You are on page 1of 19

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE

BÀI TẬP LỚN

Đề 3:

Phân tích bản chất, kết cấu của ý thứ. Từ đó so sánh trí tuệ nhân tạo
và trí tuệ con người. Hình dung về viễn cảnh tương lai với các công
nghệ vật liệu mới và siêu trí tuệ nhân tạo, liệu tương lai nhân loại có
thể bị đe doạ

Môn: Triết học Mác Lê-nin

Họ và tên: Trần Ngọc Dung


Mã sinh viên: 11221467
Lớp: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Tiên Tiến 64A

Hà Nội, tháng 12/2022


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................1

NỘI DUNG...........................................................................................................4

CHƯƠNG I: HAI VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC..................................4


1.1. Bản chất của ý thức.................................................................................4
1.2. Kết cấu của ý thức...................................................................................7
CHƯƠNG II: SO SÁNH TRÍ TUỆ NHÂN TẠO - TRÍ TUỆ CON
NGƯỜI VÀ BÀN LUẬN VỀ VIỄN CẢNH TƯƠNG LAI.........................10
2.1. So sánh trí tuệ nhân tạo và trí tuệ con người.....................................10
2.2. “Hình dung về viễn cảnh tương lai với các công nghệ vật liệu mới và
siêu trí tuệ nhân tạo, liệu tương lai nhân loại có thể bị đe doạ?”............14

KẾT LUẬN.........................................................................................................17

TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................18


LỜI MỞ ĐẦU

Cùng với sự phát triển của tri thức nhân loại và lịch sử triết học, hai vấn đề trọng
yếu là bản chất và kết cấu của ý thức luôn được công nhận như những vấn đề trung
tâm khi đặt trong cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Trên cơ sở những lập trường của triết học duy vật, cùng những thành tự nổi bật của
các ngành khoa học tự nhiên, triết học Mác - Lênin góp phần làm sáng tỏ những
vấn đề nêu trên của ý thức nhờ đã có thể bám sát những thực tiễn của xã hội. Khi
lý giải nguồn gốc ra đời của ý thức, vốn luôn xuất hiện nhiều những đánh giá, nhận
xét khác nhau của những cá nhân riêng biệt. Nhưng để tổng kết lại, ý thức có thể
được coi là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào đầu óc con
người, là những hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức còn được nhận
định là toàn bộ sản phẩm những hoạt động tinh thần của con người, bao gồm tri
thức, kinh nghiệm, ước muốn, hy vọng trong đời sống thường ngày. Ý thức cũng là
sản phẩm của quá trình phát triển từ tự nhiên và lịch sử xã hội, là kết quả mà đã
phản ánh lại thế giới quan và đầu óc con người. Nhưng ngay trong triết học Mác –
Lênin, ý thức được định nghĩa là một phạm trù được quyết định với phạm trù vật
chất để theo đó phản ánh thế giới vật chất đầy khách quan vào bộ óc con người
trước khi đi đến sự cải biến và sáng tạo.

Lý do chọn đề tài

Tác động của ý thức đối với con người là vô cùng to lớn bởi ý thức khi được đặt
cùng với những vấn đề triết học đã được khai phá không chỉ là kim chỉ nam giúp
con người giải đáp thắc mắc về những vấn đề thực tiễn trong đời sống mà nó còn là
động lực để con người thoả sức sáng tạo, tác động trở lại thế giới khách quan theo
các chiều hướng khác nhau. Khi ý thức phản ánh được đúng những thế giới quan
của từng cá thể riêng biệt, phù hợp với quy luật khách quan thì lúc đó nó sẽ đóng
vai trò lãnh đạo định hướng cho mọi hoạt động cải tạo, cải biến thế giới của con
người trở nên hiệu quả dựa. Cũng chính nhờ ý thức đã tạo cho con người sự thông
minh, nhạy bén để có thể kịp ứng phó với mọi tác động xung quanh, trở thành loài
thống trị vượt bậc xuyên suốt quá trình phát triển của nền văn minh nhân loại.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong thời đại khoa học công nghệ lên ngôi, trí tuệ
nhân tạo - vốn là sản phẩm nhờ tư duy, ý thức của con người tạo nên nhưng chúng
đang dần xâm chiếu mọi mặt trong đời sống con người ngay từ những việc đơn
giản nhất. Chính điều đó như dần làm khẳng định những thách thức to lớn về một
viễn cảnh khi con người bị yếu thế đi ngay trong cách mạng công nghệ vật liệu và
siêu trí tuệ. Thật vậy, xã hội, công nghệ càng phát triển thì càng đòi hỏi tri thức và
sáng tạo của con người phải được rèn giũa sắc bén hơn nữa, bởi tri thức là khoa

