You are on page 1of 18

BỘ TÀI CHÍNH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----------

BÀI TIỂU LUẬN NHÓM


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Học kỳ 1 năm học 2021-2022
ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO
ĐỨC CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM MỚI. LIÊN HỆ VỚI VIỆC XÂY DỰNG
CON NGƯỜI MỚI HIỆN NAY CỦA ĐẢNG TA

GVHD: ĐẶNG HỮU SỬU

Lớp Học Phần :

2111702001618

Sinh Viên Thực Hiện :

LÊ ANH PHƯƠNG

NGUYỄN TRẦN NHƯ QUỲNH

NGUYỄN TÂM NHƯ

PHAN NGÂN HÀ

PHAN THỊ THANH TUYỀN

BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN


STT Tên MSSV Mức độ hoàn Công việc thực hiện
thành nhiệm
vụ
1 Lê Anh Phương 202100944 100% Tìm thông tin, tổng hợp
3
2 Nguyễn Trần Như Quỳnh 202100853 100% Tìm thông tin, tổng hợp
7
3 Phan Ngân Hà 202100843 100% Tìm thông tin, tổng hợp
2
4 Nguyễn Tâm Như 202100851 100% Tìm thông tin
5
5 Phan Thị Thanh Tuyền 202100858 100% Tìm thông tin
6
MỤC LỤC
PHẦN I: PHẦN NỘI DUNG..........................................................................................................4
CHƯƠNG I: HỒ CHÍ MINH VÀ NỀN ĐẠO ĐỨC MỚI VIỆT NAM.......................................4
1.1. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.......................................................4
1.1.1. Nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.................................................................................4
1.1.1.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh.........................................................................................4
1.1.1.2. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.....................................................................4
1.1.2. Đạo đức là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong sự nghiệp cách mạng..................................5
1.1.3. Cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam....................................................................5
1.1.4. Vai trò và sức mạnh của đạo đức trong đời sống của con người và xã hội................................6
1.1.5. Phạm vi bao quát tư tưởng Hồ Chí Minh....................................................................................6
1.2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới.................7
1.2.1. Những phẩm chất cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới......................................7
1.2.1.1. Trung với nước, hiếu với dân................................................................................................7
1.2.1.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư..................................................................................8
1.2.1.3. Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa......................................................................8
1.2.1.4. Tinh thần quốc tế trong sáng.................................................................................................9
1.2.2. Nguyên tắc xây dựng chuẩn mực đạo đức mới............................................................................9
1.2.2.1. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.....................................................................9
1.2.2.2. Xây dựng đi đôi với chống...................................................................................................10
1.2.2.3. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời...........................................................................................10
CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VÀ SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY
........................................................................................................................................................10
2.1. Tư tưởng, đạo đức, phong cách đổi mới Hồ Chí Minh........................................................10
2.2. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh soi sáng con đường đổi mới của Đảng và nhân dân ta. .11
3.1. Thực trạng con người Việt Nam hiện nay............................................................................12
3.2. Quan điểm của Đảng về xây dựng con người mới hiện nay................................................13
3.2.1. Nhiệm vụ cụ thể mà Đảng đặt ra................................................................................................13
3.2.2. Kết quả đạt được.........................................................................................................................14
3.2.3. Một số hạn chế, yếu kém............................................................................................................14
3.2.4. Đề xuất giải pháp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.....................................15
PHẦN II: PHẦN KẾT LUẬN......................................................................................................16
PHẦN III: TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................17

PHẦN I: PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNG I: HỒ CHÍ MINH VÀ NỀN ĐẠO ĐỨC MỚI VIỆT NAM
1.1. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.1.1. Nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
1.1.1.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2011) nêu
khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh” như sau: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống (quan
điểm, toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta mãi mãi soi đường
cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.

1.1.1.2. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh


 Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh dũng chiến đấu
trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đoàn kết, sống có tình, có nghĩa, nhân ái Việt
Nam. Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm người,
niềm tự hào và là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con người Việt Nam.
Chính sức mạnh truyền thống ấy đã thúc giục Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đi tìm
đường cứu nước, cứu dân. Đó là động lực chi phối mọi suy nghĩ, hành động của Người trong
suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng. Đó cũng chính là cơ sở tư tưởng đã dẫn dắt Người đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin.
 Tinh hoa văn hoá nhân loại: phương Đông và phương Tây
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của văn hoá phương
Đông. Người cũng đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn
hoá Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư sản phương Tây và cách mạng Trung
Quốc.
Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh được theo học chữ Nho với các thầy vốn là những nhà
Nho yêu nước. Đạo đức Nho giáo thấm vào tư tưởng tình cảm của Người không phải là
những giáo điều “tam cương”, “ngũ thường” nhằm bảo vệ tôn ti trật tự phong kiến, mà tinh
thần “nhân nghĩa”, đạo “tu thân”,…Những mệnh đề “trung hiếu”, “nhân nghĩa”,... của các
nhà hiền triết phương Đông được Hồ Chí Minh hết sức trân trọng. Người cũng đồng thời phê
phán loại bỏ những yếu tố thủ cựu, tiêu cực của nó.
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu tư
tưởng dân chủ tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt là tư tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái, chủ nghĩa Tam
dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc),... Người đã vận dụng và phát triển các trào lưu tư
tưởng học thuyết ấy lên một trình độ mới phù hợp với dân tộc và thời đại mới. Như vậy,
trong quá trình hình thành phát triển tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc
tinh hoa văn hoá phương Đông phương Tây, nâng lên một trình độ mới trên cơ sở phương
pháp luận mácxít - lêninnít.
 Chủ nghĩa Mác - Lênin
Từ khi rời Tổ quốc (1911) cho đến năm 1917, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước thuộc
địa và nhiều nước tư bản đế quốc. Việc Hồ Chí Minh tiếp thu bản Luận cương của Lênin
tháng 7-1920 và trở thành người cộng sản vào cuối năm đó đã tạo nên bước ngoặt căn bản
trong tư tưởng của Người. Thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí
Minh nhìn nhận, đánh giá phân tích tổng kết các học thuyết, tư tưởng, đường lối các cuộc
cách mạng một cách khoa học; cùng với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình để đề ra
con đường cách mạng giải phóng dân tộc đứng đắn.
 Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo của Hồ Chí Minh
Lý luận tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người, do con người sáng tạo ra
trên cơ sở nhận thức các nhân tố khách quan. Ngay từ khi còn trẻ, Hồ Chí Minh đã có hoài
bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu lòng nhân ái và sớm có chí cứu nước, tự tin vào mình. Tư
chất thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới là
những đức tính dễ thấy ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một
hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là
kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể
của nước lao kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại.
 
