You are on page 1of 13

I.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN


-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN THMLN

ĐỀ BÀI: Vai trò của tri thức đối với ý thức. Ở Việt Nam,
tri thức có vai trò gì trong hoạt động của con người

Họ và tên SV:
Lớp tín chỉ: Tài chính Tiên tiến 64C
Mã SV: 11222997

GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU

........................................................................
HÀ NỘI, NĂM 2021
-
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................3

NỘI DUNG....................................................................................................4

Chương I: Lý luận chung của triết học về ý thức và tri thức. Vai trò
của tri thức với ý thức.........................................................................................4
1.1. Khái niệm ý thức...............................................................................4
1.2. Nguồn gốc của ý thức.......................................................................4
1.2.1. Các quan niệm về nguồn gốc của ý thức...................................4
1.2.2. Nguồn gốc tự nhiên của ý thức..................................................5
1.2.3. Nguồn gốc xã hội của ý thức.....................................................5
1.3. Khái niệm tri thức.............................................................................6
1.4. Vai trò của tri thức đối với ý thức.....................................................6
1.4.1. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức.................................7
1.4.2. Tri thức là tiền đề để ý thức phát triển.......................................7

Chương II: Vai trò của tri thức với hoạt động của con người ở Việt
Nam.......................................................................................................................7
2.1. Vai trò của tri thức đối với kinh tế - Kinh tế tri thức.......................7
2.2. Vai trò của tri thức đối với chính trị...............................................10
2.3. Vai trò tri thức đối với văn hoá - giáo dục......................................11

KẾT LUẬN..................................................................................................12

TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................13

2
MỞ ĐẦU

Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là hình
thức phản ảnh thế giới khách quan một cách chủ quan mà chỉ riêng con người mới có. Ý
thức xã hội, đối với con người, có tác động vô cùng lớn; nó không chỉ dẫn lối cho hoạt
động thực tiễn, mà còn là động lực thực tiễn.

Tri thức là những kiến thức về thế giới mà con người thu nạp được thông qua quá
trình học tập và trau dồi. Nó là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất cấu thành nên ý thức. Tri
thức càng tích luỹ được nhiều, thì ý thức của con người càng cao, từ đó có thể đi sâu vào
bản chất sự việc và cải tạo thế giới một cách hiệu quả hơn.

Loài người chúng ta đang bước vào ngưỡng cửa của nền văn minh trí tuệ. Trong
đó, nền kinh tế tri thức là bộ phận nắm vai trò chủ chốt của thời đại thông tin. Sự biến đổi
của nền kinh tế thế giới đang diễn ra rất nhanh. Nền kinh tế nước ta có xuất phát điểm
thấp, vì vậy nên đứng trước cơ hội tiếp cận nền kinh tế tri thức, ta phải bắt kịp tri thức
mới của thời đại. Đại hội VIII đã khẳng định phải: “đi tắt đón đầu” nếu không làm được
thế thì sự tụt hậu là rất dễ xảy ra.

Suy cho cùng, ý thức đóng một vai trò không nhỏ trong việc cải tạo xã hội. Cần
hiểu sâu và biết tận dụng ý thức và tri thức, từ đó tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện
của xã hội.

3
NỘI DUNG

Chương I: Lý luận chung của triết học về ý thức và tri thức. Vai trò của tri thức
với ý thức

1.1. Khái niệm ý thức


Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lênin là một phạm trù được quyết định
với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ
óc con người và có sự cải biên và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ biện chứng với vật
chất.

Theo tâm lý học, ý thức được định nghĩa là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ
có ở con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức là toàn bộ sản
phẩm những hoạt động tinh thần của con người, bao gồm những tri thức, kinh nghiệm,
những trạng thái tình cảm, ước muốn, hy vọng, ý chí niềm tin, ... của con người trong
cuộc sống. Ý thức là sản phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã hội, là
kết quả của quá trình phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc của con người.

1.2. Nguồn gốc của ý thức


1.2.1. Các quan niệm về nguồn gốc của ý thức
 Chủ nghĩa duy tâm: Ý thức là bản thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn, là nguyên nhân
sinh thành, chi phối sự tồn tại, biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất

 Chủ nghĩa duy vật siêu hình: Xuất phát từ thế giới hiện thực để lý giải nguồn gốc
của ý thức; coi ý thức cũng chỉ là một dạng vật chất đặc biệt, do vật chất sản sinh
ra.