1
học, là cốt lõi để nhân loại có thể bật những bước nhảy xa hơn trong quá trình khai
phá và làm chủ thế giới. Mỗi cá nhân cần phải không ngừng nâng cao khả năng
nhận thức thực tiễn để nắm trong tay chiếc chìa khoá thời đại, dẫn đầu mở ra sự
tiến bộ vượt bậc cho văn minh nhân loại, để tiếp tục tiếp quản chứ không hề lệ
thuộc vào bất kì công nghệ nào khác. Có thể nói để hoàn thiện cách mạng tư tưởng
cho thế hệ trẻ - những người kế thừa để rồi tiếp nối tương lai, thực tiễn đã đặt ra
cho chúng ta những yêu cầu cấp bách để tìm hiểu rõ hơn về bản chất, kết cấu sâu
xa của ý thức, từ đó hoạch định ra những giải pháp đúng đắn cho một sự phát triển
toàn diện của xã hội.

Đề tài: “Phân tích bản chất, kết cấu của ý thứ. Từ đó so sánh trí tuệ nhân tạo và
trí tuệ con người. Hình dung về viễn cảnh tương lai với các công nghệ vật liệu
mới và siêu trí tuệ nhân tạo, liệu tương lai nhân loại có thể bị đe doạ” được lựa
chọn như một cách để em có thể nêu ra những quan điểm cá nhân của bản thân về
một trong những viễn cảnh tương lai vốn luôn tạo ra những ý kiến trái chiều tại
thời điểm hiện tại, và rồi tự tiếp nhận thông tin cũng như chọn lọc ra cho bản thân
một cái nhìn đúng đắn về những vấn đề đang xảy ra xung quanh thế giới con
người.

NỘI DUNG

CHƯƠNG I: HAI VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC

1.1. Bản chất của ý thức

Chủ nghĩa duy tâm, do không nắm bắt được nguồn gốc ra đời của ý thức nên đã
có những quan niệm sai lầm về bản chất của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm đã cường
điệu hoá vai trò của ý thức một cách thái quá, trừu tượng tới mức thoát ly đời sống
hiện thực, biến nó thành một thực thể độc lập, thực tại duy nhất và nguồn gốc sinh
ra thế giới vật chất. Ngược lại, chủ nghĩa duy vật siêu hình đã tầm thường hoá vai
trò của của ý thức khi coi ý thức chỉ là một dạng vật chất hay đơn giản chỉ là sự
phản ánh riêng lẻ, thụ động thế giới vật chất, tách xa với thực tiễn xã hội rất phong
phú, sinh động. Chính những quan niệm hết sức sai lầm đó đã không cho phép con
người đi đến được bản chất tường tận của ý thức cũng như biện chứng của cả một
quá trình phản ánh ý thức.

Trên một cơ sở nhận thức đúng đắn nguồn gốc ra đời của ý thức và những lý
thuyết sâu sắc phản ánh đã luận giải một cách khoa học bản chất của ý thức, bản
chất của ý thức được đặt trong mối quan hệ qua lại mật thiết với vật chất, mà chủ
2
yếu hơn là với đời sống hiện thực có tính thực tiễn của con người để giúp con
người có cách hiểu đúng và rõ ràng nhất.

“Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản
ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người”

1.1.1. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan

Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, ý thức không phải là sự vật mà vốn chỉ
là những “hình ảnh” của sự vật được phản chiếu lại trong não bộ con người. Ta có
thể hiểu là thế giới quan ấy là tiền đề cho sự phản ánh của ý thức nhưng cũng chính
nó đã là thứ quy định nội dung, hình thức của phản ánh đó không y nguyên như
một tấm ảnh. Mà thông qua lăng kính chủ quan của con người, phản ánh của ý thức
đã bị thay đổi, bị cải biến do phụ thuộc vào sự tác động của nhiều yếu tố như: đối
tượng phản ánh, điều kiện lịch sử - xã hội, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm sống
của chủ thể. Như vậy cùng một đối tượng được phản ánh nhưng với mỗi người
khác nhau, có các đặc điểm tâm lý, trí thức, điều kiện lịch sử xã hội khác nhau,
kinh nghiệm sống khác nhau thì kết quả phản ánh cũng rất khác nhau. Chính Ph.
Ăngghen đã từng chỉ rõ tính chất biện chứng phức tạp của quá trình phản ánh:
“Trên thực tế, bất kỳ phản ánh nào hệ thống thế giới vào trong tư tưởng cũng đều
bị hạn chế về mặt khách quan bởi những điều kiện lịch sử và về mặt chủ quan bởi
những đặc điểm về thể chất và tinh thần của tác giả”.

Ta có thể lấy ví dụ thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày như khi những nơi
sa mạc, đồi cát với nhiều người nông dân thì nó chỉ là một nơi hoang tàn, khô cằn
nhưng với nhiều nhà khoa học thì đây là một địa điểm tốt để họ có thể tận dụng tốt
nguồn năng lượng mặt trời và gió một cách triệt để nhất.