1.1.2. Đạo đức là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong sự nghiệp cách mạng
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng, từ rất
sớm và xuyên suốt cuộc đời cách mạng của mình.  Trong Di chúc, Người nhấn mạnh: “Đảng
ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân... Đảng cần
phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành
những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Đạo đức còn “có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ thành một xã hội mới
và xây dựng mỹ tục thuần phong”. “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ,
thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…, khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ
vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, không kèn
cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo không hủ hoá”.
1.1.3. Cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam
Hồ Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt
Nam. Từ Hồ Chí Minh, nền đạo đức Việt Nam đã mang bản chất mới và đã được Người gọi
là đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Đạo đức mới đã lật ngược lại các kiểu đạo đức cũ của
các giai cấp thống trị, áp bức bóc lột nhân dân lao động. Đạo đức mới xóa bỏ những chuẩn
mực đạo đức phong kiến vẫn luôn luôn trói buộc nhân dân lao động vào những lễ giáo hủ bại,
phục vụ cho chế độ đẳng cấp tôn ty trật tự hết sức hà khắc của giai cấp phong kiến. Đạo đức
mới hoàn toàn trái ngược với đạo đức cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ cực đoan của giai cấp tư sản.
Nó cũng xa lạ với đạo đức của giai cấp tiểu tư sản, kìm hãm con người trong những lợi ích
riêng tủn mủn, cục bộ, hẹp hòi, cũng như trong vòng gia trưởng nhỏ bé.
Đạo đức mới, đạo đức cách mạng do Hồ Chí Minh đề xướng và cùng với Đảng dày
công xây dựng, bồi đắp là đạo đức mang bản chất của giai cấp công nhân, kết hợp với những
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và những tinh hoa đạo đức của nhân loại. Nền đạo
đức ấy ngày càng phát triển cùng với sự vận động của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trở
thành một bộ phận hết sức quan trọng khắc họa bộ mặt của nền văn hóa Việt Nam. Nó đã trở
thành vũ khí mạnh mẽ của Đảng và của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, vì hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các dân tộc khác trên thế giới.

1.1.4. Vai trò và sức mạnh của đạo đức trong đời sống của con người và xã hội.
Mỗi xã hội hình thành và phát triển đều dựa trên một nền tảng nhất định cả về vật
chất và tinh thần, kinh tế và chính trị, văn hóa và xã hội. Sự phát triển của xã hội Việt Nam
cũng vậy, nó đòi hỏi phải có nền tảng vật chất và tinh thần cho sự phát triển lâu dài, bền
vững, trong đó không thể thiếu lĩnh vực đạo đức. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
được hình thành thông qua vai trò chủ động, tự giác của con người. Do đó, việc hình thành
một nền đạo đức - nền tảng tinh thần cho sự phát triển bền vững của xã hội Việt Nam trong
hiện tại và tương lai, phải có định hướng, phù hợp với thực tiễn phát triển của dân tộc.

Với mỗi người, Đạo đức giúp cho con người luôn giữ được nhân cách, bản lĩnh làm
người trong mọi hoàn cảnh, không dễ bị thay đổi trước những xoay vần, biến thiên của thời
cuộc: Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể
khuất phục. Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc
của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân”.  Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử
thách. Đạo đức thể hiện bản sắc dân tộc trong quan hệ quốc tế, là cơ sở để mở rộng giao lưu
giữa các giá trị văn hóa của dân tộc, quốc gia với các dân tộc, quốc gia khác. Đạo đức góp
phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, qua đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những giá trị đạo đức truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, chứa đựng những hạt nhân hợp lý, chắt lọc từ tinh hoa giá trị đạo đức nhân
loại, phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của Việt Nam, hướng tới những giá
trị mang tầm thời đại. Vì vậy, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức cách mạng theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh chính là nhiệm vụ cấp bách, trước mắt, cũng như lâu dài trong tương lai của đội
ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