4
 Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Ý thức xuất hiện là kết quả của quá trình tiến hoá
lâu dài của giới tự nhiên, của lịch sử trái đất, đồng thời là kết quả trực tiếp của
thực tiễn xã hội - lịch sử của con người

1.2.2. Nguồn gốc tự nhiên của ý thức


 Bộ óc người và mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá
trình phản ánh năng động, sáng tạo.
 Bộ óc người: Là một dạng vật chất sống đặc biệt, có tổ chức cao, trải qua quá trình
tiến hóa lâu dài về mặt sinh vật – xã hội. Ý thức là thuộc tính của riêng dạng vật
chất này. Ý thức phụ thuộc vào hoạt động của bộ óc người, nên khi óc bị tổn
thương thì hoạt động ý thức không diễn ra bình thường hoặc rối loạn.
 Sự tác động của thế giới bên ngoài lên bộ óc người: Phản ánh là sự tái tạo những
đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình
tác động qua lại giữa chúng. Nói một cách dễ hiểu, phản ánh chính là sự chép lại,
chụp lại, kể lại một cái gì đó. Chép lại lời nói ra giấy là sự phản ánh. Chụp một
bức ảnh cũng là sự phản ánh.

1.2.3. Nguồn gốc xã hội của ý thức


Lao động và ngôn ngữ là yếu tố quyết định cho sự ra đời, biến đổi của ý thức

i. Lao động:
 Về khái niệm: Được hiểu là quá trình con người sử dụng công cụ lao động để tạo
ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của con người
 Về vai trò:
o Hoạt động thực tiễn của loài người mới là nguồn gốc trực tiếp quyết định
sự ra đời của ý thức
o Con người biết chế tạo ra các công cụ và sử dụng chúng để tạo ra của cải
vật chất
o Lao động giúp não bộ con người được phát triển và hoàn thiện

5
o Hình thành nên ngôn ngữ

ii. Ngôn ngữ:


 Về khái niệm: Được hiểu là hệ thống những kí hiệu, quy ước dùng để trao đổi,
truyền đạt thông tin
 Về vai trò:
o Làm cho sự phản ánh không còn lệ thuộc trực tiếp vào thế giới khách quan
o Là công cụ, phương tiện của tư duy
o Là công cụ, phương tiện diễn đạt, chính xác hóa tư tưởng
o Giúp con người tổng kết thực tiễn, trao đổi thông tin, truyền tải tri thức –
Tạo nên phương thức di truyền mới.

1.3. Khái niệm tri thức


Tri thức bao gồm tất cả kiến thức, thông tin, kỹ năng tích luỹ được qua quá trình
giáo dục, trải nghiệm hoặc tự học hỏi. Nó có thể là sự hiểu biết về một đối tượng, về mặt
lý thuyết hay thực hành.

1.4. Vai trò của tri thức đối với ý thức


Khi xem xét ý thức với các yếu tố hợp thành các quá trình tâm lý tích cực đem lại
sự hiểu biết của con người về thế giới khách quan, ta có: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí
trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất. Muốn cải tạo được sự vật, trước hết con
người phải có sự hiểu biết sâu sắc về sự vật đó. Do đó, nội dung và phương thức tồn tại
cơ bản của ý thức là tri thức. Ý thức mà không bao hàm tri thức, không dựa vào tri thức
thì ý thức đó là một sự trừu tượng trống rỗng, không giúp ích gì cho con người trong hoạt
động thực tiễn.

Theo C.Mác, “phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì tồn tại
đối với ý thức là tri thức..., cho nên một cái gì đó ấy sinh ra đối với ý thức, chừng nào ý
thức biết cái đó”. Tích cực tìm hiểu, tích lũy tri thức về thế giới xung quanh là yêu cầu

6
thưởng xuyên của con người trên bước đường cải tạo thế giới. Tuy nhiên, không thể đồng
nhất ý thức với sự đồng nhất ý thức với sự hiểu biết, tri thức về sự vật.

1.4.1. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức


Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức vì bởi lẽ trí thức là một phần của ý thức,
là thành phần quan trọng cấu thành nên ý thức. Xây dựng một ý thức tốt thì đồng thời
phải xây dựng một tri thức tốt, đúng đắn.

1.4.2. Tri thức là tiền đề để ý thức phát triển


Tri thức phát triển song song với sự phát triển của ý thức. Vì khi có một tri thức
tốt, đúng đắn thì ý thức của con người sẽ tự tốt lên. Khi con người có tri thức, có hiểu
biết, am hiểu sâu rộng tới mọi vấn đề hay lĩnh vực xã hội, thì con người ta dễ dàng thực
hiện được những mục tiêu, ham muốn, ước nguyện của bản thân, chỉ có tri thức được lấy
bằng chính mồ hôi công sức thì mới mang lại được hiệu quả.