1.1.2. Ý thức là sự phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan

Đây là một đặc tính căn bản để phân biệt trình độ phản ánh ý thức người với trình
độ phản ánh tâm lý động vật. Làm nổi bật lên sự phản ánh tích cực, năng động,
chúng ta có thể thấy ý thức con người không chỉ thụ động phản ánh lại nguyên si
thế giới khách quan mà gắn liền với đó là cả một quá trình cải biến, thu thập, xử lí
thông tin nhạy bén. Để từ đó ý thức đưa vào sự sáng tạo nhờ khả năng gián tiếp
khái quát thế giới quan trước khi tác động trực tiếp để cải biến thế giới đó. Xuyên
suốt quá trình phát triển của nhân loại, tính chất năng động, sáng tạo của sự phản
ánh ý thức còn được thể hiện ở quá trình con người tạo ra những giả tưởng, giả
thuyết, huyền thoại, ... trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất,

3
quy luật khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động
phục vụ đời sống con người.

Có thể nói sự phản ánh ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt. Một là, trao đổi
thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Hai là, mô hình hoá đối tượng trong
tư duy. Ba là, chuyển hoá mô hình từ tư duy ra hiện thực. Để thúc đẩy quá trình
này, con người cần sáng tạo đồng bộ ba nội dung được nêu trên để đạt được năng
suất cao nhất trong mọi quá trình sản xuất.

1.1.3. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội

Mặc dù ý thức được thực hiện trên những hoạt động của từng neuron thần kinh
trong bộ não người, chỉ riêng biệt con người là loài có ý thức trong môi trường
sống nhưng nó không phải là một hoạt động mang tính riêng lẻ, cá nhân của từng
người. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi
phối không chỉ các quy luật sinh học mà chủ yếu là của quy luật xã hội, do nhu cầu
giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con người quy định. Với
tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
Chính C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định: “con người cũng có cả “ý thức” nữa.
Song đó không phải là một ý thức bẩm sinh sinh ra đã là ý thức “thuần tuý”...Do
đó ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào
con người còn tồn tại”.

Thật vậy, không có bộ óc con người, không có hoạt động thực tiễn xã hội thì sẽ
không thể có được ý thức - thứ vũ khí khẳn định được sức mạnh con người trong
nhận thứ và cải tạo thế giới.

1.2. Kết cấu của ý thức

1.2.1. Các lớp cấu trúc của ý thức

Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Có nhiều ngành khoa học, nhiều cách tiếp cận,
nghiên cứu về kết cấu của ý thức, nhưng theo cách tiếp cận phổ biến trên, kết cấu
của ý thức được phân theo các yếu tố cơ bản nhất hợp thành nó là: tri thức, tình
cảm và ý chí mà trong đó tri thức là nhân tố quan trọng nhất.

Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận
thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại
ngôn ngữ. Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng
và mọi biểu hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức theo từng lĩnh vực

4
riêng biệt của tri thức: từ tự nhiên, xã hội cho đến nhân văn. Tri thức là phương
thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. Theo C.Mác “Phương
thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri
thức”.

Tuy vậy, không thể đồng nhất ý thức với sự hiểu biết và tri thức về sự vật bởi ngay
trong quá trình nhận thức, ở ý thức còn nảy sinh thái độ của con người với đối
tượng phản ánh, từ đó làm nổi bật lên thành phần tình cảm trong cấu thành của ý
thức.

Tình cảm phản ánh rõ ràng các quan hệ của con người khi biểu lộ những những
rung động trong tiềm thức. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời
sống của con người; là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt
động nhận thức và thực tiễn. Lênin cho rằng: không có tình cảm thì “xưa nay
không có và không thể có sự tìm tòi chân lý”; không có tình cảm thì không có một
yếu tố thôi thúc những người vô sản và nửa vô sản, những công nhân và nông dân
nghèo đi theo cách mạng. Chính sự hoà quyện giữa tri thức với tình cảm và trải
nghiệm thực tiễn đã tạo nên tính bền vững, động lực, niềm tin cho con người sinh
tồn.

Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong
quá trình thực hiện mục đích của con người. Có thể coi ý chí là quyền lực của con
người đối với mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến
mục đích một cách tự giác. Giá trị chân chính của ý chí không chỉ được thể hiện ở
cường độ của nó mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý nghĩa và mục
đích mà ý chí đó đang hướng đến.