1.1.5. Phạm vi bao quát tư tưởng Hồ Chí Minh


Những vấn đề đạo đức đã được Hồ Chí Minh xem xét một cách toàn diện:
 Đối với mọi đối tượng - từ công nhân, nông dân đến trí thức, văn nghệ sĩ; từ các cụ
phụ lão đến phụ nữ, thanh thiếu niên nhi đồng; từ đồng bào các dân tộc đến đồng bào
các tôn giáo, các nhà tu hành... Cùng với việc đề cập đạo đức công dân, Người đặc biệt
quan tâm đến đạo đức của cán bộ, đảng viên. Có thể nói đây là nội dung chiếm phần
chủ yếu nhất trong tư tưởng đạo đức của Người.
 Trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người - từ đời tư đến đời công, như sinh hoạt,
học tập, lao động, chiến đấu lãnh đạo, quản lý...
 Trên mọi phạm vi từ hẹp đến rộng - từ gia đình đến xã hội (làng xóm, phố phường,
một tập thể, một đơn vị, một tổ chức...), từ giai cấp đến dân tộc, từ các vùng - miền,
địa phương đến cả nước, từ quốc gia đến quốc tế.
 Trong cả ba mối quan hệ chủ yếu của mỗi người – đối với mình, đối với người, đối với
việc. Đối với người thì có quan hệ giữa cán bộ, đảng viên của Đảng và Nhà nước với
dân, quan hệ giữa cấp trên - cấp dưới, v.v...

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán
bộ, đảng viên, khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Hai mươi bốn năm trên cương vị Chủ
tịch nước, Người đã kiên trì giáo dục cán bộ, đảng viên về đạo đức mới, đạo đức cách mạng.
Nếu quyền lực là sức mạnh để giữ vững những thành quả cách mạng, để tổ chức và xây dựng
chế độ xã hội mới, để phát triển kinh tế và văn hóa, để biến đất nước từ nghèo nàn, lạc hậu trở
thành giàu mạnh, văn minh, thì quyền lực lại có mặt trái của nó là có thể làm tha hóa con
người nắm quyền lực, có thể đưa đến những tổn thất lớn cho cách mạng. Người đã nhìn thấy
điều này từ rất sớm, không phải chỉ ở trong nước, mà còn ở nhiều nước, kể cả những nước xã
hội chủ nghĩa khác. Nhưng vấn đề về đạo đức mà Người đặt ra với cán bộ, đảng viên chính là
nhằm ngăn chặn, khắc phục những hiện tượng tha hóa có thể hoặc đã xảy ra, nhất là để chống
lại những khuynh hướng sai lệch về quyền lực như quan liêu, cậy thế cậy quyền, lợi dụng
quyền lực, lạm dụng quyền lực, say mê quyền lực, tham quyền cố vị, v.v. , những tệ nạn có
thể trở thành nguy cơ làm sụp đổ sự nghiệp của một người, thậm chí của cả một Đảng Cộng
sản.

