You are on page 1of 13

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN


Đề tài: Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tri thức, vai trò của tri
thức và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên.

Họ và tên: Nguyễn Huyền Đan


Mã số sinh viên: 6
Lớp TC: Triết học Mác – Lênin (221)_39
GV hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng

Hà Nội, 2022.
MỞ ĐẦU
Chính khách người Anh nổi tiếng Francis Bacon từng nói: “Tri thức là sức
mạnh”. Sau này Lê-nin, nhà triết học, nhà chính trị vĩ đại đã phát triển thành:
“Tri thức là sức mạnh. Ai có tri thức, người đó có sức mạnh”. Thật vậy,
không ai có thể phủ nhận sức mạnh làm thay đổi thế giới của tri thức. Nhờ có
tri thức mà con người có thể tách mình ra khỏi thế giới loài vật hoang dã, trở
thành loài người văn minh thông qua hệ thống chữ viết, văn hóa trong xã hội
loài người. Và hiện tại, con người đạt được vô số thành tựu trong rất nhiều
lĩnh vực như kinh tế, công nghệ thông tin, sinh học, vật lí, hàng không,… đều
do có tri thức. Không chỉ có vậy, đất nước ta đang trên con đường cách mạng
công nghệ 4.0 lẫn công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thế nên
chúng ta càng cần đến tri thức và cần phát triển tri thức để đưa nền kinh tế
nước nhà bắt kịp và phát triển cùng thế giới.
Có được tri thức và vận dụng tri thức mình có được vào trong đời sống thực tế
chính là cách hiệu quả nhất để rèn luyện và phát triển bản thân, tự tạo nên giá
trị của chính mình. Với sinh viên đại học, tri thức là người bạn song hành trên
chặng đường mở rộng thế giới quan và tiếp cận đến những sáng kiến, thành
tựu đồ sộ của loài người, từ đó là bước đệm cho dòng sông tri thức tiếp tục
được tuôn chảy. Nắm trong tay tri thức, không thể phủ nhận rằng quá trình
học tập và nghiên cứu của sinh viên sẽ trở nên dễ dàng và đạt hiệu quả cao
hơn. Chính vì vậy, tìm hiểu quan điểm của triết học Mác – Lênin về vấn đề tri
thức là gì, vai trò của tri thức cũng như sự vận dụng quan điểm đó trong
nghiên cứu, học tập của sinh viên là việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết.

NỘI DUNG
1. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ TRI THỨC, VAI
TRÒ CỦA TRI THỨC.
1.1. Tri thức là gì?
1.1.1. Khái niệm về tri thức.
Tri thức đã có từ lâu trong lịch sử, có thể nói từ khi con người bắt đầu có ý
thức thì lúc đó có tri thức. Trải qua một thời gian dài phát triển của lịch sử,
cho đến những thập kỷ gần đây tri thức và vai trò của nó đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội mới được đề cặp nhiều. Vậy tri thức là gì?
Có rất nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng có thể hiểu Tri thức là kết quả
quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư

1
tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng
dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác.
Thời kỳ nguyên thuỷ, tri thức được tích luỹ rất ít, một số ít thông tin được ứng
dụng vào sản xuất, yếu tố sản xuất chỉ là đất đai và sức lao động. Dần dần, kỹ
thuật phát triển, tri thức được tích luỹ tương đối nhiều, một lượng trung bình
thông tin được ứng dụng vào sản xuất, tri thức được dùng nhưng vẫn còn
tương đối ít, được dùng gián tiếp vảo sản xuất, kỹ thuật. Và đến thời kỳ bùng
nổ thông tin các phát minh sáng chế, cách mạng khoa học kỹ thuật, một lượng
siêu lớn thông tin được ứng dụng trực tiếp vào sản xuất, khoa học và kĩ thuật
là sức sản xuất hàng đầu. Do vậy, tri thức là nhận thức và kinh nghiệm mà
loài người thu được trong quá trình cải tạo thế giới.
1.1.2. Nguồn gốc của tri thức
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, ý thức bao gồm các yếu tố cấu
thành như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí... trong đó tri thức là yếu tố
cơ bản, cốt lõi. Vậy nên có thể nói rằng sự ra đời của ý thức cũng chính là
nguồn gốc của tri thức.
Hiện nay có rất nhiều quan điểm cho giải thích cho nguồn gốc của ý thức.
Quan điểm duy vật biện chứng thì cho rằng ý thức có 2 nguồn gốc: nguồn gốc
tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
a) Nguồn gốc tự nhiên.
Cụm từ “tự nhiên” đã dần khái quát rằng nội dung của ý thức sẽ xuất phát từ
sự hình thành của bộ óc con người, do con người tự hình thành trong bộ não,
dưới sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau như hoàn cảnh, giáo dục,… Hoạt
động của bộ óc con người sẽ dần dần giúp cho con người hình thành các mối
quan hệ giữa con người với thế giới khách quan, từ đó chính những sự vật, sự
việc xuất phát từ thực tiễn sẽ tạo ra cho con người sự sáng tạo, năng động.
Trên bộ phận của con người thì não bộ chính là bộ phận điều chỉnh, hành vi
của con người. Và ý thức chính là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ
chức cao là bộ óc người, là chức năng của bộ óc, là kết quả sau quá trình liên
kết, hoạt động của não bộ để tạo ra kết quả là hành vi con người. Chính vì vậy
mà một bộ não hoàn thiện và phát triển đầy đủ sẽ tác động đến ý thức của con
người, khiến ý thức cũng trở nên phong phú và sâu sắc hơn.
Đồng thời những mối quan hệ xoay quanh giữa con người với nhau trong thế
giới khách quan cũng sẽ tạo nên và tác động sâu sắc đến việc suy nghĩ của
con người. Trong mối quan hệ này, thế giới khách quan sẽ thông qua hoạt
động của các giác quan đã tác động đến bộ óc con người, hình thành nên quá

2
trình phản ánh. Một hành vi được thực hiện chính là sự phản ánh rõ rệt nhất
đối với ý thức.
b) Nguồn gốc xã hội.
Xã hội ở đây được hiểu là những hành vi lao động, hành vi ứng xử và ngôn
ngữ của con người được sử dụng để thể hiện những nội dung của ý thức một
cách chi tiết và chân thực nhất.
Lao động chính là những hoạt động của con người sử dụng công cụ tác động
vào giới tự nhiên, nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của
con người. Lao động sẽ tác động đến ý thức của con người, đưa ra chỉ dẫn con
người cần phải làm gì và làm như thế nào để có thể thực hiện công việc một
cách có hiệu quả nhất, vừa tiết kiệm được thời gian và công sức. Do đó, lao
động có một tác động rất lớn đến việc hình thành suy nghĩ của con người.
Hành vi ứng xử giữa người với người cũng chính là yếu tố tác động sâu sắc
đến việc hình thành, thay đổi ý thức của mỗi người. Khi một đứa trẻ được
giáo dục và sinh sống tại một môi trường sống lành mạnh, văn minh sẽ vô
tình giúp đứa trẻ nhận thức rằng bản thân cũng phải có những hành vi ứng xử
như thế thì mới đúng và giống với mọi người xung quanh. Như vậy, việc con
người đối xử với nhau chân thật hay lừa dối lẫn nhau cũng sẽ khiến cho người
rơi vào hoàn cảnh đó nhận thức được việc làm như thế là sai hay đúng, có lợi
cho bản thân hay không, từ đó dần hình thành nên suy nghĩ của bản thân.
Ngôn ngữ cũng tương tự như hành vi con người. Con người sử dụng chung
một loại ngôn ngữ trong một quốc gia sẽ nhận thức được đây là một dân tộc
và cần có những hành vi ứng xử phù hợp hơn để trở thành một phần của dân
tộc đấy. Đồng thời, khi con người sử dụng ngôn ngữ để bày tỏ ra quan điểm
của bản thân cũng sẽ khiến cho đối phương nhận thức được những hàm ý
trong lời nói, từ đó hình thành nên ý thức của bản thân về một vụ việc nào đó.
Do đó, ngôn ngữ chính là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang
nội dung ý thức, không có ngôn ngữ thì thì ý thức không thể tồn tại được.
Như vậy, chúng ta có thể thấy ý thức được hình thành dựa trên hai nguồn gốc
trên. Những yếu tố trên sẽ tác động mạnh mẽ đến việc hình thành ý thức của
con người. Nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn
ngữ; đó là hai sự kích thích chủ yếu làm cho bộ óc vượn dần dần chuyển hóa
thành bộ óc người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý
thức. Sự ra đời của ý thức là khởi nguồn cho những tri thức đầu tiên của loài
người về thế giới khách quan. Ý thức ngày một phát triển dẫn đến tri thức
càng được mở rộng và phong phú hơn.