1.2.2. Các cấp độ của ý thức

Khi xem xét ý thức theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người hay vốn được
gọi là tầng sâu của ý thức được thể hiện qua 3 yếu tố: tự ý thức, tiềm thức và vô
thức ngay trong tính hiện thực của hoạt động tinh thần con người. Những yếu tố
này đã góp phần hợp thành nên ý thức, quy định được tính phong phú, nhiều vẻ
của đời sống tinh thần con người.

Tự ý thức là một quá trình khi ý thức tự hướng về nhận thức bản thân mình
trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài, để rồi tự khẳng định, tự điều

5
chỉnh hành vi hoạt động của từng cá nhân. Khi phản ánh hiện thực khách quan, tự
ý thức giúp con người tự đối lập, so sánh mình với thế giới và nhận thức bản thân
như một thực thể hoạt động có cảm giác, có suy nghĩ, có hành vi đạo đức. Điều
này không chỉ thể hiện thông qua giao tiếp mà còn thể hiện qua giá trị văn hóa của
xã hội. Cho nên, tự ý thức không chỉ là tự ý thức cá nhân mà còn ý thức của một
giai cấp, một xã hội chung.

Tiềm thức là những hoạt động tâm lý diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý thức,
song lại có mối quan hệ mật thiết tới các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự
kiểm soát của cơ thể. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có
được từ trước nhưng đã gần như thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu
ý thức của chủ thể mà không cần chúng ta kiểm soát một cách trực tiếp bởi nó
được coi như ý thức dưới dạng tiềm tàng. Trong tư duy khoa học, tiềm thức chủ
yếu gắn liền với tư duy chính xác, góp phần giảm sự quá tải của đầu óc trong việc
xử lý một khối lượng lớn các tài liệu, dữ kiện với các hoạt động thường lặp đi, lặp
lại nhiều lần.

Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm ngoài
phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó. Chúng
điều khiển những hành vi thuộc về bản năng, thói quen... trong con người thông
qua phản xạ không điều kiện. Nói một cách khác, vô thức là những trạng thái tâm
lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của con người mà
chưa có sự tham gia của lý trí . Vô thức là hoạt động tầng sâu của tâm lý - ý thức,
có vai trò to lớn trong đời sống và hoạt động của con người, bởi trong một số hoàn
cảnh, chính vô thức giúp cho con người giảm bớt sự căng thẳng không cần thiết
khi ép bản thân phải làm việc quá tải. Dù không mang trong mình trọng trách chủ
đạo để điều khiển hành vi cá nhân, vô thức vẫn đóng vai trò như một mắt khâu nổi
bật trong cuộc sống có ý thức của con người.
6
7
CHƯƠNG II: SO SÁNH TRÍ TUỆ NHÂN TẠO - TRÍ TUỆ CON NGƯỜI VÀ
BÀN LUẬN VỀ VIỄN CẢNH TƯƠNG LAI

Thế giới hiện đang có những bước chuyển mình rõ rệt trong bối cảnh khoa học
và công nghệ hiện đại đã có thể phát triển mạnh mẽ để sản xuất ra nhiều loại máy
móc không những có thể thay thế những công việc lao động cơ bắp, mà còn có thể
góp phần vào những công việc lao động trí óc phức tạp. Ngày nay, công nghệ nói
riêng hay trí tuệ nhân tạo nói riêng đã dần trở thành một phần thiết yếu, khi không
chỉ được tin tưởng sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau để thay thế con người
mà ngay cả trong cả đời sống của mỗi cá nhân.

2.1. So sánh trí tuệ nhân tạo và trí tuệ con người

2.1.1. Định nghĩa

Trí tuệ nhân tạo1 được biết là một ngành thuộc lĩnh vực khoa học máy tính.
Đây là một dạng công nghệ mô phỏng các quá trình suy nghĩ và học tập của con
người cho máy móc, đặc biệt là các hệ thống máy tính. Qua đó, trí tuệ nhân tạo
giúp các thiết bị điện tử thông minh có được những trí tuệ của con người sau quá
trình được lập trình, cải biến như: biết suy nghĩ, lập luận để giải quyết vấn đề, biết
giao tiếp, phân tích để hiểu ngôn ngữ, tiếng nói, biết học và tự thích nghi.

Trí thông minh của con người là một phẩm chất tinh thần độc quyền bao gồm
khả năng học hỏi từ kinh nghiệm, thích nghi với các tình huống mới, thông hiểu và
xử lý trực tiếp các khái niệm trừu tượng và sử dụng kiến thức của mình để tiếp
quản, làm chủ mọi vật. Nổi bật hơn so với các trí tuệ lập trình, trí tuệ con người
được hình thành, trau dồi và mài sắc sau một tiến trình lịch sử tiến hoá lâu dài của
giới tự nhiên và thực tiễn xã hội, và chỉ có con người mới có được năng lực sử
1
Trí thông minh nhân tạo (Artificial intelligence – viết tắt là AI)

8
dụng ý thức để phản ánh sáng tạo, tái tạo lại hiện thực nhờ gắn liền với bản chất xã
hội theo từng thời kì. Từ đó, trí tuệ nhân tạo được lập trình lại nhờ những kết cấu
kỹ thuật chuẩn chỉnh được con người tạo nên cho máy móc để giúp đỡ con người
trong những công việc lặp đi lặp lại hay tiềm ẩn nguy hiểm cao.

