít thời gian hơn. Tuy nhiên, ngày lao động chịu giới hạn về
mặt sinh lý (công nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để tái tạo lại
sức lao động) nên không thể kéo dài bằng ngày tự nhiên, còn cường độ lao động
cũng không thể tăng vô hạn quá sức chịu đựng của con người. Hơn nữa, công nhân
kiên quyết đấu tranh đòi rút ngắn ngày lao động. Quyền lợi hai bên có mâu thuẫn,
thông qua đấu tranh, tuỳ tương quan lực lượng mà tại các dân tộc trong từng giai
đoạn lịch sử cụ thể có thể quy định độ dài nhất định của ngày lao động. Còn giới
hạn dưới của ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời
gian lao động thặng dư bằng không. Nhưng dù sao, ngày lao động phải dài hơn thời
gian lao động tất yếu và cũng không thể vượt giới hạn thể chất và tinh thần của
người lao động. Như vậy độ dài của người lao động là một đại lượng không cố
định và có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do cuộc đấu
tranh giữa cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết
định. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi ngày lao động tiêu chuẩn, ngày
làm 8 giờ đã kéo dài hàng thế kỷ. Việc sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối chỉ ảnh
hưởng đến thời gian lao động mà thôi, còn giá trị thặng dư tương đối lại làm cho
biến đổi hoàn toàn các biện pháp kỹ thuật và các kết hợp xã hội của lao động.
1.3.2 Giá trị thặng dư tương đối
    Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của con người lao
động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt
khác khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn công nghiệp cơ khí, kỹ
thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư
bản chuyển sang phương pháp  bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã
hội, tức là bóc lột giá trị thặng dư tương đối. 
  Giá trị thặng dư tương đối giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian lao
động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động; do đó kéo dài thời gian lao

13
động thặng dư trong khi độ dài ngày lao động không thay đổi hoặc thậm chí rút
ngắn. 
Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải làm giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt
và dịch vụ cần thiết để tái sản xuất sức lao động, do đó phải tăng năng suất lao
động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt và các ngành sản xuất ra tư liệu
sản xuất để chế tạo ra tư liệu sinh hoạt đó. 
Trong thực tế, việc cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động diễn ra trước tiên
ở một hoặc vài xí nghiệp riêng biệt làm cho hàng hóa do các xí nghiệp ấy sản xuất
ra có thời gian lao động cá biệt thấp hơn thời gian lao động xã hội cần thiết, và do
đó, sẽ thu được một số giá trị thặng dư vượt trội so với các xí nghiệp khác. Phần giá
trị thặng dư trội hơn đó là giá trị thặng dư siêu ngạch. 
Xét từng trường hợp, đối với từng chủ thể sản xuất trong nền kinh tế thị
trường, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm thời, xuất hiện rồi mất đi,
nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch lại là hiện tượng tồn
tại thường xuyên; nó có thể mất đi chỗ này, lúc này nhưng lại xuất hiện chỗ khác,
lúc khác.  Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là
động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất,
tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản
cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức lao động
và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động. Hoạt động riêng lẻ đó của từng nhà
tư bản đã dẫn đến kết quả làm tăng năng suất lao động xã hội, hình thành giá trị
thặng dư tương đối, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do đó theo C.Mác, giá
trị thặng dư siêu ngạch là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. 
Trong thực tiễn lịch sử phát triển kinh tế thị trường trên thế giới, giai cấp các
nhà tư bản đã thực hiện những cuộc cách mạng lớn về sản xuất để không ngừng
nâng cao năng suất lao động cá biệt và thúc đẩy nâng cao năng suất lao động.