1.2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới
1.2.1. Những phẩm chất cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới
1.2.1.1. Trung với nước, hiếu với dân
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng nhất và chi
phối các phẩm chất khác. Trung và hiếu là những khái niệm đạo đức cũ đã có từ lâu trong tư
tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, phản ánh mối quan hệ lớn nhất và
cũng là phẩm chất bao trùm nhất: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”. Phẩm chất này được Hồ
Chí Minh sử dụng với những nội dung mới, rộng lớn: “Trung với nước, hiếu với dân”, đã tạo
nên một cuộc cách mạng sâu sắc trong lĩnh vực đạo đức. 
Tư tưởng “trung với nước, hiếu với dân” của Hồ Chí Minh không những kế thừa giá
trị yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn vượt qua những hạn chế của truyền thống đó.
Trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Hồ Chí Minh cho rằng,
trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Trung với nước là phải yêu nước, tuyệt đối trung
thành với Tổ quốc, suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng, phải làm cho “dân giàu,
nước mạnh” Hiếu với dân là phải thương dân, tin dân, thân dân, học hỏi dân, lấy trí tuệ ở dân,
kính trọng dân, lấy dân làm gốc, “hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.
1.2.1.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng,
đó là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người. Vì vậy, Hồ Chí
Minh đã đề cập phẩm chất này thường xuyên nhất, phản ánh ngay từ cuốn sách Đường cách
mệnh đến bản Di chúc cuối đời.
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” cũng là những khái niệm cũ trong đạo đức
truyền thống dân tộc, được Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội dung không phù hợp và đưa vào
những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
“Cần tức là siêng năng; chăm chỉ, cố gắng dẻo dai”. “Muốn cho chữ cần có nhiều
kết quả hơn, thì phải có kế hoạch chữ mọi công việc”. Cần tức là lao động cần cù siêng năng;
lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh,
không lười biếng... Phải thấy rõ, "Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn
hạnh phúc của chúng ta”.
“Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”. Kiệm tức là tiết
kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình;
không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù. “Tiết kiệm không phải là bủn
xỉn. 
Liêm ‘là trong sạch, không tham lam”; là liêm khiết, “luôn luôn tôn trọng giữ gìn
của công, của dân”, “Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung
sướng. Không ham người tâng bốc mình. “Chữ Liêm phải đi đối với chữ Kiệm. Cũng như
chữ Kiệm phải đi với chữ cần. Có Kiệm mới Liêm được”.
“Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn,
thẳng thắn, tức là tà”. Được thể hiện rõ trong ba mối quan hệ; “Đối với mình - Chớ tự kiêu, tự
đại”.
Hồ Chí Minh cho rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với
nhau, ai cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là người thực hành trước để làm
kiểu mẫu cho dân. Người thường nhắc nhở cán bộ, công chức, những người trong các công sở
đều có nhiều hoặc ít quyền hạn. 
Chí công vô tư là hoàn toàn vì lợi ích chung, không vì tư lợi; là hết sức công bằng,
không chút thiên tự, thiên vị, công tâm, luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân, của dân tộc
lên trên hết, trước hết; chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc
Để trở thành người có phẩm chất đạo đức tốt, phải hội đủ các yếu tố cần, kiệm, liêm
chính. Hồ Chí Minh coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cơ bản của con người. 
1.2.1.3. Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng
sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại, cùng với việc thể hiện nghiêm chính bản thân
mình qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình thương yêu con người là một
những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Theo Hồ Chí Minh, tình yêu thương con người là tình cảm nhân ái sâu sắc, rộng
lớn, trước hết dành cho những người nghèo khổ, những người bị mất quyền, những người bị
áp bức, bị bóc lột không phân biệt màu da, dân tộc. Người cho rằng, nếu không có tình yêu
thương như vậy thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản.
Tình thương người, yêu đồng loại, yêu đồng bào, yêu đất nước mình là tư tưởng
lớn, là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh, Người đã thể hiện qua câu “làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành”. Đây là yếu tố cốt lõi đầu tiên tạo nên nền tảng tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh. Đó cũng là lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức và là lý tưởng nhân văn của
Người.
1.2.1.4. Tinh thần quốc tế trong sáng
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức cộng
sản chủ nghĩa. Điều này được bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân, nhằm vào mối
quan hệ rộng lớn vượt ra khỏi giới hạn quốc gia dân tộc.
Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu sắc. Đó
là sự tôn trọng, hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản toàn thế giới, với các
dân tộc bị áp bức, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến bộ trên
toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hận thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc; chống lại
chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền, Hồ Chí Minh nêu cao
tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, nhưng luôn luôn kêu gọi phải tăng cường đoàn kết
và hợp tác quốc tế, đồng thời phải ra sức ủng hộ và giúp đỡ đổi với các cuộc đấu tranh của
nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đoàn kết quốc tế
của Hồ Chí Minh theo tinh thần quốc tế trong sáng.
1.2.2. Nguyên tắc xây dựng chuẩn mực đạo đức mới
1.2.2.1. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Nói đi đôi với làm là nét đẹp trong đạo đức truyền thống của dân tộc được Hồ Chí
Minh nâng lên một tầm cao mới. Người coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây
dựng nền đạo đức mới. Nguyên tắc cơ bản này là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nó
đã trở thành phương pháp luận trong cuộc sống và là nền tảng triết lý sống hết sức bình dị mà
vô cùng sâu sắc của Người. 
Theo Hồ Chí Minh, hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, trong việc xây dựng một nền
đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng “đạo làm gương” Đối với cán bộ,
đảng viên, Người nêu luận điểm quan trọng: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết
lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư
cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Người nói; “Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong
những cách tốt nhất để xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. Như vậy, một nền đạo đức
mới chỉ được xây dựng trên một cái nền rộng lớn, vững chắc, khi những chuẩn mực đạo đức
trở thành hành vi đạo đức hằng ngày của mỗi người và của toàn xã hội.
1.2.2.2. Xây dựng đi đôi với chống
Hồ Chí Minh cho rằng, nguyên tắc xây đi đôi với chống là đòi hỏi của nền đạo đức
mới, thể hiện tính nhân đạo chiến đấu vì mục tiêu của sự nghiệp cách mạng; xây tức là xây
dựng các giá trị, các chuẩn mực đạo đức mới; chống là chống các biểu hiện, các hành vi vô
đạo đức, suy thoái đạo đức. Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ
giữa xây và chống. Trong đời sống hằng ngày, những hiện tượng tốt - xấu, đúng - sai, cái đạo
đức và cái vô đạo đức thường đan xen nhau, đối chọi nhau thông qua hành vi của những con
người khác nhau, thậm chí trong mỗi con người
Xây dựng đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên và hàng triệu, hàng triệu con người,
trước tiên phải chăm lo bồi dưỡng những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức mới ngay từ trong
gia đình, đến nhà trường và xã hội. Nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn là chủ nghĩa cá nhân.
Trong bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (1969), Người viết:
“do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm... Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân,
nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết tính tổ chức và
tính kỷ luật”. 
1.2.2.3. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Theo Hồ Chí Minh, tu dưỡng đạo đức như một cuộc cách mạng trường kỳ, gian
khổ. Một nền đạo đức mới có thể xây dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi
người. Đạo đức cách mạng thể hiện trong hành động của người Việt Nam yêu nước vì độc lập
tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong hành động, đạo đức cách mạng mới
bộc lộ rõ những giá trị của nó. Từ thực tiễn, Người tổng kết sâu sắc: “Đạo đức cách mạng
không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và
củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Do vậy Hồ Chí
Minh đòi hỏi mọi người phải thường xuyên được giáo dục và tư giáo dục về mặt đạo đức.
CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VÀ SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY
2.1. Tư tưởng, đạo đức, phong cách đổi mới Hồ Chí Minh
Thuật ngữ và tư tưởng “đổi mới” được Hồ Chí Minh đề cập từ sớm trong tác phẩm
“Đường kách mệnh” (1927), sau đó được Người nhắc lại, làm rõ thêm trong nhiều bài viết,
bài nói, nổi bật là: “Sửa đổi lối làm việc” (1947), “Đời sống mới” (1947), “Dân vận” (1949),
đặc biệt trong bản “Di chúc” thiêng liêng (1965 - 1969) để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước
lúc Người đi xa. Từ các các bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh toát lên một hệ thống luận
điểm có giá trị nền tảng và định hướng về đổi mới. Trước hết, theo Hồ Chí Minh, đổi mới là
bản chất của cách mạng, của phát triển. Thứ hai, triết lý đổi mới, chân lý đổi mới trong tư
tưởng Hồ Chí Minh là ích nước, lợi dân. Thứ ba, đổi mới là sự nghiệp lâu dài, phức tạp, gian
khổ, phải kiên định, kiên quyết, kiên trì, lựa chọn những bước đi thích hợp. Thứ tư, theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, đổi mới không phải là phủ định sạch trơn, mà là sự kế thừa và phát triển;
cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ, cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho
hợp lý, cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm, cái gì mới mà hay thì phải làm. Thứ năm, sức
mạnh của đổi mới là nhân dân. Thứ sáu, Đảng là linh hồn của đổi mới. Đảng phải vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, căn cứ vào thực tiễn của Việt Nam và thế giới, bổ sung
những tư liệu, vấn đề mà các nhà kinh điển “ở thời mình không thể có được” để đề ra và thực
hiện đường lối, chủ trương đúng đắn.