2.1.2. Phương diện cảm xúc

Trí thông minh của AI, dựa trên bản chất, là trí thông minh được lập trình nên
từ trí thông minh của con người. Ngày này, trí tuệ nhân tạo có thể bắt chước cảm
xúc của con người ở một mức độ nhất định sau một quá trình tự phân tích hay được
lập trình từ trước, nhưng nó vẫn chưa có thể phát triển đầy đủ các chức năng để tự
tái tạo lại cảm xúc đó, hay tự biểu lộ các cảm xúc riêng biệt. Các yếu tố cảm xúc
của trí tuệ nhân tạo được cho rằng sẽ không thể giống với cảm xúc con người, ít
nhất là với hướng phát triển và trình độ kỹ thuật trong tương lai gần, vì ở tầng mức
sâu nhất, chúng chỉ được lập trình để hiểu được ý nghĩa của những biểu hiện cảm
xúc ở con người, chứ bản thân chúng không tự cảm nhận được các cảm xúc đó. Về
căn bản, cảm xúc vốn dĩ rất trừu tượng cũng như thường có sự khác biệt giữa
những gì được nói ra và những gì thực sự được cảm nhận, thật vậy sẽ rất khó cho
một cỗ máy có thể đạt được mức độ hiểu biết này trong khoảng thời gian hiện tại.

Cảm xúc của con người được cho là vẫn luôn được phát triển song song cùng
lúc với trí thông minh khi nhìn lại về sự tiến hóa theo mặt giải phẫu và sinh lý học
của bộ não con người và hệ thần kinh, chính vì vậy con người có thể biểu đạt mọi
tình cảm hay cảm xúc riêng biệt của mình một cách tự nhiên nhất và theo thời gian,
cảm xúc ấy cũng được nâng cấp và đa dạng hơn rất nhiều. Con người tồn tại và
phát triển nhờ cảm xúc, nhờ được biểu lộ rất nhiều trạng thái cảm xúc khác nhau.
Khi làm việc cùng nhau, con người sử dụng cảm xúc như một quyền lợi để thể hiện

9
sự đồng cảm, tính hợp tác từ đó gia tăng năng suất và hiểu quả làm việc, đây cũng
là điều khác biệt mà chúng ta sẽ không thể tìm thấy đối với trí tuệ nhân tạo

2.1.3. Khả năng sáng tạo

Với trí tuệ nhân tạo, sáng tạo có thể được coi là bước đột phá cuối cùng cần đạt
được nếu công nghệ này muốn trở nên vượt trội hơn khi đặt lên bàn cân so sánh
cùng với trí tuệ con người. Cho đến nay, công nghệ mới, và đặc biệt là trí tuệ nhân
tạo đang thay đổi mạnh mẽ bản chất của quá trình sáng tạo. hông phải. Thực tế, từ
những năm 50 của thế kỷ XX, AI đã tham gia hỗ trợ con người làm nghệ thuật,
giúp viết những bản nhạc pop ballad, bắt chước phong cách của các họa sĩ vĩ đại và
thông báo các quyết định sáng tạo trong quá trình làm phim. Chỉ bằng những thuật
toán, AI không những đoán được ý nghĩ của con người qua hành vi của họ, mà còn
phát triển những ý tưởng nghệ thuật từ con người để từ đó góp phần hoàn thiện các
tác phẩm. Có thể nói thật dễ dàng để trí tuệ nhân tạo nghĩ ra ý tưởng gì đó mới lạ
một cách ngẫu nhiên, song vẫn rất khó để yêu cầu chúng nghĩ ra thứ gì đó độc đáo,
hữu dụng và mang được tính cá nhân như con người vẫn luôn làm.