14
Sự hình thành và phát triển của thời đại công nghiệp thông qua cách mạng
công nghiệp đã mở ra những điều kiện mới cho phát triển khoa học và công nghệ
thức đẩy sản xuất nói chung và sản xuất giá trị thặng dư phát triển nhanh. Cùng với
toàn cầu hóa kinh tế, khoa học và công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, nhân tố quan trọng của sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị
trường trên thế giới hiện nay. 
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VIỆC NGHIÊN CỨU VẦ VẬN DỤNG GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Đất nước ta phát triển trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, việc vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của Các Mác trước hết phải nhận
thức đúng khái niệm bóc lột và bóc lột giá trị thặng dư trong học thuyết Mác. Từ
đó, cơ sở khoa học để luận giải những hiện tượng kinh tế của xã hội hiện nay. Ngày
nay học thuyết giá trị thặng dư vẫn còn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2.1 Thực trạng
 Trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, đã có không ít ý kiến cho rằng những giá trị
cốt lõi trong học thuyết giá trị thặng dư của chủ nghĩa Mác – Lênin cần được tiếp
tục nghiên cứu, vận dụng vào xây dựng phát triển kinh tế. Giá trị thặng dư phản
ánh mối quan hệ bóc lột và bị bóc lột vẫn được coi là nhân tố “trợ thủ của chủ
nghĩa xã hội”, “xúc tiến chủ nghĩa xã hội”, là cái “có ích” và “đáng mong đợi”. Vì
thế, cốt lõi của vấn đề là phải tạo điều kiện môi trường cho sự gia tăng khối lượng
giá trị thặng dư toàn xã hội ngày càng lớn, tỷ suất ngày càng cao. Và trong học
thuyết của Các Mác, có hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Tuy nhiên Việt Nam đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa, nên phương thức tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối(
tạo ra do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu trong khi
năng suất lao động xã hội, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không
15
thay đổi) không được sử dụng thời gian lao động không bị kéo dài 8 một ngày hay
48 một tuần theo 68 của Bộ luật Lao động.
    Gạt bỏ đi mục đích và tính chất của tư bản thì có thể áp dụng phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tương đối( tạo ra do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng
cách nâng cao năng suất lao động xã hội, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư
lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn như cũ) và biến tấu của nó- giá
trị thặng dư siêu ngạch (phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao động
cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó) vào
nền kinh tế Việt Nam. 
Sự tràn về của các hàng hóa nước khác, đặc biệt là hàng hóa Trung Quốc giá rẻ
đã tạo nên một áp lực lớn đối với các doanh nghiệp trong nước. Áp lực này buộc họ
phải đổi mới công nghệ nhằm tăng sức cạnh tranh để có thể tồn tại và đứng vững
trong nền kinh tế thị trường. Để tạo ra nhiều giá trị thặng dư, các doanh nghiệp bắt
đầu chuyên môn hóa trong việc sản xuất sản phẩm, phân chia công đoạn chi tiết,
đầu tư việc mua lại công nghệ và máy móc, áp dụng các phương pháp, phương
thức quản lý mới. Đồng thời khi Việt Nam còn chưa có nguồn nhân lực tri thức
cao, các chuyên gia nước ngoài cũng được mời về để làm để chuyển giao công
nghệ. Do kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi, nên khối lượng
GTTD được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động. Việc tăng năng suất lao
động do áp dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại có đặc điểm là chi phí lao động
sống cho một đơn vị sản phẩm giảm nhanh, vì máy móc hiện đại thay thế được
nhiều lao động sống hơn. thông qua sử dụng ồ ạt các thiết bị tự động hóa, đem
khoa học  - kỹ thuật hiện đại ứng dụng với quy mô lớn vào sản xuất, đã nâng cao
rất nhiều lần năng suất lao động. Vì thế, họ thuê ít công nhân hoặc không thuê công
nhân điều khiển máy móc mà vẫn có thể giành được giá trị thặng dư nhiều hơn. Sự
thực đó cũng không thể phủ định là giá trị và giá trị thặng dư đều do lao động sống
của người lao động sáng tạo ra, lao động sống là nguồn gốc duy nhất, các yếu tố
sản xuất khác đều không tạo ra.
16
  Việc mở cửa tham gia hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và thế giới, hoàn
thiện dần hệ thống pháp luật, xây dựng một nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra sự tăng trưởng đáng kể
cho nền kinh tế và ổn định chính trị xã hội. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những mặt
không chỉ đối với doanh nghiệp mà đối với cả nhà nước. Đó là hệ thống pháp luật
chưa đồng bộ, chưa phù hợp và luôn thay đổi. Trình độ quản lý kinh tế và kinh
nghiệm khi tham gia thị trường thế giới còn non kém và một điều căn bản là nền
kinh tế còn thiếu rất nhiều vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Sau khi gia nhập
WTO các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với các các đối thủ mới( các công
ty xuyên quốc gia, đa cấp quốc gia có tiềm lực tài chính, công nghệ, kinh nghiệm
và năng lực cạnh tranh cao),  phải cạnh tranh quyết liệt trong điều kiện mới( thị
trường toàn cầu với những nguyên tắc nghiêm ngặt của định chế thương mại và
luật quốc tế). Vì vậy, việc đổi mới công nghệ đào tạo nguồn nhân lực lại càng trở
thành nhu cầu cấp bách khi cạnh tranh để tạo ra nhiều giá trị thặng dư hơn.
 Không thể hiện rõ như chạy đua công nghệ, việc đào tạo và tìm kiếm những nhà
quản lý, những nhà chiến lược tài ba cũng là mối quan tâm lớn của các doanh
nghiệp. Không ít những doanh nghiệp Việt Nam hiện nay sẵn sàng trả cho nhân
viên của mình hàng chục Euro mỗi năm để có được những chiến lược mới giúp
doanh nghiệp tạo ra những nhiều lợi nhuận hơn bởi ngày nay lao động trí tuệ, lao
động quản lý đã trở thành những hình thức lao động có vai trò lớn. Khu vực dịch
vụ, các hàng hóa phi vật thể, vô hình chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Chúng
ta phải học tập các nhà tư bản để sản xuất ra càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt.
Điều đó hoàn toàn phù hợp với lý luận của V.I.Lênin: “Tri thức về chủ nghĩa xã hội
thì chúng ta có, nhưng chúng ta chưa có tri thức về tổ chức với quy mô hàng triệu
người, chưa có tri thức về tổ chức và phân phối sản phẩm... Cho nên chúng ta nói:
dù hắn là tên đại bịp bợm, nhưng một khi hắn là một thương nhân đã từng làm
công việc tổ chức sản xuất và phân phối cho hàng triệu và hàng chục triệu người,
một khi hắn có kinh nghiệm thì chúng ta phải học ở hắn”.
17
2.2 Ưu điểm
 Vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của Mác là cần thiết và có lợi cho sự phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Học thuyết
giá trị thặng dư không chỉ là cơ sở để hiểu rõ bản chất và xu hướng vận động của
chủ nghĩa tư bản mà còn chỉ chúng ta con đường tạo ra lực lượng sản xuất của chủ
nghĩa xã hội hay nói cách khác là hàng nghìn công nhân có việc. Nó là con đường
để thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế và bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn
với tiến bộ và công bằng xã hội trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường- những lý luận của Các Mác về lợi nhuận
vẫn có nguồn giá trị, nếu gạt bỏ tính chất tư bản thì lợi nhuận mang tính chất tích
cực. Nó chỉ là thước đo chính xác nhất đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp. Mà  lợi nhuận có nguồn gốc từ giá trị thặng dư, từ sức lao động của con
người bởi vậy con người phải đặt vào vị trí trung tâm để phát huy những tiềm năng
chưa được khai thác hết. Chiến lược của con người ngày càng trở nên quan trọng.
Mục đích của các nhà tư bản là lợi nhuận, là giá trị thặng dư và phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tương đối được áp dụng rộng rãi cho đến tận ngày nay. Muốn
tăng giá trị thặng dư cho nhà tư bản cần giảm giá trị sức lao động của công nhân
xuống, điều này chỉ có thể thực hiện khi năng suất lao động của toàn xã hội tăng
lên, có nghĩa là áp dụng và kỹ thuật vào sản xuất.
Khi áp dụng kỹ thuật vào trong sản xuất tức là làm giảm giá trị cá biệt của hàng
hóa mà ta sản xuất trong khi giá trị xã hội của hàng hóa đó trên thị trường vẫn
không thay đổi. Số chênh lệch giữa giá trị xã hội và giá trị cá biệt làm nên giá trị
thặng dư siêu ngạch của nhà tư bản. Làm cho nền sản xuất ngày càng phát triển,
đáp ứng được nhu cầu của con người. Tóm lại  lợi nhuận là động lực trực tiếp
mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức sản xuất,
dẫn đến sản xuất xã hội ngày càng phát triển. Muốn tăng lợi nhuận thì phải tăng
doanh thu bằng cách nâng giá bán hoặc nâng sản lượng bán ra. Lợi nhuận tác động
18
một cách gián tiếp đến hành vi của nhà sản xuất và người tiêu dùng, điều tiết một
cách hợp lý giá cả sản lượng trên thị trường. Đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải tối
thiểu  các chi phí đầu vào, kết hợp những yếu tố sản xuất một cách hiệu quả tránh
lãng phí, biết tổ chức sản xuất một cách hợp lý tránh những khâu trung gian không
cần thiết. Như vậy, giá trị thặng dư làm mở rộng quy mô sản xuất tích lũy thêm giá
trị thặng dư, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển và nâng cao mức sống của nhân dân.
2.3 Nhược điểm