Chương II: Vai trò của tri thức với hoạt động của con người ở Việt Nam

Tri thức có thể hiểu là sản phẩm đặc thù của xã hội, sự ra đời của tri thức thường
gắn liền với sự hình thành của xã hội loài người. Do đó, không thể tách trí thức ra khỏi xã
hội để định nghĩa xem tri thức là gì cũng như mong muốn hiểu sâu hơn về tri thức. Vai
trò của tri thức trong xã hội là rất cần thiết và quan trọng.

2.1. Vai trò của tri thức đối với kinh tế - Kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức là loại hình kinh tế dựa trên tri thức, khoa học là chính, phản ánh
sự phát triển ở trình độ cao của lực lượng sản xuất. Trong mô hình này, tri thức trở thành
nhân tố sản xuất quan trọng nhất, đóng góp chính vào sự phát triển của xã hội.
Đây là xu hướng của nền kinh tế hiện đại, trong đó tri thức, chất xám phát huy tối
đa khả năng sinh lợi và mang lại hiệu quả lớn trong các ngành như: nông-lâm-ngư
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ.

7
Các vai trò của nền kinh tế tri thức:
– Tri thức là lực lượng sản xuất trực tiếp
Tri thức là nguồn lực quan trọng nhất, đóng vai trò đầu tàu trong nền kinh tế dựa
vào tri thức. Tri thức phải được áp dụng vào sản xuất của cải vật chất, là động lực phát
triển nền kinh tế. Chính vì vậy đòi hỏi lực lượng lao động có chất xám, kỹ thuật, tay
nghề, được đào tạo bài bản ngày càng cao.

– Nền kinh tế tri thức dựa trên khoa học công nghệ
Trong nền kinh tế công nghiệp thì sức cạnh tranh phần lớn dựa trên việc tối ưu hóa
và hoàn thiện các công nghệ sẵn có. Thì, nền kinh tế tri thức phải dựa trên việc nghiên
cứu, sáng tạo, chế tạo ra công nghệ mới

– Cơ cấu lao động chuyển dịch


Trong nền kinh tế tri thức thì lao động trí tuệ tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị càng
cao trong thời gian càng ngắn. Cơ cấu lao động sẽ phải chuyển dịch từ lao động có trình
độ thấp quen với công việc chân tay hoặc thiếu đổi mới sang lao động trí tuệ.
Một trong những vấn đề quan trọng là nguồn lực phải được tri thức hóa, sáng tạo
hơn, đổi mới và ngừng học tập để theo kịp, đáp ứng những nhu cầu mới nhất của xã hội

– Coi trong quyền sở hữu trí tuệ


Trong nền kinh tế tri thức thì quyền sở hữu trí tuệ là sự đảm bảo pháp lý cho tri
thức, từ đó sự sáng tạo mới được coi trọng, duy trì và tiếp tục sáng tạo. Năng lực đổi mới
và nguồn lực trí tuệ được xem là yếu tố then chốt để nâng cao tính cạnh tranh, tiềm năng
phát triển và sự thịnh vượng của một Quốc gia hoặc vùng lãnh thổ.

– Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu

8
Nền kinh tế tri thức chỉ được hình thành và phát triển thực sự khi lực lượng lao
động có trình độ cao, phân công lao động mang tính quốc tế và hệ thông sản xuất kết nối
giữa các doanh nghiệp đến từ nhiều quốc gia.
Các quốc gia sẽ luôn có gắng tạo ra các công dân toàn cầu, có thể làm việc ở bất
cứ nước nào có cùng trình độ, cần đến kinh tế tri thức và tiến tới toàn cầu hóa thật sự.

Trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, kinh tế tri thức ảnh hưởng đến
các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Từ những năm đầu đổi mới, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã nhận thức rõ cần phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH để thoát khỏi
nước chậm phát triển, từng bước nâng cao đời sống nhân dân.

CNH, HĐH và phát triển kinh tế tri thức được Đảng ta xác định chính thức từ Hội
nghị Trung ương 7 khóa VII (tháng 7-1994). Hội nghị xác định: “Ưu tiên ứng dụng và
phát triển các công nghệ tiên tiến như công nghệ thông tin, phục vụ yêu cầu điện tử hóa
và tin học hóa nền kinh tế quốc dân”.