Trí tuệ con người được cho là có khả năng sáng tạo vô hạn dựa trên tiềm năng
liên tưởng ở sâu trong não bộ. Hiện nay việc xem xét, đánh giá lại vai trò sáng tạo
của con người trong quá trình phát minh và tiến hóa công nghệ hoàn toàn cho thấy
những tín hiệu nổi bật vượt trội, cũng bởi ngay từ giai đoạn triết học cổ đại Hy Lạp
đã đánh giá sáng tạo là tình trạng, đặc điểm, thuộc tính đặc biệt của con người.
Được coi là dạng hoạt động cao nhất của nhân loại, sáng tạo trong trí tuệ con người
đã thôi thúc nhân loại không ngừng tìm kiếm và cải tiến những cái đã có thành cái
mới mẻ, hoặc tạo ra một cái hoàn toàn mới mang những giá trị đáp ứng yêu cầu
thực tế và có hiệu quả vượt trội, hay ngay chính AI cũng là một trong những sản
phẩm do con người tạo ra. Sự sáng tạo của con người, khác hẳn so với máy móc,

10
được tạo nên qua một quá trình dài phát triển xuyên suốt sự thăng hoa của nền văn
minh nhân loại hiện đại, sự sáng tạo đó không chỉ đến từ tài năng thiên bẩm ẩn sâu
trong những bộ não thiên tài sau hàng triệu năm tiến hoá của con người, mà nó còn
đến từ sự trau dồi, học hỏi và bổ trợ lẫn nhau giữa một cộng đồng, tập thể chung
luôn gắn kết và hành động cùng nhau. Mọi thành quả được làm dưới sự sáng tạo
văn minh của con người đều mang lại chiều sâu, dấu ấn riêng biệt và những hữu
ích nhất định để phục vụ cho đời sống tinh thần và hiện thực.

2.1.4. Khả năng tư duy

Khi nói về trí tuệ nhân tạo, có thể khẳng định rằng, khả năng học hỏi, tư duy
của chúng chủ yếu đến từ những thông tin do con người cung cấp và thuật toán cố
định do lập trình hìnhg thành nên. Do vậy, không thể cho rằng trí tuệ nhân tạo nhận
thức ra được hành động của mình bởi chính máy móc, công nghệ đó chỉ đang làm
những công việc theo mệnh lệnh của con người. Hiện tại, AI được lập trình để ghi
nhận dữ liệu từ các tình huống thực tế và giải quyết vấn đề tương tự trong tương
lai, chính điều này đã giúp con người giải quyết những công việc thiếu linh hoạt,
có tính dập khuôn, lặp lại nhờ vào thuật toán của trí tuệ nhân tạo. Song, khi nói đến
những công việc yêu cầu quá trình phân tích nguyên nhân – hệ quả phức tạp, hay
đơn giản là những việc yêu cầu phản xạ tự nhiên nhanh chóng, bất ngờ thì trí tuệ
nhân tạo vẫn chưa thể đạt đến trình độ để hoàn toàn có thể thay thế con người.

Trái lại, tư duy của con người là một nhân tố cực kỳ đa nhiệm giúp chúng ta có
thể đưa ra những phán đoán, suy luận một cách linh hoạt và uyển chuyển. Vì vậy,
một con người có thể đảm nhiệm nhiều vai trò, thực hiện nhiều công việc khác
nhau. Ý thức con người giúp họ có thể suy nghĩ về quá khứ, học hỏi từ những sai
lầm để thích ứng phù hợp hơn trong mỗi tình huống. Trí thông minh của con người
cho phép sửa đổi lời nói, hành vi đa dạng để thích hợp với môi trường và hoàn

11
cảnh xung quanh nhờ vào các quy trình nhận thức riêng biệt. Một lần nữa khẳng
định, khả năng tư duy của con người là bẩm sinh, nó tồn tại trong nội tại của một
con người để sau khi trải qua quá trình học tập, rèn luyện, ý thức đó càng được
phát triển mạnh mẽ và sâu sắc hơn nữa. Kỹ năng tư duy đóng vai trò quan trọng
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nó giúp con
người nhận thức được quy luật khách quan, từ đó có thể dự đoán một cách khoa
học xu hướng phát triển của các sự vật, hiện tượng, đồng thời có kế hoạch, phương
pháp cải tạo hiện thực khách quan, và cũng nhờ đó con người đã tạo ra AI và hàng
loạt các phát minh tiên tiến khác

2.2. “Hình dung về viễn cảnh tương lai với các công nghệ vật liệu mới và siêu
trí tuệ nhân tạo, liệu tương lai nhân loại có thể bị đe doạ?”

Cho đến thời điểm hiện tại, những thắc mắc xoay quanh vấn đề trí tuệ nhân tạo
và những cỗ máy siêu thông minh sẽ là điều tốt nhất hay tồi tệ nhất từng xảy ra với
loài người vẫn luôn gây nên nhiều tranh cãi trong giới khoa học. Và chính điều này
cũng đã đặt ra cho nhà nhà khoa học máy tính Alan Turing băn khoăn và suy nghĩ
về một viễn cảnh sẽ có lúc máy móc có thể tác động không giới hạn lên loài người
thông qua một quá trình bắt chước quá trình tiến hóa ngay từ năm 1940.