3
1.1.3. Phân loại tri thức.
Tri thức được phân thành tri thức thông thường và tri thức khoa học.
a) Tri thức thông thường:
Hiểu một cách đơn giản và dễ hình dung nhất là trong đời sống, con người
thường phải thường xuyên tiếp xúc với tự nhiên, với xã hội, phải giải quyết
nhiều công việc thực tế hàng ngày. Những công việc này người ta đều có thể
cảm nhận bằng các giác quan để cảm nhận về bản thân, về thế giới xung
quanh rồi rút ra kinh nghiệm sống. Đó là tri thức thông thường mà không phải
ai cũng biết.
b) Tri thức khoa học:
Phức tạp hơn tri thức thông thường. Sự phát triển của lao động sản xuất và
hoạt động xã hội là nguyên nhân khiến con người phải tìm hiểu sâu hơn,
nghiên cứu đầy đủ hơn về thế giới và tìm hiểu khả năng nhận thức của chính
mình. Tri thức khoa học là hệ thống tri thức khái quát về các sự vật, hiện
tượng của thế giới và các quy luật vận động của chúng. Đây là hệ thông tri
thức được xác lập dựa trên căn cứ xác đáng có thể kiểm tra được và có tính ức
dụng trong các hoạt động phát triển đất nước hay bất cứ hoạt động nào cần tới
vận dụng sâu tri thức. Tri thức khoa học được phân thành tri thức kinh
nghiệm và tri thức lý luận.
Tri thức khoa học và tri thức thông thường khác nhau nhưng lại bổ trợ cho
nhau để cùng tồn tại. Tri thức khoa học tuy phức tạp hơn tri thức thông
thường nhưng nó có thể xuất phát từ tri thức thông thường. Phải có những
cảm nhận, đánh giá khách quan từ ý thức thì tri thức khoa học mới có cơ sở
để tiến hành những nghiên cứu khoa học một cách sâu sắc.
1.2. Vai trò của tri thức.
1.2.1. Vai trò của tri thức trong đời sống - xã hội
Tri thức đã và đang ngày càng trở lên quan trọng đối với đời sống xã hội. Nó
tác động trực tiếp đến các lĩnh vực của xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá giáo
dục.
1.2.1.1. Vai trò của tri thức đối với kinh tế - nền kinh tế tri thức.
Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó quá trình thu nhận truyền bá, sử
dụng, khai thác, sáng tạo tri thức trở thành thành phần chủ đạo trong quá trình
tạo ra của cải.

4
Thực tiễn hai thập niên qua đã khẳng định, dưới tác động của cách mạng khoa
học – công nghệ và toàn cầu hoá, kinh tế tri thức đang hình thành ở nhiều
nước phát triển và sẽ trở thành một xu thế quốc tế lớn trong một, hai thập niên
tới. Sự xuất hiện của các hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên tri thức. Vốn
tri thức là tri thức được dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh với mục đích
sinh lợi (tăng thêm giá trị). Trong văn minh nông nghiệp thì sức lao động, đất
đai và vốn là những yếu tố của sản xuất công nghiệp, vốn, đất đai và nhất là
sức lao động trở thành hàng hoá với tư cách là những yếu tố quan trọng trong
sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần chuyển xã hội phong kiến thành xã hội
tư bản trong lịch sử. Còn trong kinh tế tri thức, yếu tố của sự phát triển nền
kinh tế - xã hội không chỉ bao gồm vốn tiền tệ, đất đai và dựa trên lao động
giản đơn mà chủ yếu dựa trên lao động trí tuệ gắn với tri thức. Như vậy vốn
tri thức trở thành yếu tố thứ nhất trong hàm sản xuất thay vì yếu tố sức lao
động vốn tiền tệ và đất đai. Vốn tri thức ở đây bao gồm các công nhân tri
thức, các nhà quản lý có trình độ cao, các công nghệ mới. Vốn tri thức đóng
vai trò to lớn trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các nước đang
phát triển và các nước phát triển. Sự xuất hiện kinh tế tri thức vừa là cơ hội
vừa là thách thức đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
1.2.1.2. Vai trò tri thức đối với chính trị.
Tri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến thức. Người có tri
thức là có khả năng tư duy lý luận, khả năng phân tích tiếp cận vấn đề một
cách sát thực, đúng đắn. Điều này rất quan trọng, một đất nước rất cần những
con người như vậy để điều hành công việc chính trị. Nó quyết định đến vận
mệnh của một quốc gia.
Có được tri thức sẽ củng cố cho chúng ta niềm tin khoa học vào chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con
đường cách mạng mà Đảng và dân tộc ta đã lựa chọn. Hiện nay, kẻ thù sử
dụng nhiều chiêu thức “Diễn biến hòa bình” trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,
văn hóa, tư tưởng. Người cán bộ được trang bị tri thức đầy đủ, đúng đắn sẽ
nhận thức được những diễn biến phức tạp trong cuộc đấu tranh với kẻ thù,
nâng cao tinh thần cảnh giác. Những tri thức lý luận giúp chúng ta có được sự
kiên định trong cuộc đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, cơ hội, phản
động, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; giữ vững và tăng cường trận
địa tư tưởng xã hội chủ nghĩa, làm thất bại âm mưu “Diễn biến hoà bình” trên
lĩnh vực tư tưởng - văn hoá của kẻ thù.
1.2.1.3. Vai trò tri thức đối với văn hoá - giáo dục

