You are on page 1of 23

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN


________ TIỂU LUẬN CUỐI KÌ ______

CON NGƢỜI DƢỚI GÓC NHÌN CỦA TRIẾT HỌC


VÀ VẤN ĐỀ CON NGƢỜI TRONG QUÁ TRÌNH
ĐỔI MỚI HIỆN NAY

GVHD: TS. Nguyễn Thị Quyết


Nhóm thực hiện: Nhóm 03
Mã môn học: LLCT130105_21_1_63

TP.Hồ Chí Minh, tháng 1 năm 2021


DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ I, NĂM HỌC 2021-2022
Nhóm 03

TỶ LỆ %
STT HỌ TÊN MSSV HOÀN THÀNH
1 Huỳnh Thanh Huy 21132068 100%
2 Nguyễn Đoàn Anh Kha 21151250 100%
3 Phạm Thùy Linh 21132103 100%
4 Đặng Tiến Phát 21132157 100%
5 Nguyễn Hà Thiên Thư 21132221 100%
6 Nguyễn Phúc Toàn 21132232 100%

Ghi chú: - Tỉ lệ % = 100%


- Trưởng nhóm: Nguyễn Phúc Toàn.

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN


............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
............................................................................................................
Điểm: ....................................................................................................
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 1, năm 2022

Kí tên

TS. Nguyễn Thị Quyết


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1

1.1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu............................................................................................. 2

1.3. Phƣơng pháp nghiên cứu..................................................................................... 2

CHƢƠNG 1: VẤN ĐỀ CON NGƢỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN............ 2

1.1. Khái niệm về con ngƣời ....................................................................................... 2

1.2. Bản chất con ngƣời............................................................................................... 5

CHƢƠNG 2: VẤN ĐỀ CON NGƢỜI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT


NAM .................................................................................................................................. 8

2.1. Quan điểm của Đảng về vấn đề con ngƣời trong sự nghiệp đổi mới............... 8

2.2. Vai trò của con ngƣời trong sự nghiệp đổi mới ................................................. 10

2.3. Giải pháp phát triển con ngƣời trong sự nghiệp đổi mới ................................. 14

KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 19

TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................... 20


CON NGƢỜI DƢỚI GÓC NHÌN CỦA TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ
CON NGƢỜI TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI HIỆN NAY
LỜI MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài

Con người là một khách thể hết sức phong phú được rất nhiều ngành khoa học
nghiên cứu như sinh vật học, nhân chủng học, tâm lý học, xã hội học, y học, triết
học,… Mỗi khoa học có cách tiếp cận và phương pháp giải quyết khác nhau về vần đề
con người. Các khoa học cụ thể nhận thức con người ở những mặt, những khía cạnh
riêng biệt, cụ thể.

Triết học, với đặc trưng trừu tượng hóa, khái quát hóa các tri thức khoa học cụ thể
về con người về mặt thế giới quan, hệ tư tưởng, lối sống,… Triết học bao giờ cũng
phải giải đáp những vấn đề chung nhất của con người như: Bản chất của con người?
Vị thế của con người như thế nào trong thế giới? Tự nhiên và lịch sử hoạt động phát
triển của con người? Ý nghĩa cuộc sống của con người là gì? Thực chất, đó là sự phản
tư, là đặc trưng của tư duy triết học. Con người lấy chính bản thân mình làm đối tượng
nhận thức. Và triết học Mác Lênin ra đời đã khắc phục tính chất trừu tượng, duy tâm,
siêu hình trong quan niệm bản chất con người với cách tiếp cận mới. Từ tiếp cận con
người hiện thực, triết học Mác Lênin đã chỉ ra rằng con người là một chỉnh thể sinh vật
– xã hội, là thực thể song trùng tự nhiên – xã hội.

Vì vậy nghiên cứu triết học Mác Lênin là tìm hiểu về bản chất con người. Để từ
đó, con người có thể tìm được hướng phát triển đúng đắn cho chính mình và cả thế hệ
mai sau, góp phần phát triển đất nước, xã hội. Thực tế đã chứng tỏ rằng nếu không chú
trọng nâng cao con người một cách toàn diện thì Việt Nam chưa thể thoát khỏi sự
nghèo nàn, lạc hậu và đi lên phát triển bền vững. Nhận thức được tầm quan trọng của
con người với sự phát triển của quốc gia, chúng em đã chọn đề tài tiểu luận: “Con
người dưới góc nhìn của triết học và vấn đề con người trong quá trình đổi mới hiện
nay”.

1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu

Làm rõ quan điểm của triết học Mác-Lênin về con người đồng thời liên hệ với quá
trình phát triển con người ở Việt Nam hiện nay. Qua đó vận dụng toàn bộ những kiến
thức cơ bản đã đạt được ở trên để giải quyết một vấn đề cụ thể của thực tiễn, rút ra cho
bản thân nói riêng và con người hiện đại nói chung.

1.3. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp tìm kiếm, tham khảo, phân tích, tổng hợp.
- Thông qua giáo trình Triết học Mác-Lênin và tham khảo những tài liệu khác liên
quan đến đề tài.

CHƢƠNG 1
VẤN ĐỀ CON NGƢỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
1.1. Khái niệm con ngƣời

 Quan niệm con người theo phương Đông

Con người là một trong những vấn đề được nhân loại đề cập ra rất sớm. Bằng
những phương diện khác nhau mà các trường phái triết học đã đưa ra các nhận định,
giải thích khác nhau về con người.

Ngay từ thời cổ đại, thì các nước phương đông, tiêu biểu như: Trung Quốc, Ấn Độ
đã nhận định được: “Con người được xem như là một vũ trụ thu nhỏ.”. Họ đã tập
trung làm rõ mối quan hệ của con người với thế giới xung quanh, mối quan hệ của con
người với con người hay mối quan hệ giữa con người với chính bản thân mình. Nó đã
trở thành một phần trong văn hóa ứng xử, cũng như truyền thống của con người
phương Đông.

