You are on page 1of 8

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là hình thức cao
của sự phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới có. Tác động
của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn. Nó không những là kim chỉ nam
cho hoạt động thực tiễn mà còn là động lực thực tiễn. Sự thành công hay thất bại của thực
tiễn, tác động tích cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên, xã hội
chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà biểu hiện ra là vai trò của khoa học
văn hóa và tư tưởng.

Nền kinh tế của nước ta từ một điểm xuất phát thấp, tiềm lực kinh tế- kỹ thuật yếu, trong
điều kiện sự biến đổi khoa học- công nghệ trên thế giới lại diễn ra rất nhanh, liệu nước ta
có thể đạt được những thành công mong muốn trong việc tạo ra nền khoa học- công nghệ
đạt tiêu chuẩn quốc tế trong một thời gian ngắn hay không? Chúng ta phải làm gì để tránh
được nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới? Câu hỏi này đặt ra
cho chúng ta một vấn đề đó là sự lựa chọn bước đi và trật tự ưu tiên phát triển khoa học-
công nghệ trong quan hệ với phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới. Như vậy có nghĩa
là ta cần phải có tri thức vì tri thức là khoa học. Chúng ta phải không ngừng nâng cao khả
năng nhận thức cho mỗi người. Tuy nhiên nếu tri thức không biến thành niềm tin và ý chí
thì nó cũng không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực cả. Chỉ chú trọng đến tri thức
mà bỏ qua công tác văn hóa- tư tưởng thì sẽ không phát huy được thế mạnh truyền thống
của dân tộc. Chức năng của các giá trị văn hóa đã đem lại chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo
đức. Không có tính đạo đức thì tất cả các dạng giá trị sẽ mất đi mọi ý nghĩa. Còn cách
mạng tư tưởng góp phần làm biển đổi đời sống tinh thần- xã hội, xây dựng mối quan hệ
tư tưởng, tình cảm của con người với tư cách là chủ thể xây dựng đời sống tinh thần và
tạo ra được những điều kiện đảm bảo sự phát triển tự do của con người. Mà có tự do thì
con người mới có thể tham gia xây dựng đất nước.

Như vậy, góp phần vào chiến lược phát triển kinh tế, tiến nhanh trên con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa chúng ta cần nghiên cứu tri thức, tìm ra hướng đi đúng đắn cho
nền kinh tế tri thức ấy sao cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước, khu vực và thế giới,
trong sự vận động phát triển không ngừng nghỉ của nền thế giới tri thức. Vì vậy, trong bài
tiểu luận này em quyết định chọn đề tài: “Vai trò của tri thức đối với ý thức và vai trò của
tri thức trong hoạt động của con người ở Việt Nam”.

NỘI DUNG

I.Tổng quan về ý thức, tri thức. Vai trò của tri thức đối với ý thức.

1.Tổng quan về ý thức

1.1.Khái niệm ý thức

Để đưa ra được định nghĩa về ý thức, con người đã trải qua một thời kì lịch sử lâu dài, nó
trải qua những tư tưởng từ thô sơ, sai lệch cho tới những định nghĩa có tính khoa học.

Ngay từ xa xưa, khi con người còn rất mơ hồ về cấu tạo của bản thân vì chưa lí giải được
các sự vật hiện tượng xung quanh mình. Do chưa giải thích được giấc mơ là gì mà họ đã
cho rằng: có một linh hồn nào đó cư trú trong cơ thể và có thể rời bỏ cơ thể, linh hồn này
không những điều khiển được suy nghĩ tình cảm mà còn điều khiển được toàn bộ hoạt
động của con người. Nếu linh hồn rời bỏ cơ thể thì cơ thể sẽ thành cơ thể chết.

Tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm đã phát triển quan niệm linh hồn của con người nguyên
thủy thành quan niệm về vai trò sáng tạo của linh hồn đối với thế giới, quan niệm về hồi
tưởng của linh hồn bất tử và quan niệm về một linh hồn phổ biến không chỉ ở trong con
người mà cả trong các sự vật, hiện tượng, trong thế giới cõi người và cõi thần, quan niệm
về ý thức tuyệt đối, về lý tính thế giới.

Chủ nghĩa duy vật cổ đại thì cho rằng linh hồn không thể tách rời cơ thể và cũng chết
theo cơ thể, linh hồn do những hạt vật chất nhỏ tạo thành.

Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thì đồng nhất ý thức với cảm giác và cho rằng cho rằng cảm
giác của con người chi phối thế giới... Như vậy, cả tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm đều cho
rằng ý thức tồn tại độc lập với thế giới bên ngoài và là tính thứ nhất, sáng tạo ra thế giới
vật chất...
Khi khoa học tự nhiên phát triển, con người đã chứng minh được sự phụ thuộc của các
hiện tượng tinh thần, ý thức vào bộ óc con người thì một bộ phận nhà duy vật theo chủ
nghĩa duy vật máy móc cho rằng óc trực tiếp tiết ra ý thức như gan tiết ra mật.