5
Tri thức cũng có vai trò rất lớn đến văn hoá - giáo dục của một quốc gia. Nó
giúp con người có được khả năng tiếp cận, lĩnh hội những kiến thức, ý thức
của con người được nâng cao. Và do đó nền văn hoá ngày càng lành mạnh,
con người thu nạp thêm những hiểu biết về tầm quan trọng của giáo dục. Từ
đó xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh, phồn vinh.
1.2.2. Vai trò của tri thức đối với cá nhân.
Đối với mỗi người, tri thức lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Tất cả mỗi
người muốn nâng cao chất lượng đời sống và muốn sống có ích đều phải tiếp
nhận tri thức. Bởi tri thức mang đến cho ta những hiểu biết thuộc bản chất của
các hiện tượng đời sống, giúp ta tìm hiểu sâu về nguồn cội, về quá trình tiến
hoá và cả những phát minh vĩ đại trên thế giới. Tri thức đưa ta đến những
vùng trời mới của sự hiểu biết, thôi thúc ta khám phá , sáng tạo ra những cái
mới cái hay. Tri thức giúp bản thân ngày càng hoàn thiện hơn, biết lựa chọn
những tinh hoa để tiếp nhận, tìm được lối đi đúng đắn để xây dựng bản thân.
Tri thức còn là bản lề để mỗi người cố gắng cho tương lai, là nền móng vững
chắc để phát triển trí tuệ và kỹ năng thực hành cần có trong đời sống xã hội.
Con người có tri thức, nhận thức tốt sẽ có khả năng làm chủ cuộc sống, làm
chủ bản thân và không ngừng học hỏi để đóng góp cho xã hội. Khi con người
có tri thức cuộc sống sẽ biết cách sống theo chuẩn mực đạo đức, giữ gìn và
phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của thế hệ đi trước để lại. Tri thức cộng
đồng được hình thành chính là nhờ sự tiếp thu và học hỏi qua bao thế hệ, tạo
nên một xã hội phát triển và văn minh. Có được tri thức là có thể hội nhập
quốc tế, giao lưu, học hỏi kiến thức, sự sáng tạo và truyền thống tốt đẹp của
các quốc gia khác. Tri thức là công cụ giúp hình thành và phát triển giá trị của
không chỉ cá nhân mà còn toàn cộng đồng.