Trong suốt hàng ngàn năm lịch sử của Trung Hoa, thì các trường phái triết học đã
tiếp cận và đưa ra các kết luận về bản tính con người dựa trên từng góc độ khác nhau,
chính điều đó đã là tiền đề dẫn đến những quan điểm khác nhau của các trường phái
triết học sau này trong việc giải quyết các vấn đề về quan điểm chính trị, đạo đức và

2
nhân sinh của họ. Ta có thể thấy được trong quá khứ, chính vì Nho gia và Pháp gia đã
tiếp cận dựa trên các hoạt động thực tiễn chính trị và đạo đức xã hội nên đã đi đến kết
luận là bản tính con người là Thiện (Nho gia) và Bất Thiện (Pháp gia). Hay cũng vì
tiếp cận từ góc độ khác mà Đạo gia ngay từ Lão tử thời Xuân Thu, đã đi đến kết luận:
Bản tính con người là bản tính tự nhiên,...

Khác với Trung Hoa, các trường triết học tại Ấn Độ lại kết luận bản tính con người
dựa trên góc độ khác. Đáng nói đến, chính là Phật giáo, bằng cách tiếp cận dựa trên
góc độ suy tư về con người ở tầm siêu triết lý siêu hình, họ đã kết luận rằng: Bản tính
con người là vô ngã, vô thường và tính hướng thiện của con người trên con đường truy
tìm sự giác ngộ là một trong những kết luận độc đáo của triết học Đạo Phật.

 Quan niệm con người theo phương Tây

Trong suốt chiều dài lịch sử của phương Tây thì vấn đề con người luôn là vấn đề
gây tranh cãi nhức nhối.

Vào thời Hy Lạp Cổ Đại thì các triết gia đã đưa ra những nhận định về giá trị của
con người. Cụ thể như sau: Prôtago (481 – 411 TCN) đã nói : “Người ta là thước đo
của mọi vật.”. Nhà tư tưởng vĩ đại nhất của mọi thời đại Arixtôt (384 – 322 TCN)
phân biệt con người khác với con vật ở chỗ, con người là “động vật chính trị”.

Thời kì đêm trường Trung Cổ (từ thế kỷ V đến thế kỷ XIV), thì triết học chính là
nô lệ của thần học, do triết học bị trói buộc bởi những quan niệm hà khắc của cường
quyền, chuyên chế vua chúa và giáo hội.

Thời Phục Hưng (Thế kỷ XV – XVI) đã làm sống lại những giá trị, những tư
tưởng tích cực về con người. Đây là thời kỳ phát triển tư tưởng nhân đạo và chủ nghĩa
nhân văn, là thời kỳ đấu tranh giải phóng cá nhân khỏi xiềng xích của thần quyền và
phong kiến. Tuy nhiên, triết học thời kỳ này đề cập vấn đề con người chủ yếu từ
phương diện cá thể.

Vào thời kì Tây Âu Cận Đại (Thế kỉ XVI – XVIII), sức mạnh trí tuệ của con người
đã được các nhà triết học ngày càng đề cao. Tiêu biểu là nhà duy lý vĩ đại R.Đêcactơ

3
(1596 – 1635), đã nêu lên một mệnh đề nổi tiếng: “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại.” là điểm
xuất phát cho hệ thống triết học của mình, luận đề này có ý nghĩa tích cực to lớn là cổ
vũ sự phát triển của các khoa học lí thuyết và mở ra một thời đại mới của triết học.
Lênin đã từng nhận xét rằng: “Chủ nghĩa duy tâm thông minh gần với chủ nghĩa duy
vật thông minh hơn chủ nghĩa duy vật ngu xuẩn.” Chủ nghĩa duy tâm biện chứng thay
cho chủ nghĩa duy tâm thông minh; siêu hình, không phát triển, chết cứng, thô bạo,
bất động thay cho ngu xuẩn.”. Nhận xét này giúp ta đánh giá đúng đắn hơn cái hạt
nhân hợp lí của triết học đã coi trọng vấn đề con người.

Khi đến với thế kỷ Ánh sáng thì những vấn đề về con người khá phong phú và đạt
được những bước tiến vô cùng quan trọng, trở thành nền tảng, cơ sở khoa học nghiên
cứu về con người sau này, chúng ta có thể nhắc đến: Lí thuyết “thực thể” của Spinôza,
trong lí thuyết “đơn tử” của Lépnít, trong lí thuyết “năng lực tinh thần” của Bêcơn,....

Triết học cổ điển Đức (thế kỉ XVIII – XIX) là đỉnh cao của triết học phương Tây
cận đại. Từ I.Cantơ (1724 – 1804) đến G.V.Ph.Hêghen (1770 – 1831), đã tích cực đề
cao sức mạnh của trí tuệ và hoạt động của con người, là kết quả của cả một nền văn
minh. Xem xét suốt quá trình lịch sử của nhân loại, họ xem đó là một quá trình phát
triển biện chứng, đây chính là dấu mốc vàng son chói lọi của triết học hiện đại, nhưng
mặt hạn chế ở đây, chính là việc tuyết đối hóa vai trò của ý thức, tới mức cực đoan.

Đối lập với Hêghen, L.Phoiơbắc (1804 – 1872) nhà duy vật tiền bối của triết học
Mác, người có công khôi phục chủ nghĩa duy vật đã phân biệt giữa con người tự nhiên,
sinh vật với con người ý thức. Theo ông, chúng dựa trên: “Con người là sản phẩm của
tự nhiên, là kết quả phát triển của tự nhiên.”. Ông phủ nhận sự tách biệt giữa linh hồn
và thể xác. Ông khẳng định “Con người là chủ thể của tư duy, tư duy là thuộc tính, là
chức năng của bộ óc con người – một khí quan vật chất”.