Tuy nhiên, đến nay, nhiều vấn đề lớn về thực tiễn, căn cốt xuất hiện vẫn  chưa
tìm được câu trả lời thỏa đáng về lý thuyết. Sự bị động, tụt hậu về lý luận dưới ảnh
hưởng rất lớn của tư duy giáo điều và phương pháp tiếp cận cũ đang kìm hãm sự
phát triển kinh tế của đất nước. Về bản chất vẫn chưa có sự nghiên cứu bài bản trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin; công nghệ Của Việt Nam dù đã được cải tiến rất
nhiều nhưng còn thua kém rất nhiều so với các nước phát triển phần lớn công nghệ
này vẫn còn là công nghệ đã không còn sử dụng ở nước ngoài mà được bán lại với
giá thành rẻ. Chưa xác định rõ các quy luật của nền kinh thế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và mối quan hệ giữa chúng.  Đến nay vẫn chưa phân định rõ chức
năng Nhà nước – thị trường cho nên Nhà nước vẫn đang làm thay, thực hiện nhiều
chức năng mà thị trường đảm nhiệm hiệu quả hơn. Doanh nghiệp có nguồn lực hạn
hẹp, tuy ngân sách nhà nước và tiền của các doanh nghiệp đầu tư cho vấn đề con
người là rất lớn nhưng hiện nay số người có khả năng đáp ứng yêu cầu tuyển dụng
vẫn còn thấp, bởi đầu tư và giáo dục vẫn còn chưa đem lại hiệu quả. Chính sách
phân phối còn nhiều bất hợp lý chưa thực sự khơi dậy và phát huy được hiệu quả
các động lực để phát triển kinh tế, đồng thời làm cho khoảng cách giàu nghèo của
các tầng lớp dân cư, vùng miền, ngành nghề… ngày càng giãn rộng.
Những thách thức nảy sinh từ thực tiễn cùng với xu thế phát triển mới của thời
đại tạo ra yêu cầu phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ những giá trị cốt lõi, khoa học,
chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, những luận điểm trong học thuyết giá trị thặng
19
dư đã bị lịch sử vượt qua; những luận điểm trong học thuyết cần được bổ sung,
phát triển phù hợp với bối cảnh hiện nay; những quan điểm phản bác; định hướng
nghiên cứu và vận dụng sáng tạo học thuyết vào thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội
ở Việt Nam trong thời gian tới.

CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ VẬN DỤNG GIÁ TRỊ THẶNG
DƯ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bất  cứ một nhà kinh doanh nào khi bỏ vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh
đều có mục tiêu thu hồi vốn nhanh và có lãi để rồi lại tiếp tục đầu tư mở rộng sản
xuất. 
Muốn vậy, các doanh nghiệp trong nước cần Phát triển và sử dụng nguồn nhân
lực  tối đa, cố gắng hơn trong việc thay đổi công nghệ,phải đưa ra thị trường những
sản phẩm có chất lượng cao, hợp thị hiếu và giá bán hạ. Hiện nay có nhiều doanh
nghiệp trong nước ta đã tiến hành hợp tác các doanh nghiệp nước ngoài trên cơ sở
hai bên cùng có lợi, vừa giúp doanh nghiệp nước ngoài làm quen nhanh chóng hơn
với nền kinh tế trong nước, vừa tạo điều kiện giúp doanh nghiệp trong nước có
những công nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất. Đầu tư theo chiều sâu phải gắn
chặt với chiến lược sản phẩm của doanh nghiệp. Trong cơ chế mới các doanh
nghiệp không những chỉ xác định phương án kinh doanh tối ưu mà còn phải xác
định chiến lược phát triển tổng thể của mình. 
Vấn đề nguồn nhân lực vẫn là vấn đề cần được trọng tâm trong thời gian tới.
Việc nâng cao chất lượng dạy và học giảm dần khoảng cách giữa lý thuyết và thực
tế là vô cùng cần thiết để tránh hiện trạng có cầu mà không có cung như hiện nay.
Tiếp theo phần lớn doanh nghiệp nhà nước và một số doanh nghiệp tư nhân sẽ chia
một phần  một giá trị thặng dư cho các quỹ hoặc nếu không theo mô hình này thì
giá trị thặng dư sẽ được chia để trả công cho người quản lý, cho tái sản xuất và mở
rộng sản xuất, cho chủ doanh nghiệp,.... và một số phần khác.