2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ TRI
THỨC TRONG NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN.
2.1. Thực trạng nghiên cứu, học tập của sinh viên hiện nay.
Trong vài năm vừa qua, nước ta cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới đã
phải trải qua thời kỳ khó khăn cực độ bởi virus gây ra bệnh viêm đường hô
hấp cấp tính Covid-19 hoành hành. Dịch bệnh không chỉ gây trì trệ nền kinh
tế toàn cầu, mà còn gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình học tập và nghiên
cứu của sinh viên. Một số giải pháp kịp thời đã được chính phủ thông qua để
ngăn chặn những tác động xấu gây gián đoạn quá trình tiếp thu tri thức của
sinh viên cả nước. Điển hình trong số những giải pháp đó là hình thức học
trực tuyến.
6
2.1.1. Một số thực trạng học tập và nghiên cứu trực tuyến tại các trường đại
học ở Việt Nam.
Lợi thế của đào tạo trực tuyến là đơn giản và dễ tiếp cận người học, linh hoạt,
chủ động định hướng học tập và học mọi lúc, mọi nơi. Tuy nhiên, đào tạo trực
tuyến còn có những hạn chế nhất định. Về phía sinh viên, có hạn chế là tính
thiếu chủ động trong học tập của người học, trong khi môi trường học tập trực
tuyến đòi hỏi người học phải có tính độc lập và tự giác cao. Theo kết quả
khảo sát của Quỹ Từ thiện Cộng đồng người sử dụng internet Việt Nam và
Công ty Cổ phần VNG với 839 người tham gia trả lời, thì 3 rào cản đối với
những người ôn thi/học trực tuyến là: Việc thu phí (35%); Phải kết nối
internet thường xuyên (24%) và khó tìm kiếm đề thi/bài giảng cần thiết
(16%). Còn theo khảo sát của DeltaViet (2014), “nội dung bài giảng hấp dẫn”
và “được học với giảng viên uy tín” là yếu tố rất quan trọng để thu hút người
học trực tuyến. Diễn biến dịch bệnh phức tạp cũng đã cản trở vô số công trình
nghiên cứu khoa học của sinh viên khi việc thực hiện những khảo sát, thống
kế số liệu thực tế trở nên khó khăn và thiếu chính xác hơn khi mạng xã hội là
kênh thông tin duy nhất.
Ở thời điểm hiện tại, tình hình dịch tễ đã được kiểm soát tốt hơn. Nhịp sống
dần trở lại thông thường. Hoạt động học tập và nghiên cứu của sinh viên dần
thoát li các ứng dụng dạy và học trực tuyến, thay vào đó là những bài giảng,
tiết học trực tiếp trên giảng đường.
2.1.2. Thực trạng học tập và nghiên cứu của sinh viên khi trở lại giảng đường.
Dù quay lại việc học trực tiếp, nhưng sự thụ động trong cách học của bộ phận
sinh viên đại học vẫn tồn tại. Nguyên nhân ở đây là do sinh viên không chịu
tìm tòi sách, tài liệu phục vụ cho chuyên môn của mình (mặc dù trong phương
pháp giảng dạy đại học, nhiều thầy cô lên lớp chỉ hướng dẫn và đưa ra những
tư liệu, đầu sách cần thiết cho sinh viên tìm kiếm tham khảo) và tâm lí quen
với việc đọc - chép. Từ đó dẫn đến thực trạng thụ động trong học tập của
phần lớn sinh viên hiện nay.
Bên cạnh một bộ phận sinh viên rất tích cực với việc tìm tòi, khám phá tri
thức trên lớp lẫn thông qua những nguồn tham khảo như sách, báo, kênh
thông tin uy tín, số còn lại vẫn chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc
thu nạp tri thức và cách ứng dụng nó vào thực tiễn đời sống; hay thậm chí
đánh giá thấp, coi nhẹ những tri thức trên giảng đường đại học.
2.2. Những cơ hội và thách thức đối với sinh viên.
Chúng ta đang sống trong một thời đại bùng nổ thông tin và tri thức. Trong
đó, sinh viên – thế hệ người trẻ của đất nước – đang đứng trước những cơ hội
7
rộng mở của nền kinh tế tri thức nhờ chủ trương phát triển kinh tế số trên nền
tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo của nước ta hiện nay.
Tiếp cận tri thức đã trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết với sự ra đời của Internet
và các trang mạng xã hội khi tất cả mọi người đều có thể kết nối với nhau để
chia sẻ kiến thức hay bàn luận về những vấn đề trong cuộc sống. Những công
cụ hiện đại như máy tính, di động, phần mềm hỗ trợ thực hiện tác vụ bằng
khuôn mặt, giọng nói – tất cả đều là sản phẩm của tri thức – đã khiến quá
trình học tập và nghiên cứu của sinh viên trở nên dễ dàng hơn rất nhiều, giúp
tiết kiệm thời gian và công sức. Nhờ đó mà sinh viên có cơ hội để tìm tòi,
nghiên cứu những tri thức cao cấp hơn, là động lực để tiếp tục sáng tạo, khám
phá ra những tri thức mới, làm giàu cho vốn hiểu biết của riêng bản thân cũng
như kho tàng tri thức của thế giới chung. Thời đại bùng nổ tri thức đã mở
rộng hướng phát triển cho từng cá nhân sinh viên với việc ra đời của hàng loạt
ngành nghề mới theo mỗi bước đi lên của nền kinh tế số. Không chỉ cơ hội
việc làm, mà môi trường làm việc cũng dần trở nên phong phú hơn để sinh
viên thoải mái lựa chọn nơi làm việc phù hợp cho bản thân. Sở hữu khối
lượng tri thức cần thiết trong duy nhất hay nhiều lĩnh vực là một trong số
những điều kiện tiên quyết để sinh viên theo đuổi được hướng phát triển mà
mình mong muốn.
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội mà sinh viên thời nay có được trong nền
kinh tế tri thức, thì không thể bỏ qua một số thách thức mà chúng ta buộc phải
đối mặt. Đơn cử như mặt hại của việc con người có thể tiếp cận tri thức một
cách quá dễ dàng. Với khối lượng tri thức khổng lồ mà loài người đúc kết
được cho đến thời điểm hiện tại, việc chọn lọc để tìm ra những gì phù hợp và
đúng đắn cho từng cá nhân để tiếp nhận là một việc làm không hề nhanh
chóng và đơn giản. Thông tin trên mạng xã hội là một ví dụ điển hình. Với tần
suất dày đặc của những bài truyền thông “bẩn”, nếu sinh viên thiếu tri thức
căn bản của vấn đề được đề cập trong bài báo đó, thì rất dễ sa đà vào việc
hiểu nhầm, tiếp nhận thông tin sai lệch, từ đó hình thành suy nghĩ phiến diện,
thiếu đúng đắn. Bên cạnh đó, còn một thách thức khác được đặt ra cho những
người tham gia vào nền kinh tế tri thức hiện nay, đó chính là yêu cầu cập
nhật, bắt kịp và thích nghi với số lượng kiến thức mới để tránh cho bản thân
bị tụt hậu, sử dụng những tri thức lỗi thời. Vấn đề này đặt ra nhằm thúc đẩy
sinh viên phải trở nên mạnh dạn, năng nổ, và sáng tạo hơn trong tương lai.
Để giúp sinh viên chủ động hơn và tránh khỏi sai lầm trong việc thu nạp tri
thức trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, cần những giải pháp kịp thời
hỗ trợ định hướng để tri thức mà sinh viên sở hữu thật sự giúp ích trong quá
trình học tập và nghiên cứu sau này.