2.2. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh soi sáng con đường đổi mới của Đảng và nhân
dân ta
Kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp của Người, trong công cuộc đổi mới hiện
nay, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; nhân dân ta ngày
càng ấm no, hạnh phúc, Ðảng ta ngày càng trưởng thành vững mạnh. Thắng lợi đó mang đến
cho chúng ta niềm phấn khởi, tự hào và tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của
Ðảng ta, nhân tố quyết định nhất đối với những thành tựu mà đất nước ta, nhân dân ta đạt
được trên mỗi chặng đường cách mạng. Từ thực tiễn cách mạng nước ta hơn 90 năm qua, từ
những thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta kể từ khi có Ðảng đã cho thấy rằng: tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh luôn là chỉ dẫn quý báu giúp toàn Ðảng, toàn quân và toàn dân ta
vượt qua mọi khó khăn, thách thức. Ðẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh là một nội dung lớn, quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn
Ðảng trong sạch, vững mạnh toàn diện của nhiệm kỳ Ðại hội XII và xây dựng Ðảng về đạo
đức trở thành phương châm quan trọng để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng,
đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lợi ích nhóm, tự diễn biến, tự chuyển hóa; củng
cố niềm tin của nhân dân đối với Ðảng. Ðiều này đang được Ðảng ta thực hiện quyết liệt,
được đông đảo nhân dân tin tưởng, đồng tình và ủng hộ, nhất là trong bối cảnh toàn Ðảng,
toàn quân và toàn dân ta đang tiến hành tổ chức đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Ðại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Ðảng.