Nhìn chung, ta thấy, trong suốt quá trình lịch sử của nhân loại, con người phải trải
qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Bằng nhiều cách nhìn nhận, góc độ tiếp cận đa
chiều mà mỗi thời kì, người ta sẽ đưa ra những kết luận riêng, phản ánh nhu cầu nhân
sinh, xã hội hay các phương pháp để giải phóng con người,... Nhưng qua mỗi thời kì
thì các quan điểm, lý luận về các vấn đề triết học liên quan đến con người đã ngày
4
càng được bổ sung và hoàn thiện, những hạn chế đã được khắc phục và vượt qua bởi
quan niệm duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin về con người.

1.2. Bản chất con ngƣời

Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con
người chính là giới tự nhiên. Do vậy, việc tiến hành nghiên cứu về cấu tạo tự nhiên và
nguồn gốc tự nhiên của con người là một trong những yếu tố tiên quyết, góp phần
không nhỏ trong việc hình thành nên lịch sử nhân loại, giúp con người làm chủ được
hành vi của chính bản thân mình, cũng như các hoạt động năng động, sáng tạo khác.

- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai góc độ sau đây:

Thứ nhất, con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của giới
tự nhiên. Dựa trên cơ sở sự phát triển của thế giới duy vật và khoa học tự nhiên, đặc
biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài, mà chúng ta đã chứng minh
được điều này thông qua những lý luận khoa học biện chứng.

Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên
cũng "là thân thể vô cơ của con người". Do đó, dưới sự biến đổi của thế giới tự nhiên,
hay đối mặt với những thay đổi của quy luật tự nhiên dưới hình thức trực tiếp hoặc
gián tiếp thì giới tự nhiên thường xuyên quy định đến sự tồn tại của loài người, cũng
như xã hội loài người, đồng thời nó cũng là môi trường trao đổi vật chất giữa con
người với giới tự nhiên. Ngược lại dưới sự tác động, ảnh hưởng từ hoạt động của con
người, cũng tác động trở lại thế giới tự nhiên. Đây chính là mối quan hệ biện chứng
giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên.

Tuy nhiên, con nguời không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó
mang đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là "người" chính là xét trong
mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc
gia, dân tộc, nhân loại,.... Vì vậy, bản tính xã hội nhất định phải là một phương diện
khác của bản tính con người, hơn nữa đây là bản tính đặc thù của con người.

- Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các góc độ sau đây

5
Một là, xét về mặt nguồn gốc của sự hình thành loài người thông qua giới tự nhiên
thì con người còn bị tác động, chịu ảnh hưởng bởi mặt xã hội, trước hết cơ bản nhất đó
là nhân tố về lao động, hay cụ thể hơn đó chính là hoạt động sản xuất vật chất. Thông
qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên:
"Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự
nhiên". Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến
hóa và phát triển thành người. Đó là một trong những phát hiện mới của chủ nghĩa
Mác - Lênin, nhờ đó có thể hoàn chỉnh học thuyết về nguồn gốc của loài người mà tất
cả các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp đúng đắn và đầy đủ.

Hai là, xét từ góc độ tồn tại và phát triển, thì sự tồn tại của loài người luôn luôn bị
chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con
người cũng có sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là
tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con người chỉ
tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật thuần túy, không thể là "con người" với đầy
đủ ý nghĩa của nó.

Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con
người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau nhưng thống nhất
với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi
trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa,... quy định phương
diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận
động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm
tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.

Quan hệ xã hội là những quan hệ giữa cộng đồng xã hội của con người, xuất hiện
trong quá trình sản sinh và tái sinh ra chính bản thân con người với tư cách là những
chủ thể xã hội hoàn chỉnh.

Trong suốt quá trình nghiên cứu khoa học, C.Mác đề cập con người không phải
như một sinh vật thuần túy. Ông nêu bản chất con người không phải là một cái nhìn
trừu tượng, cố hữu, riêng biệt mà “trong tính thực hiện của nó, bản chất con người là
tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Ở đây C.Mác đưa ra khái niệm “tổng hòa”, không
6
chỉ đơn giản là phép cộng thông thường mà đó chính là sự thu hút, đúc kết những tinh
túy từ những quan hệ xã hội của con người. Trong quá trình lao động sản xuất, con
người không chỉ tác động vào tự nhiên mà còn tác động lẫn nhau giữa người với
người, nhờ vậy mà hình thành nên các quan hệ xã hội.

Con người hiện thực, cá nhân hiện thực là con người xã hội. Bản chất của nó là
tổng hòa các quan hệ xã hội, gia đình là cấp độ xã hội đầu tiên trong hệ thống: quan hệ
tập thể, quan hệ giai cấp (mang tính lịch sử), quan hệ dân tộc, tôn giáo và rộng hơn là
những quan hệ mang tính nhân loại. Các quan hệ xã hội của con người hình thành
trong con người tham gia vào đời sống xã hội, chủ yếu là tham gia hoạt động lao động
sản xuất. Quan hệ sản xuất chính là cơ sở của các quan hệ xã hội khác.

Tất cả những quan hệ xã hội được tổng hòa để trở thành bản chất con người và chỉ
có ở con người được xem như là một sinh thể biết tư duy, sáng tạo và có khả năng
nhận thức, cải biến thế giới hiện thực và chính bản thân mình. Tính chất quan hệ và
khả năng đó không thể có ở bất kì sinh vật nào khác. Con người chỉ thực sự tồn tại
được khi đặt trong mối quan hệ với cộng đồng, xã hội và nếu bị tách biệt khỏi mối
quan hệ ấy thì con người sẽ chẳng còn ý nghĩa gì.