8
2.3. Giải pháp cho việc vận dụng tốt tri thức.
Một là, Xác định rõ mục tiêu học tập và định hướng sau khi tốt nghiệp.
Khi bước vào cánh cửa đại học, vốn dĩ mỗi cá nhân đều đã phải xác định cho
mình một mục tiêu riêng cho tương lai. Ở giai đoạn này, chúng ta không thể
thờ ơ với chính cuộc đời của mình khi cứ khăng khăng “học cho xong rồi tính
tiếp” hoặc “tới đâu hay tới đó” và rồi lãng phí những tri thức có được ở trên
giảng đường. Không có mục tiêu định hướng rõ ràng thì không thể đạt đến
thành công. Sử dụng những tri thức mình sở hữu để tự trả lời những vấn đề:
Mình đã học được gì? Mình muốn gì? Vậy thì mình cần phải làm gì? Thì tự
khắc chúng ta sẽ tự vẽ ra kế hoạch cụ thể cho bản thân. Thông qua đó mà
chúng ta cũng biết được những tri thức gì là cần thiết và hữu ích để bản thân
trau dồi thêm.
Hai là, Chủ động học.
Mỗi khi lên giảng đường, sinh viên mỗi người chúng ta đều được trang bị đầy
đủ các công cụ hỗ trợ để đạt hiệu quả trong quá trình học tập như giáo trình,
các thiết bị ghi chép lại bài giảng, cũng như môi trường học tập chuyên
nghiệp và tiên tiến của các trường đại học. Tuy nhiên, không phải ai cũng có
thể tận dụng hết những lợi ích đấy do tinh thần thụ động. Để khắc phục tình
trạng này, trước khi lên lớp, sinh viên nên đọc trước giáo trình, nắm bắt hệ
thống kiến thức sẽ được giảng viên truyền đạt trong tiết học hôm đó. Trong
tiết học, hãy mạnh dạn giơ tay phát biểu, đặt câu hỏi và trao đổi thêm với
giảng viên, bạn học để hiểu rõ và nắm sâu kiến thức. Và khi kết thúc bài
giảng, về nhà hãy làm các bài tập để tri thức thu nạp được sẽ được khắc ghi và
vận dụng một cách có hiệu quả.
Ba là, Rèn luyện thêm các kỹ năng.
Khoảng thời gian là sinh viên cũng là lúc hợp lý nhất để học hỏi thêm nhiều
kỹ năng. Đây chính là lúc những tri thức chúng ta đúc kết được có thể đạt
được ứng dụng trong thực tiễn đời sống. Có rất nhiều kỹ năng mà sinh viên có
thể lựa chọn để theo học. Ngoài những kỹ năng bắt buộc phải có để phục vụ
cho việc học cũng như xét tốt nghiệp như kỹ năng tin học văn phòng, tiếng
anh, làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp, ứng xử… thì cũng có thể bổ sung
thêm các kỹ năng mềm, tự vệ, tổ chức chương trình, quản lý…