Ðược tiến hành vào thời điểm đất nước ta trải qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi
mới, 30 năm tiến hành Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, trong đó có 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) năm 2011, 10 năm thực
hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Ðại hội lần thứ XIII của Ðảng ta là dấu
mốc quan trọng, có ý nghĩa định hướng tương lai, mang khát vọng và tầm nhìn đưa nước ta
trở thành một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ. Trước vận
hội mới, cơ đồ mới của đất nước và dân tộc, chúng ta càng thấm nhuần sâu sắc những di huấn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc vận dụng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, về
cách học tập “tinh thần xử trí mọi việc”, quán triệt sâu sắc “chân lý phổ biến” của chủ nghĩa
Mác - Lênin; bám sát nguyên tắc: kế thừa và phát triển, kiên định và đổi mới, kết hợp nhuần
nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới, đáp ứng đòi hỏi
khách quan của đất nước, phù hợp với xu thế của thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới của Ðảng, toàn
Ðảng, toàn quân và toàn dân ta đoàn kết một lòng, với quyết tâm, ý chí và khát vọng để lập
nên kỳ tích phát triển Việt Nam, nhất định chúng ta sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, sánh vai với các cường quốc năm
châu như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn.
CHƯƠNG 3: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA VỀ VẤN ĐỀ
XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI
3.1. Thực trạng con người Việt Nam hiện nay
Hiện nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, trước làn sóng toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế, con người Việt Nam đang khát khao cống hiến nhằm đưa đất
nước tiến nhanh và bền vững. Việt Nam đã thấu chịu thử thách qua nỗi nhục bị nước ngoài đô
hộ hàng nghìn, hàng chục năm, nay nỗi nhục nghèo nàn và lạc hậu đang chích vào tâm trí của
con người Việt Nam nói chung, cứa vào lòng tự trọng của người Việt Nam. Chưa bao giờ ý
chí vươn lên thoát khỏi tình trạng kém phát triển lại mạnh như bây giờ trong con người Việt
Nam. Những thành tựu về kinh tế, kĩ thuật, công nghệ những năm qua là biểu hiện rõ nét nhất
cho những nỗ lực không ngừng của con người Việt Nam trên đà đưa đất nước ngày một phát
triển. Hơn thế nũa, người Việt đang cố gắng khắc phục những biểu hiện của nếp sống cũ: tác
phong lề mề, thủ công, trì trệ, làm ăn nhỏ, manh mún,… xây dựng các giá trị mới như trọng
lý, trọng khoa học, trọng hiệu quả, đề cao tự do cá nhân. Dù vậy, chúng ta vẫn không quên
trách nhiệm gìn giữ những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, lòng yêu nước nồng nàn
như “sợi chỉ đỏ” gắn kết huyết mạch của dân tộc vẫn được giữ vẹn nguyên không đổi, tinh
thần đoàn kết, đồng lòng vì dân vì nước ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn. Minh chứng rõ ràng
nhất là trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đang diễn ra ngày càng phức tạp, chúng ta từ bộ máy
Nhà nước đến quần chúng nhân dân vẫn luôn hỗ trợ nhau hết mức có thể, cùng nhau cố gắng
chống chọi vượt qua dịch bệnh. 
Song song với những mặt tích cực, chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng, do ảnh hưởng
từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng như xu thế toàn cầu hóa, con người nói
chung đang có xu hướng trượt dài về đạo đức. Đạo đức có mặt biểu hiện rất cơ bản là thông
qua sự hành xử của chính con người. Sự xuống cấp của đạo đức xã hội được các tác giả,
phóng viên, nhà báo, các phương tiện truyền thông và nhiều bài phát biểu của các Đại biểu
Quốc Hội đã nêu: “Đạo đức xuống cấp ở mức đáng báo động!”, “Thực trạng xuống cấp của
văn hóa, đạo đức xã hội đã ở mức nguy hiểm”,... khi mà ứng xử giữa người với người, ngay
cả trong một gia đình được tính bằng mạng sống, khi mà giá trị vật chất được đặt lên trên cả
tình người và huyết thống. Cụ thể, những biểu hiện chưa từng có trong xã hội trước đây của
chúng ta giờ đây xuất hiện với tần suất thường xuyên và liên tục. Nghe những thông tin báo
đài đăng tải về vụ giết cha mẹ, anh chị em để cướp tài sản hay sẵn sàng kết thúc sinh mệnh
của người khác chỉ vì xích mích trong lời ăn tiếng nói hằng ngày khiến chúng ta không khỏi
hoang mang về mức độ xuống cấp của đạo đức trong xã hội hiện tại. Điều này ảnh hưởng
trực tiếp đến sự tồn vong của đất nước, của Đảng ta, của chế độ XHCN mà Đảng và nhân dân
ta đang dốc sức, dốc lòng để xây dựng. Từ xưa đến nay, người Việt vẫn coi trọng đức tính
cần cù, tiết kiệm, vì nó góp phần ổn định đời sống kinh tế gia đình, xã hội trong điều kiện đất
nước còn khó khăn, rèn luyện cách sống biết quý trọng sức lao động, chống lối sống xa hoa,
lãng phí. Nhưng trong những năm gần đây, do điều kiện kinh tế của người dân được cải thiện,
thậm chí đồng tiền kiếm được một cách quá nhanh chóng, dễ dàng, dẫn đến xu hướng hưởng
thụ, sống gấp, lười lao động, tìm mọi cách để kiếm tiền phục vụ nhu cầu ăn chơi, hưởng thụ,
kể cả vi phạm đạo đức và pháp luật. Trầm trọng hơn, hiện tượng tham nhũng, tiêu “tiền chùa”
đang trở thành quốc nạn của nhiều nước, và Việt Nam cũng nằm trong số đó.