Con người sẽ không thể tồn tại với tư cách là người nếu tách biệt khỏi mối quan hệ
với người khác, với cộng đồng xã hội và với thế giới xung quanh. Hệ thống các mối
quan hệ xã hội không phải cái trừu tượng, xa lạ mà được tạo nên bởi chính các hoạt
động thực tiễn của con người, do con người sản sinh ra. Tổng hòa các mối quan hệ xã
hội – cái được tạo nên bởi hoạt động đời sống vật chất của con người, đến lượt nó quy
định lại hoạt động đời sống xã hội và do đó quy định bản chất xã hội của con người.
C.Mác viết: “Xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì
nó cũng sản xuất ra xã hội như thế.”. Rõ ràng muốn hiểu được con người và đời sống
con người cần hiểu được vấn đề quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh, với
xã hội và với chính bản thân.

Khi đặt con người trong mối quan hệ với xã hội thì Triết học Mác đã thể hiện rõ là
Triết học con người mang tính hiện thực trong cải biến cách mạng trong sáng tạo, giải
phóng tự do của nó. Bản chất của con người không phải là bất biến. Nó không ngừng
7
thay đổi bởi vì các quan hệ xã hội đã tạo ra nó luôn biến đổi không ngừng tùy theo các
thời kì lịch sử.

CHƢƠNG 2
VẤN ĐỀ CON NGƢỜI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
2.1. Quan điểm của Đảng về vấn đề con ngƣời trong sự nghiệp đổi mới

Con người vừa là mục tiêu, là nguồn gốc, là động lực của sự phát triển xã hội. Chủ
nghĩa Mác - Lênin khẳng định con người là chủ thể lịch sử xã hội. Quan điểm đó đã
được cụ thể hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh và tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt
Nam cụ thể hóa vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay trong quan điểm xem con
người vừa là mục tiêu, là nguồn gốc, là động lực của sự phát triển xã hội. Việc phát
huy vai trò con người ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay đã được Đảng ta chú trọng
nhấn mạnh trong các kỳ đại hội Đảng, trong các văn kiện của Ban Chấp hành Trung
ương, trong các chủ trương, chính sách, quản lý và điều hành sự phát triển kinh tế, xã
hội nói chung. Một mặt, Đảng ta nhấn mạnh việc đấu tranh không khoan nhượng
chống thoái hóa, biến chất, suy thoái về chính trị, tư tưởng đạo đức, chống lại những
thói hư tật xấu, những đặc tính tiêu cực của con người Việt Nam đang cản trở sự phát
triển của chính con người và xã hội. Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng nhấn
mạnh đến việc xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước hiện
nay với những đức tính sau đây:

- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với
nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.

- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.

- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn
trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi
trường sinh thái.

8
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kĩ thuật, sáng tạo, năng suất
cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.

- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm m
và thể lực.

Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tiếp tục nhấn mạnh
và bổ sung: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện,
hướng đến chân, thiện, m , thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa
học,... Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi
trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể
chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao
tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân
mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước”. “Chăm lo xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dư ng tinh thần yêu nước, lòng tự hào
dân tộc, đạo đức, lối sống, nhân cách. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức
tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch
sử, văn hóa dân tộc... xây dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân,
thiện, m . Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nâng cao trí lực, bồi dư ng tri thức cho con người Việt
Nam,... Xây dựng và phát huy lối sống mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi
người...”. Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi phải đặt con người vào vị trí trung tâm, xem đó
vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển và cũng chỉ bằng cách đó thì sự
nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay mới có thể thực hiện thành công được. Độc lập, tự
do và hạnh phúc của con người, sự phát triển toàn diện của nó là nội dung cốt lõi, mục
tiêu chủ yếu, cao nhất và bao trùm nhất của công cuộc đổi mới nói riêng và sự nghiệp
giải phóng con người nói chung. Mục tiêu của công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, là sự thể hiện tập trung mục tiêu giải phóng con người trong giai
đoạn hiện nay.

9
Việc phát huy vai trò con người trong sự nghiệp đổi mới được Đảng Cộng sản
Việt Nam quán triệt trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế đến chính
trị, từ giáo dục và đào tạo đến khoa học và công nghệ, từ lĩnh vực xã hội đến lĩnh vực
văn hóa. Bài học lịch sử của cách mạng Việt Nam là mọi sự thắng lợi đều phải dựa
trên nền tảng phát huy, sử dụng đúng đắn con người. Để phát huy mạnh mẽ vai trò con
người trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện nhiều
giải pháp khác nhau: Kết hợp giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần; coi trọng phát
huy vai trò động lực chính trị, tinh thần và đạo đức; chú trọng tuyên truyền giáo dục,
động viên kịp thời các hiện tượng tích cực của con người trong xã hội; thực thi các
chính sách kinh tế xã hội hướng đến con người và vì con người; đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, chú trọng giáo dục, đào tạo
thế hệ tr . Con người được đặt ở vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế và xã hội, coi
trọng nhu cầu và lợi ích chính đáng của con người, đề cao sự tu dư ng, tự rèn luyện,
thông qua hoạt động thực tiễn để đào tạo, bồi dư ng con người, thực hành phê bình và
tự phê bình thường xuyên, chống chủ nghĩa cá nhân, tăng cường xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh. Sự thành công của công cuộc đổi mới nói riêng và sự phát triển đất
nước nói riêng phụ thuộc rất lớn vào việc phát huy vai trò con người, nhất là khi cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ đang diễn ra như vũ bão, cách mạng công nghiệp lần
thứ tư đang bắt đầu, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra với những diễn biến
bất thường, khó lường.