9
KẾT LUẬN
Ngày nay, vai trò động lực của tri thức đối với sự phát triển kinh tế xã hội trở
nên rõ ràng, nổi bật. Loài người đang bước vào nền kinh tế tri thức - là nền
kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết
định nhất đối với sự phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế tri thức, đa số các
ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào thành tựu mới nhất của khoa học và
công nghệ, vì vậy, đầu tư vào tri thức trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng
trưởng kinh tế dài hạn.
Với mỗi cá nhân, có được tri thức là nắm giữ sức mạnh để mở khóa tương lai.
Không chỉ hỗ trợ tìm được ra mục tiêu, định hướng cho cuộc đời mà tri thức
còn giúp chúng ta hoạch định ra bước đi phát triển bản thân, tạo dựng nên giá
trị con người. Khối lượng tri thức cập nhật, phù hợp, đáp ứng kịp thời với sự
phát triển của nền kinh tế số hiện nay là hành trang mà mọi sinh viên đều cần
có để có thể hòa mình vào dòng chảy hội nhập quốc tế, tham gia xây dựng
nền kinh tế tri thức toàn cầu, đem lại lợi ích cho bản thân cũng như quốc gia.

10
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo – Giáo trình Triết học Mác-Lênin – Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia sự thật – Hà Nội, 2021.
2. tapchicongthuong.vn - https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/dao-tao-
truc-tuyen-trong-cac-truong-dai-hoc-o-viet-nam-hien-nay-thuc-trang-
va-giai-phap-nang-cao-chat-luong-75924.htm - 23/10/2020 –
10/05/2022.
3. dangcongsan.vn - https://dangcongsan.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-
cua-dang/vai-tro-cua-the-he-tre-thuc-hien-chu-truong-phat-trien-kinh-
te-so-tren-nen-tang-khoa-hoc-va-cong- - 03/09/2021 – 10/05/2022.
4. tapchicongsan.org.vn - https://tapchicongsan.org.vn/tri-thuc-doanh-
nhan/-/2018/17492/van-dung-quan-diem-cua-chu-nghia-mac---lenin-
trong-viec-xay-dung-doi-ngu-tri-thuc-thoi-ky-doi-moi-o-nuoc-ta-hien-
nay.aspx# - 23/08/2012 – 10/05/2022.
5.

11
MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 1

1. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ 1


TRI THỨC, VAI TRÒ CỦA TRI THỨC.
1.1. Tri thức là gì? 1
1.1.1. Khái niệm về tri thức. 1
1.1.2. Nguồn gốc của tri thức. 2
1.1.3. Phân loại tri thức. 4
1.2. Vai trò của tri thức. 4
1.2.1. Vai trò của tri thức trong đời sống xã hội. 4
1.2.2. Vai trò của tri thức đối với cá nhân. 6

2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – 6


LÊNIN VỀ TRI THỨC TRONG NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN.
2.1. Thực trạng nghiên cứu, học tập của sinh viên hiện nay. 6
2.1.1. Một số thực trạng học tập và nghiên cứu trực tuyến tại 7
các trường đại học ở Việt Nam.
2.1.2. Thực trạng học tập và nghiên cứu của sinh viên khi trở 7
lại giảng đường.
2.2. Những cơ hội và thách thức đối sinh viên. 7
2.3. Giải pháp cho việc vận dụng tốt tri thức. 9

KẾT LUẬN 10

TÀI LIỆU THAM KHẢO 11

MỤC LỤC 12

12

You might also like