3.2. Quan điểm của Đảng về xây dựng con người mới hiện nay.
Tư tưởng xuyên suốt về chăm lo xây dựng con người của Đảng ta là đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân
tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách.
3.2.1. Nhiệm vụ cụ thể mà Đảng đặt ra
Một là, “bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và
nhân cách”. Đây là tư tưởng xuyên suốt trong chăm lo xây dựng con người. Lấy tinh thần yêu
nước, lòng tự hào dân tộc là giá trị cơ bản, cốt lõi đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong nước
và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy chuẩn mực đạo đức, lối sống và nhân cách
làm thước đo đánh giá con người trong quan hệ ứng xử với tự nhiên, xã hội, hướng tới giá trị
nhân văn.
Hai là, “xây dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện -
mỹ”. Sống trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập sâu rộng quốc tế, đang diễn
ra cuộc cách mạng 4.0, đòi hỏi mỗi con người Việt Nam phải có thế giới quan khoa học trong
nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng và xử lý các vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra. Vấn đề
cốt lõi của thế giới quan khoa học là tư tưởng. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, trang bị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức và cải
tạo thế giới.
Ba là, “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Đây là nhiệm vụ có tính cấp thiết và thời sự
đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Đảng đòi hỏi các nhà quản lý, giới khoa
học nghiên cứu toàn diện, sâu sắc con người Việt Nam trong lịch sử và hiện nay, đúc rút nêu
ra một hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam, làm cơ sở pháp lý trong tổ chức thực hiện và
hướng đích xây dựng con người phát triển toàn diện.
Bốn là, “Xây dựng và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì
mỗi người”; hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật, bảo vệ môi trường”. Đây là lối sống thể hiện bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, thể hiện mối quan hệ “cái chung” và “cái riêng”, đặt “cái ta” lên trên “cái tôi”, đề cao
trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội. Từ đó, Đảng khẳng định trong xây
dựng con người phải: “Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân
rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn”.
Năm là, xét đến cùng, văn hóa là nghệ thuật của cái đẹp, mọi hoạt động của văn hóa
đều vận động theo quy luật của cái đẹp. Muốn hiểu đúng cái đẹp cần phải giáo dục để mọi
người dân nhận biết đúng đắn chuẩn mực, giá trị của cái đẹp. Đảng đề ra nhiệm vụ: “Tăng
cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt là
thanh niên, thiếu niên”.
Sáu là, xây dựng con người phát triển toàn diện, quy lại trong bốn giá trị cốt lõi là
Trí - Đức - Thể - Mỹ. Thực tiễn cho thấy thể lực, tầm vóc, sức dẻo dai của con người Việt
Nam còn hạn chế. Do vậy, Đảng chủ trương: “Nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt
Nam, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Bảy là, xây đi đôi với chống. Xây dựng phẩm chất tốt đẹp, nhân cách nhân ái, cao
thượng, bao dung, thân thiện của người Việt Nam đồng thời với đấu tranh với mọi biểu hiện
cản trở, làm tha hóa nhân cách, lối sống tốt đẹp của con người. Đảng đề ra nhiệm vụ: “Đấu
tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai
trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người. Có giải pháp
khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam”.
3.2.2. Kết quả đạt được
Đảng ta đã ban hành một số văn bản góp phần cụ thể hóa chủ trương xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và đạt được những
kết quả như:
Một, hệ thống chính trị và các tầng lớp xã hội đã chủ động hơn trong việc giáo dục
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan khoa học, cách
mạng, nhân văn, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.
Hai, bước đầu tạo được sự gắn kết phát triển văn hóa với xây dựng con người, lấy
việc chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp làm trọng tâm.
Ba, tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tính tích cực xã hội của nhân dân được
phát huy. Con người Việt Nam luôn đổi mới tư duy, năng động, sáng tạo hơn, có nhiều cơ hội
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Các giá trị đạo đức truyền thống được giữ gìn, phát huy
và thay đổi theo hướng phù hợp với nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Hình thành nếp
sống văn minh, tác phong công nghiệp, tính chuyên nghiệp, thiết thực, hiệu quả.
Bốn, công tác phòng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, suy thoái tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ cán bộ, đảng viên, nhân dân có chuyển biến, góp
phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tạo môi trường văn hóa, xã hội lành
mạnh.
3.2.3. Một số hạn chế, yếu kém
Có thể thẳng thắn nhìn nhận, công tác tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển con
người của Đảng chưa đều khắp các lĩnh vực, vùng miền. Nhận thức chung của xã hội về vai
trò, vị trí của con người còn chung chung. Quan điểm xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo
xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp chưa được triển khai mạnh mẽ. 
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên, chưa thực sự được đẩy lùi. Ở một số nơi, vẫn còn tình trạng kẻ xấu lợi dụng sự
ngộ nhận về lòng yêu nước của một bộ phận người dân phục vụ mục đích chống phá chế độ. 
Hệ giá trị chuẩn mực văn hóa và con người Việt Nam làm cơ sở triển khai trong
thực tiễn chưa được ban hành. Một bộ phận cán bộ, nhân dân có tâm lý sính ngoại, tiêu dùng
sản phẩm văn hóa cũng như tiếp nhận lối sống thiếu chọn lọc, ảnh hưởng đến giữ gìn truyền
thống văn hóa dân tộc và xây dựng con người trước thách thức toàn cầu hóa. 
Sự phối hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội trong giáo dục con người chưa
thường xuyên. Công tác giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực thẩm mỹ trong các tầng lớp
nhân dân chưa được coi trọng. Nhiều hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa công cộng bị
“thương mại hóa”, hạ thấp tính giáo dục, chiều theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận
người dân, gây hậu quả xấu trong xây dựng con người. Công tác xã hội hóa xây dựng con
người chưa động viên tối đa. 
Cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, tiêu cực xã hội chưa thường xuyên,
liên tục. Một số nơi còn coi nhẹ việc đấu tranh, phòng chống các biểu hiện suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa, ảnh
hưởng đến nhiệm vụ xây dựng con người. 
3.2.4. Đề xuất giải pháp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng
viên, nhân dân về vị trí, vai trò của con người trong sự nghiệp đổi mới và phát triển bền vững
đất nước. Cổ vũ tinh thần yêu nước, thương người, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. 
Thứ hai, đổi mới công tác tư tưởng, giáo dục lý luận chính trị, khắc phục giáo điều,
máy móc, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, tôn trọng đối thoại, phản biện xã hội, tăng tính thuyết
phục từ kết quả đổi mới đất nước, tạo sự nhất trí trong Đảng, đồng thuận xã hội về chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng
thế giới quan khoa học. 
Thứ ba, tiếp tục rà soát, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tạo cơ sở pháp lý
giải phóng mọi tiềm năng xã hội chăm lo, phát triển con người. Đổi mới cơ chế và phương
pháp giáo dục nhân cách, tư tưởng, lý luận chính trị, đạo đức cách mạng phù hợp với từng đối
tượng, ngay từ cấp học mầm non.
Thứ tư, phổ cập rộng rãi các tác phẩm văn học, nghệ thuật, các chương trình giáo
dục văn hóa, nghệ thuật truyền thống và hiện đại nhằm nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ,
bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm nhân văn, tạo bản lĩnh và sức đề kháng giúp người dân chủ
động hội nhập quốc tế về văn hóa, bảo vệ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. 
Thứ năm, phát huy vai trò, trách nhiệm của mỗi người, mỗi chủ thể văn hóa, phối
hợp và có giải pháp đồng bộ đấu tranh loại trừ các sản phẩm văn hóa độc hại, nội dung trái
thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh hưởng xấu đến xây dựng con người. 
Thứ sáu, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, các khuynh hướng sáng tác phản
tiến bộ, nhân văn, tha hóa con người trong lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật. 
Thứ bảy, tập trung nghiên cứu làm rõ những mặt hạn chế của con người Việt Nam,
có giải pháp khắc phục. Từng bước khắc phục mâu thuẫn trong nhận thức, lối sống giữa các
thế hệ người Việt Nam, tạo sự kết nối, đồng thuận cao trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