Đến tháng 6-1996, Đại hội VIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Ứng dụng công
nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực kinh tế quốc dân, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về
năng suất, chất lượng và hiệu quả, hình thành mạng thông tin quốc gia, liên kết với mạng
thông tin quốc tế”.

Đại hội IX của Đảng (năm 2001) đã nhận định: “Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều
biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò
ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”. Chiến lược phát triển
kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 đã xác định: “Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó
con người và tri thức đang trở thành lợi thế chủ yếu của mỗi quốc gia”.

Trên cơ sở thực tiễn, các Đại hội X, XI, XII của Đảng đều nhấn mạnh vị trí, vai
trò, nội dung và biện pháp nhằm phát triển kinh tế tri thức trong sự nghiệp đổi mới của

9
đất nước. Như vậy, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc và không ngừng nhấn mạnh tầm quan
trọng của kinh tế tri thức trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, xác định đó là xu hướng,
quy luật phát triển.

Qua hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu trên tất các lĩnh vực
kinh tế - xã hội. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được
cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Bên cạnh những thuận lợi, trong
bối cảnh hiện nay, với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt là công nghệ số
và trí tuệ nhân tạo phát triển mạnh mẽ, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc
gia, dân tộc. Việt Nam phải nhanh chóng bắt nhịp với xu thế của thời đại, cần phải đẩy
mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.

2.2. Vai trò của tri thức đối với chính trị
Tri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến thức. Người có tri thức là
có khả năng tư duy lý luận, khả năng phân tích tiếp cận vấn đề một cách sát thực, đúng
đắn. Điều này rất quan trọng, một đất nước rất cần những con người như vây để điều
hành công việc chính trị. Nó quyết định đến vận mệnh của một quốc gia. Đại hội VI của
Đảng đã đánh dấu một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong nhận thức về nguồn lực con
ngươì. Đại hội nhấn mạnh: ”Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người
làm mục đích cao nhất của mọi hoạt đông”chiến lược phát triển con người đang là chiến
lược cấp bách. Chúng ta cần có những giải pháp trong việc đào tạo cán bộ và hệ thống tổ
chức.

Trí thức Việt Nam xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, nhất là từ công
nhân và nông dân; phần lớn trưởng thành trong xã hội mới, được hình thành từ nhiều
nguồn đào tạo ở trong và ngoài nước, với nhiều thế hệ nối tiếp nhau, trong đó có bộ phận
trí thức người Việt Nam ở nước ngoài. Đội ngũ trí thức nước ta có tinh thần yêu nước, có
lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc, luôn gắn bó với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh
đạo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
10
Trí thức góp phần tạo lập cơ sở khoa học cho xây dựng, hoàn thiện đường lối,
cũng như đề xuất phương thức hiệu quả để thực hiện tốt đường lối phát triển đất nước.

Bằng các nghiên cứu của mình, đội ngũ trí thức có thể xác định, đề xuất phương
cách phát triển từ chính những tri thức nhân loại được tích hợp, truyền nối lại, đồng thời
với hoạt động nghiên cứu tổng kết chỉ ra cơ sở thức tiễn, những ưu thế, lợi thế mà quốc
gia, dân tộc hiện có, cũng như sẽ có, hình thành trong tương lai trên cơ sở của sự phát
triển khoa học công nghệ và tận dụng cơ hội, nguồn lực bên ngoài. Nói cách khác bằng
các hoạt động lý luận và tổng kết thực tiễn, đội ngũ trí thức góp phần xây dựng cơ sở
khoa học cho hoạch định đường lối đúng đắn có tính khả thi.

2.3. Vai trò tri thức đối với văn hoá - giáo dục
Tri thức cũng có vai trò rất lớn đến văn hoá - giáo dục của một quốc gia. Nó giúp
con người có được khả năng tiếp cận, lĩnh hội những kiến thức, ý thức của con người
được nâng cao. Và do đó nền văn hoá ngày càng lành mạnh. Có những hiểu biết về tầm
quan trọng của giáo dục. Từ đó xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh, phồn vinh.

Khi trở thành con người có tri thức thì sống theo chuẩn mực đạo đức tốt, giữ gìn
cũng như phát huy được những giá trị văn hóa tốt đẹp ông cha ta để lại. Một câu hỏi đề
ra, nếu bản thân mỗi công dân không có am hiểu về tri thức, tri thức sách vở, tri thức
trong cách sống, tri thức trong sự nhìn nhận thì xã hội sẽ duy trì như thế nào. Trí thức
hình thành được là nhờ sự tiếp thu kiến thức cũng như học hỏi được những kỹ năng, một
xã hội sẽ lạc hậu, không có sự phát triển là xã hội còn xuất hiện những con người không
có tri thức, một thành phần thừa trong xã hội.