Ngày nay, trí tuệ nhân tạo đang mang lại những lợi ích thiết thực cho cuộc sống
con người mà nhiều chục năm về trước chúng ta không thể tưởng tượng. Sẽ không
khó để nhận ra, mối liên kết giữa robot và con người đang ngày một được thắt
chặt. Bước đầu, robot công tác tham gia sản xuất để cải thiện sức khỏe, kế đến đảm
nhiệm những tác vụ đơn giản và cuối cùng thay thế con người ở các công đoạn
nguy hiểm. Đây cũng chính là quá trình thế hệ robot thông minh UR đang dần thay
đổi phương thức con người làm việc trong tương lai. Tuy vậy, cho đến thời điểm
hiện tại và tương lai gần, trí tuệ nhân tạo sẽ chỉ có thể đóng vai trò để bổ sung, giúp

12
đỡ con người cho hầu hết các công việc chứ không thể thay thế hoàn toàn. Bởi
những cải tiến đáng kể nhất về hiệu suất chỉ có thể xảy ra khi con người và máy
móc làm việc cùng nhau. Chính bởi khi đó, con người và máy móc có thể bổ sung,
hỗ trợ lẫn nhau dựa theo từng điểm mạnh, điểm yếu.

Về phía con người, họ đóng vai trò huấn luyện máy móc phải làm gì, giải thích
kết quả, đặc biệt là khi những kết quả đó phản ánh trực giác hay liên quan đến
quan hệ nhân quả vì máy móc được cho rằng không thể đạt đến function này, để từ
đó điều hành, duy trì việc sử dụng máy móc một cách trách nhiệm, cẩn trọng nhất.
Về cơ bản, máy móc cũng cần con người nhiều như chúng ta cần chúng. Trong khi
đó, sự sáng tạo mang đặc tính cá nhân, trực giác nhạy bén, sự chủ động và tư duy
phê phán cũng là những kỹ năng của con người mà sẽ khó có khả năng chuyển
giao sang máy móc trong một tương lai gần. Mặc dù robot có thể hoạt động 24/7
cùng làm tốt những hành động được lập trình sẵn, nhưng chính chúng cũng không
thể khái quát hóa hoặc bối cảnh hóa từng nhiệm vụ tùy thuộc vào viễn cảnh trước
mắt. Thật vậy, trí tuệ nhân tạo không thể thực hiện những nhiệm vụ đòi hỏi tư duy
phản biện và giải quyết vấn đề dựa trên trực giác mà con người phát triển được sau
nhiều năm tiến hoá. Câu hỏi liệu AI có thay thế người lao động hay không chắc
chắn phải được cân nhắc qua một nhận định là AI và con người có những phẩm
chất và khả năng khác nhau. Máy móc dựa trên AI có thể vận hành nhanh hơn,
chính xác hơn hay hợp lý nhất quán hơn, nhưng chúng không nhạy cảm về mặt
trực giác, cảm xúc hoặc văn hóa. Và chính những khả năng này đã giúp con người
trở nên hiệu quả, vượt trội hơn. Song, cũng không thể ngầm gạt bỏ những thay đổi
to lớn mà trí tuệ nhân tạo mang đến cho con người trong thời kì cách mạng công
nghệ và vật liệu mới. Con người đang dần có thể chạm đến những chân trời tri thức
mới nhờ sự giúp đỡ của AI, từ đó phục vụ và đáp ứng nhu cầu của một xã hội sẽ
ngày một phát triển mạnh mẽ và tối tân.

13
Những tiềm năng nổi bật trong việc tăng cường và hợp tác với trí tuệ nhân tạo
nhiều hơn vào cuộc sống thường ngày mà chúng ta hình dung sẽ hoàn toàn trái
ngược với những dự đoán về một viễn cảnh bị thâu tóm, xâm chiếm mà AI sẽ
mang đến cho xã hội và tổ chức của chúng ta. Có thể tin chắc rằng, gia tăng năng
suất nhờ tự động hóa công việc thường ngày bằng trí tuệ nhân tạo, về mặt nhận
thức có thể thấy rõ là một lợi ích to lớn chứ không phải mối đe dọa. Nhìn vào thực
tại robot được sử dụng để thực hiện những công việc nặng nhọc, trong khi con
người hoàn thành các nhiệm vụ bổ trợ đòi hỏi sự khéo léo và khả năng phán đoán
cao hơn. Sự phân chia đầy hợp lý này sẽ giúp con người có thêm nguồn tài nguyên,
nhân lực và thời gian để tiếp tục phát triển tiềm năng xây dựng một nền văn minh
tiên tiến vượt bậc nhờ bàn tay của con người.