2.2. Vai trò của con ngƣời trong sự nghiệp đổi mới

Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức
và trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn lực con người ngày càng
thể hiện vai trò quyết định của nó. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một
nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ
bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Trong đó động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền
vững chính là yếu tố con người.

10
Thứ nhất là, nguồn nhân lực chất lượng quyết định quá trình tăng trưởng và phát
triển kinh tế- xã hội. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết định việc khai
thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác. Các nguồn lực như vốn, tài
nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chúng chỉ có
tác dụng và có ý thức của con người. Bởi lẽ con người là nguồn lực duy nhất biết tư
duy, có trí tuệ và ý chí biết lợi dụng các nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau tạo
thành sức mạnh tổng hợp. Các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo,
khai thác của con người và chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người nên con
người biết cách tác động và chi phối. Nguồn lực nào cũng có hạn, có thể bị cạn kiệt
khi khai thác. Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực
vô tận. Tính vô tận, trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó có khả năng không chỉ tái sinh
mà còn tự sản sinh về mặt sinh học mà còn đổi mới không ngừng phát triển về chất
trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dư ng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở
làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn của con người phát triển như một
quá trình vô tận. Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra
những tài nguyên mới và sáng tạo ra những tài nguyên vốn không có sẵn trong tự
nhiên. Với bản chất hoạt động có mục đích sáng tạo ra những hệ thống công cụ sản
xuất mới đã tác động vào tự nhiên một cách dễ dàng hơn. Chính sự phát triển không
ngừng của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự động hoá được xã
hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao, từ đó nói lên trình độ vô
tận của con người. Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật
thể hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo này của Mác đã và đang trở
thành hiện thực. Sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học k thuật công
nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động
đến nền kinh tế trí tuệ (mà gọi là tri thức). Ở những nước này lực lượng sản xuất trí tuệ
ngày càng phát triển và chiếm tỷ trọng cao. Nguồn lợi mà họ thu được từ lao động chất
xám chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản quốc gia. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đạt đến
mức nhờ có cuộc cách mạng con người có thể tạo ra những máy móc "bắt chước" hay
phỏng theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng bằng những k thuật
công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc con người mà ngày nay nhân loại đang
chứng kiến sự biến đổi thần kỳ của mình.

11
Thứ hai là, nguồn nhân lực chất lượng cao quyết định sự thành công của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá con đường phát triển tất
yếu của nước ta để đi lên mục tiêu "Xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh".
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là
quá trình biến đổi cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội (kinh tế, chính trị,
khoa học của con người,…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất.
Sự thành công của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngoài môi trường
chính trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn, tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất k thuật. Các nguồn lực này cùng tham gia vào quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng mức độ tác động vào vai trò của chúng đối
với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá không giống nhau, trong đó nguồn
nhân lực phải đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực phải
trở thành động lực phát triển. Nguồn nhân lực phát triển thì tất yếu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá phải tiến hành để đáp ứng nhu cầu đó. Con người vừa là điểm khởi đầu
vừa là sự kết thúc, đồng thời lại vừa là trung tâm của sự biến đổi lịch sử, nói cách khác
con người là chủ thể chân chính của các quá trình xã hội. Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là quá trình biến đổi căn bản và sâu sắc toàn bộ đời sống xã hội, nó đòi hỏi vật
chất cao với người "chủ thể" cần cù, nhiệt tình quyết tâm cách mạng chưa đủ mà điều
quan trọng hơn là trí tuệ khoa học, ý chí chiến thắng cái nghèo nàn lạc hậu, tính năng
động luôn thích ứng với hoàn cảnh, ý thức kỷ luật, bản lĩnh lãnh đạo, nghệ thuật quản
lý, k thuật kinh doanh… Như vậy trong điều kiện mới cần xem xét đánh giá bồi
dư ng "con người chủ thể" không chỉ trên bình diện "con người - xã hội" mà còn trên
cả bình diện "con người cá nhân", hơn nữa là "con người - chuyên môn nghề nghiệp"
nhất định (như nhà lãnh đạo, quản lý, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp công nhân…).
Bởi vì ấn dấu đằng sau những chủ thể cụ thể này là lợi ích tương ứng với chúng. Chỉ
có quan niệm và cách làm như vậy chúng ta mới biết tác động vào đâu và tác động như
thế nào để nâng cao tích cực của chủ thể hành động. Nói đến nguồn nhân lực tức là nói
đến chủ thể tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên nó không
phải là chủ thể biệt lập riêng rẽ, mà là chủ thể được tổ chức thành lực lượng thống nhất
về tư tưởng hành động. Nói cách khác công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tổng hợp
những chủ thể với những phẩm chất nhất định tham gia vào quá trình công nghiệp hoá,

12
hiện đại hoá. Nhưng cần phải hiểu rằng tổng hợp những chủ thể này không phải là tập
hợp giản đơn số lượng người mà nó là sức mạnh tổng hợp của chỉnh thể người trong
hành động. Sức mạnh này bắt nguồn trước hết là những phẩm chất vốn có bên trong
của mỗi chủ thể và nó được nhân lên gấp đôi trong hoạt động thực tiễn. Động lực công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là những gì thúc đẩy quá trình vận động và phát triển. Vì vậy
khi nói "nguồn lực với tính chất là động lực của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá" là chủ yếu nói đến những phẩm chất tích cực của tổng hợp những chủ thể được
bộc lộ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thúc đẩy quá trình này vận
động phát triển và thể hiện mặt tích cực, đồng thời hạn chế mặt tiêu cực tối đa của
mình.