Vai trò cuối cùng mà tri thức mang lại cho xã hội là sự hội nhập quốc tế, giao lưu
học hỏi kiến thức hay những truyền thống tốt đẹp của các quốc gia khác là rất cần thiết,
hay là tham gia các cuộc thi quốc tế mà các vấn đề cần quan tâm ở đây là ngôn ngữ tiếng
11
anh phải thực sự tốt và chuyên môn cao. Xã hội sẽ được sánh ngang với các cường quốc
năm châu, sự sáng tạo cũng như những phát minh hay, mới lạ thì công dân có tri thức là
không thể thiếu, là công cụ giúp giải quyết mọi vấn đề khó khăn không chỉ cho bản thân,
gia đình mà còn cho cả xã hội.

KẾT LUẬN

Có thể thấy rằng, tri thức đang đang nắm vai trò chủ chốt trong công cuộc đổi mới
và phát triển đất nước, đặc biệt là trong thế kỉ 21 – thời đại có nhiều cuộc chuyển mình
mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực và trên toàn thế giới. Đây là cơ hội, nhưng đồng thời cùng
là thách thức to lớn cho mọi quốc gia, và Việt Nam cũng không ngoại lệ.

Ở Việt Nam, tri thức đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển đất nước và định
hướng mỗi bản thân con người. Tri thức là động lực thúc đẩy xã hội trở nên tốt đẹp và
văn minh hơn. Để tạo dựng nên các doanh nghiệp mạnh thì tri thức là chìa khóa, là vũ khí
để tham gia cuộc cạnh tranh thị trường trên toàn thế giới. Không có tri thức, cuộc sống
của con người sẽ trở nên khó khăn hơn bao giờ hết, tất cả chỉ “giậm chân tại chỗ”, không
phát triển đi lên được. Việt Nam cần chú trọng hơn nữa trong việc đào tạo nhân tài đất
nước, không thể để tình trạng “chảy máu chất xám” kéo dài đồng thời tạo điều kiện để
nhân tài phát triển, không thể để tài năng của họ bị chôn vùi và lãng quên. Mỗi người
chúng ta có nhiệm vụ tìm hiểu những tri thức mới, cập nhật và làm chủ những tiến bộ
khoa học của loài người để góp phần phát triển đất nước hùng mạnh.

Xu hướng xây dựng và phát triển tri thức là xu hướng tất yếu của lịch sử, vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh” Việt Nam không thể đi
ngược xu hướng đó. Nước ta đã nắm bắt được rất nhiều cơ hội và từ đó có thể phát triển
nền tri thức, theo kịp nền kinh tế của các nước phát triển. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn
những khó khăn mà chúng ta phải vượt qua. Nước ta phải vận dụng những điều kiện
thuận lợi để đẩy lùi nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tiến vào thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Tăng cường mở rộng các mối quan hệ ngoại giao, tìm hiểu kinh
12
nghiệm của các nước tiên tiến. Và một điều quan trọng nữa là phải chăm lo đến cải cách
giáo dục về con người và vật chất nước nhà.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin

2. PGS.TS. Vũ Văn Hà & Ths. Vũ Thị Phương Dung (11/9/2022), “Vai trò và các yếu tố
ảnh hưởng tới việc phát huy vai trò đội ngũ trí thức hiện nay”,
<https://tuyenquang.dcs.vn/DetailView/104279/6/Vai-tro-va-cac-yeu-to-anh-huong-toi-
viec-phat-huy-vai-tro-doi-ngu-tri-thuc-hien-nay.html>

3. TS. Nguyễn Thị Chinh & ThS. Nguyễn Trung Kiên (30/4/2022), “Phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng”,
<http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/4182-phat-trien-kinh-
te-tri-thuc-o-viet-nam-theo-tinh-than-nghi-quyet-dai-hoi-xiii-cua-dang.html>

4. GS, TS. Nguyễn Trọng Chuẩn (18/3/2021), “Trí thức Việt Nam với sự nghiệp đổi mới
và phát triển đất nước trong bối cảnh chuyển đổi số”,
<https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/
content/tri-thuc-viet-nam-voi-su-nghiep-doi-moi-va-phat-trien-dat-nuoc-trong-boi-canh-
chuyen-doi-so>

13

You might also like