PHẦN II: PHẦN KẾT LUẬN

Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực của nền đạo đức cách mạng Việt Nam là nền
tảng và là sức mạnh của người cách mạng, đó cũng là cái gốc cho sự phát triển về sau. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã sớm nhận ra sự nguy hiểm của bệnh "cá nhân",
đó là nguyên nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các chế độ trong
đời sống. Bởi vì thế, cuộc sống đang đòi hỏi phải chứng minh làm trong sạch Đảng và làm
lành mạnh đời sống đạo đức của xã hội. Hai mặt đó phải tiến hành song song. Phải khắc phục
các nguyên nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực. Bên cạnh đó, càng phải khắc phục nguyên nhân đã
để cho các tệ nạn tiêu cực phát triển. Trong cuộc đấu tranh này, phải lấy việc xây dựng Đảng
làm nhiệm vụ then chốt, như đã được nêu ra trong nhiều nghị quyết của Đảng.

Chúng ta càng thấm thía lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc Người để
lại cho toàn Đảng, toàn dân: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ
gìn “Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân”.

Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất
nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, bên cạnh việc xây dựng những phẩm chất đạo
đức. Trung với nước, hiếu với dân, thương người, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, tinh
thần quốc tế trong sáng nêu trong di sản của Người, chúng ta còn phải đấu tranh quyết liệt
chống các tệ nạn xã hội nảy sinh trong nền kinh tế thị trường đang làm phương hại đến nền
đạo đức cách mạng.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn còn giữ nguyên tính thời sự, soi sáng cho Đảng
và nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp vẻ vang, xây dựng nền đạo đức Việt Nam ngang tầm với
những yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.

PHẦN III: TÀI LIỆU THAM KHẢO


Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. (2015). Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển
tư tưởng Hồ Chí Minh. Lấy từ https://hochiminh.vn/tu-tuong-dao-duc-ho-chi-minh/nguon-
goc-hinh-thanh/nguon-goc-qua-trinh-hinh-thanh-va-phat-trien-tu-tuong-ho-chi-minh-21
[Truy cập: 12/11/2021]

Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình (2019). Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển
tư tưởng Hồ Chí Minh. Lấy từ https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/nguon-goc-qua-trinh-
hinh-thanh-va-phat-trien-tu-tuong-ho-chi-minh*.htm [Truy cập 10/11/2021]

Chiến, N. H. (2020). Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường cách mạng Việt Nam. Lấy
từ https://www.sggp.org.vn/tu-tuong-ho-chi-minh-soi-sang-con-duong-cach-mang-viet-nam-
662853.html [Truy cập: 10/11/2021]

Tuổi trẻ đại học Đà Nẵng (2017). “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư”. Lấy từ https://tuoitredhdn.udn.vn/chu-tich-ho-chi-minh/tu-
tuong-ho-chi-minh/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-dao-duc-cach-mang-can-kiem-liem-chinh-chi-
cong-vo-tu-930.html [Truy cập: 13/11/2021].

Thắng, M. Q., Anh, P. N., Bảo, N. Q., Chín. D. T., Khánh, L. Q., Phong, B. Đ., Tám, L. V.,
Thắng, N. T., Thìn, N. Đ., & Tình, V. (2019). Giáo Trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh. Hà Nội,
Việt Nam.
Thắng, M. Q. (2018). Một số vấn đề về xây dựng con người Việt Nam. Lấy từ
https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/mot-so-van-de-ve-xay-dung-con-nguoi-viet-nam-
116225 [Truy cập: 12/11/2021].

Thức, N. H. (2020). Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững. Lấy từ https://tuyengiao.vn/van-hoa-xa-hoi/van-hoa/xay-dung-con-nguoi-
viet-nam-phat-trien-toan-dien-dap-ung-yeu-cau-phat-trien-ben-vung-129021 [Truy cập:
12/11/2021].

You might also like