Thứ ba là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt
hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước nhằm hướng đến mục tiêu phát triển bền vững. Trong đó động lực quan
trọng nhất chính là con người, tức là những người được đầu tư phát triển, có k năng,
kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo nhằm trở thành “nguồn vốn - vốn
con người, vốn nhân lực”. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh
quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về những quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao,
có môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư và một môi trường chính trị - xã hội ổn
định. Nhân lực chất lượng cao chính là điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện những
bước nhảy vọt và rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế, lạc hậu về khoa học công
nghệ. Nếu như trước đây, một trong những nguyên nhân chủ yếu ngăn cản tốc độ tăng
trưởng và phát triển kinh tế của nước ta là do tình trạng nghèo nàn về cơ sở vật chất,
sự thiếu hụt nguồn vốn... thì ngày nay, trở ngại chủ yếu nhất được xác định chính là sự
hạn chế về trí tuệ và năng lực sáng tạo của con người. Chất lượng nguồn nhân lực đã
và đang chứng tỏ sức mạnh chi phối, quyết định bước tiến của các nền kinh tế. Do đó,
nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò quan trọng trong việc thực hiện những bước
nhảy vọt, giúp nước ta có thể rút ngắn về thời gian, kết hợp với những bước nhảy vọt,
ứng dụng những thành tựu mới về khoa học công nghệ của thế giới. Kinh nghiệm của
các nền kinh tế Đông Á và các nền kinh tế công nghiệp mới (NICs) ở châu Á cho thấy
sự phát triển "thần kỳ" có được là nhờ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Hội

13
nhập quốc tế thành công nhờ vào sự đóng góp của nhiều nhân tố, trong đó nguồn nhân
lực chất lượng cao là một nhân tố quan trọng nhất.

2.3. Giải pháp phát triển con ngƣời trong sự nghiệp đổi mới

Để phát triển, nâng cao con người Việt Nam, trước hết Nhà nước cũng như mọi
người dân cần tập trung phát triển con người một cách toàn diện về giáo dục, y tế và cả
văn hóa,… Cần xác định “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời
là chủ thể phát triển”; “Phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể,
nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu phát triển”; nhận thức rõ vai trò và yêu cầu mới của
nhân tố con người đối với sự phát triển đất nước và sự phát triển của chính bản thân
mỗi người. Cùng với hoàn thiện thể chế phát triển và đẩy mạnh ứng dụng khoa học -
công nghệ, cần tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển con người chất
lượng cao - trình độ cao.

• Về giáo dục:

Đây là nhân tố cốt lõi phát triển toàn diện con người Việt Nam đáp ứng với yêu cầu
là chủ thể của quá trình phát triển nhanh - bền vững đất nước trong giai đoạn mới.
UNESCO đã đưa ra định hướng về giáo dục thế kỷ 21, đã đề ra chủ trương đẩy mạnh
phát triển giáo dục với chiến lược bao gồm 21 điểm với một số tư tưởng chính:

- Giáo dục thường xuyên là điểm chủ đạo của mọi chính sách giáo dục; hướng tới
nền giáo dục suốt đời, bằng mọi hình thức, xây dựng một xã hội học tập.

- Giáo dục không chỉ dạy để có học vấn mà phải thực hành thực nghiệm để có tay
nghề, để vào đời có thể lao động ngay được, không b ng .

- Phát triển giáo dục gắn liền với phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt chú ý đến giáo
dục hướng nghiệp để giúp người học tập lập thân, lập nghiệp.

- Giáo dục tr em trước tuổi đến trường phải là mục tiêu lớn trong chiến lược phát
triển giáo dục.

14
- Giáo viên được đào tạo để trở thành những nhà giáo dục hơn là những chuyên gia
truyền đạt kiến thức.

Từ đó, Chính phủ Việt Nam đã đề ra một số giải pháp thực tế, toàn diện nhưng có
trọng điểm nhằm phát triển con người Việt.

• Đầu tiên là nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý

Quản lý là yếu tố then chốt đảm bảo sự thành công cho cả tiến trình đổi mới, nâng
cao chất lượng GD&ĐT. Vì vậy, cần đổi mới cơ bản về tư duy và phương thức quản lý
theo hướng nâng cao hiệu lực, hiệu quả. Thực hiện cải cách hành chính, thể chế hóa
vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm quản lý GD&ĐT ở các cấp, các
ban ngành.

• Thứ hai là đa dạng hóa nguồn lực tài chính

Đa dạng hóa nguồn lực tài chính là một trong những giải pháp cơ bản để đảm bảo
nguồn lực vật chất cho việc nâng cao chất lượng GD&ĐT. Với đặc điểm về kinh tế -
xã hội như Việt Nam, cần xây dựng một chính sách học phí hợp lý theo từng nhóm đối
tượng, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ phổ cập giáo dục, đáp ứng yêu cầu giáo dục
tiến tới toàn dân nhưng đồng thời tạo điều kiện để người học có nhiều cơ hội lựa chọn.

• Phân luồng hiệu quả trong GD&ĐT

Phân luồng là một nội dung được xem là quan trọng và vẫn đang được tiến hành từ
trung ương đến địa phương. Trên thực tế ở nhiều nước phát triển, người dân đến với
giáo dục đôi khi chỉ vì muốn mở mang tri thức. Trong khi đó, ở các nước đang phát
triển, đặc biệt là các nước nghèo như Việt Nam, người dân buộc phải tính đến lợi ích
khi chi phí cho giáo dục. Để giảm thiểu chi phí của xã hội, cần thực hiện phân luồng
hiệu quả.