Ngay cả khi AI vượt qua những giới hạn mà con người không thể hiểu hết, thì
nó vẫn sẽ chỉ là một siêu công cụ để nâng cao khả năng của con người và cải thiện
lối sống của chúng ta, và cũng chính AI sẽ đóng vai trò nền móng tạo nên cho con
người động lực, thách thức để không ngừng phát triển, rèn luyện tư duy, hiểu biết,
nâng cao tri thức để có thể luôn thống trị, quản lý, đưa ra những quyết định trọng
đại trong tương lai. Chúng ta có thể sẽ rất khó để xác định về một viễn cảnh tương
lai xa xôi nhưng với quá trình tập trung phát triển, tận dụng thế mạnh ý thức, thì
con người chắc chắn sẽ không thể bị đe doạ bởi máy móc ở bất kì hoàn cảnh nào.
Công nghệ phát triển nhưng chắc chắn đi đôi với đó phải là sự năng động sáng tạo
không ngừng nghỉ trong tư duy và ý thức của mỗi con người khi trong cuộc chiến
thời đại mới này, cả máy móc lẫn nhân loại đều những có điểm mạnh để hỗ trợ,
điểm yếu để bù trừ cho lẫn nhau, thật vậy khi biết dung hoà, hợp tác, áp dụn hiệu
quả thì máy móc sẽ có thể góp sức đưa con người chạm tới những thành công vượt
bậc trong tương lai.

14
KẾT LUẬN

Ý thức có vai trò vô cùng quan trọng với thực tiễn cuộc sống bởi nó không chỉ là
sản phẩm, là quá trình phản ánh chân thật về sự năng động, sáng tạo, về thế giới
khách quan riêng biệt của mỗi con người, mà còn là yếu tố tiên quyết cho sự thông
minh, nhạy bén của não bộ. Bài nghiên cứu về bản chất, kết cấu của ý thức cũng
giúp em tự tổng hợp cho bản thân một cái nhìn tổng quan, toàn diện hơn về ý thức
theo cách nhìn nhận gắn liền với đời sống. Xét về nhiều mặt, ý thức không còn chỉ
là những khái niệm trừu tượng, mơ hồ mà nó hiện hữu ngay trong tiềm thức, qua
thế giới quan của con người, giúp con người không ngừng phát triển, hoàn thiện
hơn mỗi ngày. Việc tạo cho bản thân một nền tảng chắc chắn về ý thức cũng giúp
em hiểu được rằng chính ý thức luôn là đơn vị chịu trách nhiệm chỉ đạo cho mọi
hoạt động trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định, rèn luyện tư duy, tiềm
thức thì cũng để luôn hướng bản thân đến những việc làm đúng đắn.

Ý thức là nhân tố độc quyền của nhân quyền mà sẽ không thể tìm thấy ở bất kì
vật nào khác. Trong thời đại công nghệ và vật liệu mới, sẽ rất khó để khẳng định
những siêu trí tuệ có được phát triển, lập trình để tự tích luỹ cho bản thân ý thức
hay không, nhưng chắc chắn rằng đó sẽ không phải câu chuyện trong tương lai
gần. Công nghệ là sản phẩm của ý thức, tư duy con người nên nó sẽ không thể trở
thành mối đe doạ tiềm ẩn nếu con người biết cách quản lý và sử dụng chúng hợp
lý. Phụ thuộc quá vào trí tuệ nhân tạo không phải là tốt nhất nhưng áp dụng công
nghệ vào thực tiễn sẽ mang lại nhiều lợi ích cho nhân loại. Qua việc nghiên cứu lý
luận chung của ý thức, mỗi sinh viên nói riêng, con người nói chung cần từng bước
xây dựng thế giới quan khoa học, tìm tòi những phương pháp mới để không ngừng
phát triển bản thân, nâng cao tri thức để sẵn sàng đưa xã hội ngày một hiện đại, tối
tân.

15
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. (2021), Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Hà Nội: Nhà xuất bản chính trị
quốc gia sự thật
2. Nguyễn Đức Bình, (1994), C.Mac và PH,ĂNG -GHEN toàn tập - tập 20,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
3. Bản chất và kết cấu của ý thức, (09/02/2015), From Triết học plus:
http://www.triethoc.info/2015/02/ban-chat-va-ket-cau-cua-y-thuc.html
4. Nguyễn Nam, Ví dụ về bản chất của ý thức, (05/2022), From Luật Hoàng
Phi: https://luathoangphi.vn/vi-du-ve-ban-chat-cua-y-thuc/
5. Viện pháp luật và ứng dụng, Bản chất và kết cấu của ý thức, (15/06/2021),
From Viện Pháp luật ứng dụng Việt Nam:
https://vienphapluatungdung.vn/ban-chat-va-ket-cau-cua-y-thuc.html
6. Kết cấu của ý thức, (12/01/2022), From https://giasuglory.edu.vn/ly-luan-
chinh-tri/triet-hoc-mac-lenin/phan-tich-ket-cau-cua-y-thuc-triet-hoc-mac-
lenin-60.html

16
17

You might also like