20
  Bên cạnh sự đổi mới của doanh nghiệp thi nhà nước với vai trò to lớn của mình
cần chú ý một số vấn đề sau: Tiếp tục tiến hành đổi mới cơ chế quản lý ổn định,
môi trường và điều kiện kinh doanh trong nước nhằm khuyến khích đầu tư trong
nước và thu hút đầu tư nước ngoài. Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành
phần kinh tế khai thác tối đa các nguồn lực để nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội,
cải thiện và nâng cao đời sống cho nhân dân.  Thực hiện nhiều hình thức phân
phối, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Giữ vững vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà
nước; phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Thiết
lập các điều kiện và chính sách cần thiết để phát huy tối đa cơ chế thị trường cạnh
tranh như một cơ chế phát triển kinh tế xã hội. Kinh tế nhà nước phải giữ vai trò
chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. 
Những hướng khai thác khi vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác Khai
thác những di sản lý luận trong học thuyết giá trị thặng dư về nền kinh tế hàng hoá.
khai thác những luận điểm của Mác nói về quá trình sản xuất, thực hiện, phân phối
giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản cùng những biện pháp, thủ đoạn nhằm thu
được nhiều giá trị thặng dư của các nhà tư bản để góp phần vào việc quản lý thành
phần kinh tế tư nhân (đặc biệt là kinh tế tư bản tư nhân) trong nền kinh tế nước ta
sao cho vừa có thể khuyến khích phát triển, vừa hướng thành phần kinh tế này đi
vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Khai thác di sản lý luận của Mác nói về quá
trình tổ chức sản xuất và tái sản xuất tư bản chủ nghĩa với tính cách là một nền sản
xuất lớn gắn với quá trình xã hội hóa sản xuất ngày càng cao nhằm tạo ra khối
lượng giá trị thặng dư ngày càng lớn. Bốn là, thu hồi giá trị thặng dư và định hướng
xã hội chủ nghĩa trong điều kiện cho phép bóc lột giá trị thặng dư 
 
C KẾT LUẬN
Có thể nói, điều kiện để giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển thấp, nhưng qua
thời gian sau đổi  mới, áp dụng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
21
đã có rất nhiều chuyển biến tích cực. Chúng ta cần phải vận dụng những phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư trong học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác. Mặc dù
học thuyết giá trị thặng dư - học thuyết về bản chất bóc lột và địa vị lịch sử của chủ
nghĩa tư bản vẫn là cơ sở phương pháp luận để nhận thức đúng chủ nghĩa tư bản
hiện đại nhưng nó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng trong quá trình xây
dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Tuy nhiên Các doanh nghiệp tư
nhân nước ta  không hoàn toàn giống kinh tế tư bản, tư nhân dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa và cũng không hoàn toàn chịu sự chi phối của giá trị thặng dư. Do đó,
việc thừa nhận sự tiến bộ và hợp pháp của kinh tế tư nhân và khuyến khích nó phát
triển là khuyến khích sản xuất ngày càng nhiều giá trị mới trong xã hội, khuyến
khích sự phát triển xã hội, chứ không phải là khuyến khích sự bóc lột. Đó là sự vận
dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác- Lênin trong điều kiện Việt Nam hiện nay. Đồng
thời học tập từ những nước phát triển, các doanh nghiệp của nước ta có thể đẩy
mạnh kích thích sản xuất tăng năng suất lao động xã hội, sử dụng kỹ thuật mới, cải
tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí sản xuất nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
giúp đất nước thoát khỏi tình trạng nước nghèo, vững mạnh  hơn, giàu đẹp hơn.
phát triển kinh tế thị trường nhưng phải bảo vệ được quyền lợi chính đáng của cả
người lao động và các chủ doanh nghiệp bằng luật và bằng chế tài cụ thể phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
Tài liệu tham khảo
1Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nhà xuất bản thống kê
2 C.mác – Ph.Ănghen: Toàn tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia , 1994.
3 V.I.Lênin Toàn tập Nhà xuất bản tiến bộ Maxcơva 1976.

   
 
 
22
 

23

You might also like