• Từng bƣớc cải thiện chất lƣợng GD&ĐT miền núi

Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách quan tâm, ưu đãi đặc biệt, nhưng phải
khẳng định rằng, việc có thể san bằng khoảng cách về chất lượng GD&ĐT giữa miền

15
núi và miền xuôi là cực kỳ khó khăn. Vì vậy, cần có những chính sách mang tính đột
phá cho GD&ĐT miền núi nhằm tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Chính nguồn
nhân lực ấy sẽ là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các vùng miền
này.

• Xây dựng trƣờng đại học đạt chuẩn khu vực

Định hướng từng bước xây dựng một số trường đại học đạt tiêu chuẩn khu vực,
tiến đến đạt tiêu chuẩn quốc tế nhằm dần khẳng định vị thế về GD&ĐT của Việt Nam
trên trường quốc tế là hết sức cần thiết. Đây cũng một nội dung phù hợp với xu thế
chung của thời đại. Trước hết, cần có cơ chế chính sách phù hợp. Tiếp đến, nguồn lực
tài chính phải đảm bảo. Đặc biệt, một trường đạt chuẩn khu vực và tiến tới đạt chuẩn
quốc tế không thể không đạt chuẩn về chất lượng nguồn nhân lực.

Có thể thấy, GD&ĐT nước nhà hiện còn đang phát triển trên nền một hiện trạng
kinh tế - xã hội còn nhiều yếu kém. Khắc phục những tồn tại về chất lượng GD&ĐT
không chỉ phụ thuộc vào ý chí, nỗ lực của ngành GD&ĐT mà cần sự vào cuộc của các
ngành, các cấp, của cả xã hội. Chúng ta phải có giải pháp mang tính toàn diện nhưng
không thể không có những quyết sách mang tính đột phá, có trọng điểm và kiên trì
thực hiện đến cùng mới có thể đem lại những chuyển biến thực sự tích cực cho sự
nghiệp GD&ĐT của nước nhà nói riêng và trong sự nghiệp phát triển con người Việt
Nam toàn diện nói chung.

• Về y tế

- Trước hết, để phát triển, nâng cao con người Việt Nam, ta cần có những giải pháp
nâng cao chất lượng y tế của quốc gia.

+ Thứ nhất, cần phân bổ lại nguồn lực cho y tế một cách hợp lý, tăng cường đầu tư
tài chính từ nguồn ngân sách của quốc gia kết hợp với huy động các nguồn vốn thông
qua thực hiện chính sách xã hội hóa. Hầu hết nhân lực y tế có trình độ chuyên môn cao
thường tập trung ở khu vực trung ương và nếu ở địa phương thì chủ yếu ở cấp tỉnh.
Đây chính là một trong những rào cản lớn trong việc thực hiện công tác chữa bệnh và
phòng, chống dịch bệnh ở địa phương. Vì vậy, trong những năm tới, ta cần tiếp tục đầu
16
tư nhiều hơn nữa về tài chính mua sắm và nâng cấp các trang thiết bị y tế cho các xã,
đồng thời có chính sách phù hợp, đủ mạnh để khuyến khích các bác s , người có trình
độ chuyên môn làm việc tại các cơ sở y tế, các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn để
nhằm giảm dần hạn chế tình trạng quá tải tại cấp bệnh viện tuyến trên.

+ Thứ hai, tiếp tục duy trì, mở rộng BHYT cho người nghèo, cận nghèo và đồng
bào dân tộc thiểu số, tiến tới thực hiện BHYT toàn dân. Trong đó:

 Tiến tới cần phải phát th BHYT miễn phí đối với người nghèo, người dân tộc
thiểu số, diện chính sách, vì đây là những nhóm người có thu nhập thấp, khó có
khả năng tự chăm sóc sức khỏe cho mình, không có điều kiện chăm sóc sức
khỏe, những nhóm người này thường bị hứng chịu nặng nề nhất khi có dịch bệnh.
 Sử dụng ngân sách tại các tỉnh cũng như các doanh nghiệp để chi cho BHYT,
phát động phong trào thi đua “tặng th y tế cho người nghèo, người có công”.
Điều này có ý nghĩa to lớn trong nâng cao tinh thần trách nhiệm của cộng đồng
và cũng là giải pháp cụ thể hóa xã hội hóa hoạt động y tế hiện nay.
 Tuyên truyền để người dân thấy vai trò và ý nghĩa của BHYT đối với bảo vệ và
nâng cao sức khỏe cho bản thân, vận động những người lao động phi chính thức
(những người lao động ngoài nhà nước, ngoài doanh nghiệp) tham gia vào
BHYT, tiến tới thực hiện BHYT bắt buộc đối với tất cả mọi người.
 Cần giám sát chặt chẽ các hoạt động khám, chữa bệnh để nâng cao chất lượng
phục vụ chăm sóc người bệnh có th BHYT cũng như mọi bệnh nhân nói chung.

+ Thứ ba, mở rộng và đẩy mạnh hoạt động y tế dự phòng trong ngăn chặn và khắc
phục hậu quả bệnh trong cộng đồng.

 Thường xuyên giáo dục sức khỏe và vệ sinh môi trường rộng rãi trong cộng đồng
thông qua hệ thống phát thanh, truyền hình, các công tác xã hội,… để nâng cao
nhận thức của người dân vai trò và ý nghĩa trong bảo vệ sức khỏe của cộng đồng.
 Thực hiện có kế hoạch các chương trình y tế phục vụ chăm sóc sức khỏe cho
người dân, giải quyết tốt các vấn đề cấp thiết nằm trong chương trình hoạt động
của tế dự phòng về phòng, chống các dịch bệnh, phòng chống lây nhiễm HIV…
Đẩy mạnh việc giám sát, kiểm tra và thanh tra về an toàn thực phẩm, vệ sinh môi
17
trường, tập trung giám sát, phát hiện và xử lý kịp thời những vi phạm về môi
trường, về an toàn thực phẩm… gây tổn hại đến sức khỏe của nhân dân.
 Xây dựng nếp sống sạch sẽ, văn minh ở nông thôn và đô thị, phát huy vai trò của
các cơ quan, đoàn thể trong xây dựng tuyến đường, tuyến phố, thôn, xóm xanh –
sạch – đẹp, vừa hạn chế được dịch bệnh, vừa có tác dụng lớn trong xây dựng môi
trường văn hóa cho cộng đồng.

- Tiếp theo, để phát triển con người Việt Nam về mặt y tế, chúng ta cần tuyên
truyền, mở rộng vấn đề sức khỏe đến người dân để họ có ý thức, trách nhiệm rèn
luyện, chăm sóc sức khỏe toàn diện, đúng đắn.

• Về văn hóa

Đảng đã chỉ ra để phát triển, nâng cao con người Việt Nam cần “Tập trung nghiên
cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn
mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ
mới”. Giải pháp này là tập trung hoàn thiện và triển khai xây dựng một hệ thống chuẩn
mực giá trị văn hóa của quốc gia - dân tộc Việt Nam thời kỳ mới.

Đó là yêu cầu khách quan và hết sức cần thiết đối với con người Việt Nam, đặc
biệt là trong thời kỳ đổi mới, phát triển và xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng hiện nay. Hệ thống chuẩn mực giá trị văn hóa của quốc gia - dân tộc
Việt Nam thời kỳ mới sẽ là sự hòa quyện hữu cơ giữa giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước với sự tiếp
thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, thể hiện rõ bản sắc, ý chí, khát vọng phát
triển của dân tộc Việt Nam hướng đến mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Cùng với đó, cần xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con
người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
đảm bảo cho họ phát triển với thế giới quan khoa học, nhân cách, lối sống cao đẹp,
cùng những đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần
cù, sáng tạo. Đồng thời, xây dựng lối sống tuân thủ pháp luật, tôn trọng đạo lý “Uống
nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Tương thân tương ái”; khẳng định, tôn vinh
nhân rộng những giá trị nhân ái, nhân văn.
18
Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta: “…gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã
hội là gia đình”. Văn hóa gia đình Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử đã trở
thành bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc ta. Giữ gìn, phát triển hệ giá trị văn
hóa gia đình Việt Nam thời kỳ mới là vừa kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, vừa kết hợp với những giá trị tiên tiến của
gia đình hiện đại, phù hợp với sự vận động, phát triển của xã hội. Trong xu hướng toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, gia đình Việt Nam đang có
những cơ hội lớn để giao lưu, hội nhập với các nền văn hóa tiên tiến, văn minh. Do đó,
để phát triển toàn diện thì người Việt chúng ta cần gìn giữ và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc, gia đình.

KẾT LUẬN

Quan điểm triết học của Mác – Lênin về con người và phát triển con người là
phong phú, sâu sắc và đúng đắn. Nắm bắt và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng vào thực tiễn ngày
nay, cuộc cách mạng k thuật công nghệ hiện đại đã dần dần đi đến khẳng định sự
phát triển con người là yếu tố quyết định của mọi sự phát triển. Những năm gần đây
Nhà nước càng chú trọng hơn nữa phát triển con người một cách toàn diện do nhận
thức vai trò hết sức đặc biệt của con người Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và đã đạt được nhiều kết quả khả quan được ghi nhận đánh giá
cao.

Con người dưới góc nhìn của triết học và vấn đề con người trong quá trình đổi mới
hiện nay là vấn đề rộng với nhiều điều cần nghiên cứu nhưng do thời gian nghiên cứu
và kinh ngiệm có hạn nên bài làm không thể tránh khỏi những thiếu sót, sai lầm.
Chúng em mong nhận được sự thông cảm, sửa chữa và đóng góp từ cô để bài tiểu luận
được hoàn thiện hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19
[2] PGS, TS Lê Hữu Lập (21/11/2017), Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao,
http://nhandan.com.vn/theodong/item/29260702-dao-tao-nguon-nhan-luc-chat-luong-
cao.html

[3] Tài liệu- Ebook- maiphuongdc (19/11/2017), Tiểu luận Nguồn lực con người trong
xã hội hiện nay, http://doc.edu.vn/tai-lieu/tieu-luan-nguon-luc-con- nguoi-trong-xa-
hoi-hien-nay-67576/

[4] Notice (23/11/2017), Những quan niệm cơ bản của triết học Mác- Lênin về con
người, https://www.wattpad.com/242342-c%C3%A2u-11-ph%C3%A2nt%C3%ADch-
b%E1%BA%A3n-ch%E1%BA%A5t-con-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-theo-quan-
%C4%91i%E1%BB%83m

[5] Giáo trình Triết học, trang1-64, trang 162-178.

[6] Văn Đình Tấn (21/11/2017), Nguồn nhân lực trong công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta,
http://truongchinhtrina.gov.vn/ArticleDetail.aspx?_Article_ID=212

[7] Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Truy cập ngày 10/1/2021. Đường dẫn:
https://dangcongsan.vn/kinh-te-va-hoi-nhap/nhan-luc-chat-luong-cao-nguon-luc-cho-
phat-trien-kinh-te-asean-465754.html

[8] Bảo tàng Hồ Chí Minh. Truy cập ngày 10/1/2021. Đường dẫn:
https://baotanghochiminh.vn/vai-tro-cua-chu-nghia-mac-lenin-va-tu-tuong-ho-chi-
minh-doi-voi-su-nghiep-doi-moi-o-viet-nam-hien-nay.htm

[9] https://voer.edu.vn/m/triet-hoc-va-vai-tro-cua-no-trong-doi-song-xa-hoi/6545486d

20

You might also like