Chủ nghĩa duy vật thế kỉ XVII-XVIII quan niệm ý thức bao gồm cả tâm lí, tình cảm tri
thức trí tuệ, tự ý thức và định nghĩa ý thức là sự phản ánh của thế giới khách quan. Tuy
nhiên, định nghĩa này chưa chỉ rõ được vai trò của xã hội, của ý thức.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức là đặc tính và sản phẩm của vật chất, ý
thức là sự phản ánh khách quan vào bộ óc con người thông qua lao động và ngôn ngữ.
Theo triết học Mac-Lênin: “ý thức là sự phản ánh sáng tạo của thế giới khách quan vào
bộ não của người thông qua lao động ngôn ngữ”. Nói về vấn đề này, Mac-Lênin nhấn
mạnh: tinh thần, ý thức chẳng qua nó chỉ là cái vật chất di chuyển vào bộ óc con người và
được cải biến đi trong đó.

Như vậy, ý thức là một hiện tượng tâm lí xã hội có kết cấu phức tạp bao gồm tự ý thức,
tri thức, tình cảm, ý chí trong đó tri thức là quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý
thức.

1.2.Nguồn gốc ý thức

Theo quan điểm của chủ nghĩa Lenin thì trong lịch sử triết học, vấn đề nguồn gốc, bản
chất của ý thức là một trong những vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Triết học duy vật biện chứng khẳng định, ý thức của con
người có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.

1.2.1.Nguồn gốc tự nhiên

Trước Mác nhiều nhà duy vật tuy không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức,
song do khoa học chưa phát triển nên cũng đã không giải thích đúng nguồn gốc và bản
chất của ý thức. Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lí học thần
kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất
nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống
có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức
năng của bộ óc người. Ý thức phụ thuộc vào hoạt động bộ óc người, do đó khi bộ óc bị
tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ không bình thường hoặc bị rối loạn. Vì vậy không thể
tách rời ý thức ra khỏi hoạt động sinh lí thần kinh của bộ óc. Ý thức không thể diễn ra,
tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người.

Ngày nay sự phát triển mạnh mẽ của khoa học- kĩ thuật hiện đại đã tạo ra những máy
móc thay thế cho một phần lao động trí óc của con người. Chẳng hạn các máy tính điện
tử, robot “tinh khôn”, trí tuệ nhân tạo. Song điều đó không có nghĩa là máy móc cũng có
ý thức như con người. Máy móc cho dù có tinh khôn đến đâu đi chăng nữa cũng không
thể thay thế được cho hoạt động trí tuệ của con người. Máy móc là một kết cấu kĩ thuật
do con người tạo ra, còn con người là một thực thể xã hội, máy móc không thể sáng tạo
lại hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó như con người. Do đó chỉ có con
người với bộ óc của mình mới có ý thức theo đúng nghĩa của từ đó.

1.2.2.Nguồn gốc xã hội

Để ý thức cho ra đời, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu được, song
chưa đủ. Điều kiện quyết định, trực tiếp và quan trọng nhất cho sự ra đời của ý thức là
những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Đó chính là lao động và ngôn ngữ.

Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người thông quan lao động,
ngôn ngữ và các cơ quan xã hội. Theo Ph. Ăng-ghen, lao động và ngôn ngữ là hai sức
kích thích biến đổi bộ não động vật thành bộ não người, biến tâm lí động vật thành ý thức
con người.

Lao động:

Trong tự nhiên, con vật tồn tại nhờ những vật phẩm có sẵn như trái cây, côn trùng hoặc
loài vật yếu hơn nó... Nhưng đối với con người thì khác, con người có khả năng và bắt
buộc phải sản xuất ra những sản phẩm mới ( bàn, ghế, quần áo, tivi, tủ lạnh....), khác với
những sản phẩm có sẵn. Nghĩa là con người phải lao động mới đáp ứng được nhu cầu
cuộc sống của mình. Chính thông qua lao động, hay còn được gọi là hoạt động thực tiễn,
nhằm cải tạo thế giới khách quan mà con người mới có thể phản ánh được, biết được
nhiều bí mật về thế giới đó, mới có ý thức về thế giới này. Nhưng ở đây, không phải bỗng
nhiên mà thế giới khách quan tác động vào bộ óc con người để con người có ý thức. Ý
thức có được chủ yếu là do con người chủ động tác động vào thế giới khách quan để cải
tạo, biến đổi nó nhằm tạo ra những sản phẩm mới.

Ngôn ngữ:

Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ vào lao động mà hình thành. Nó là hệ thống
tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, xuất hiện trở thành “vỏ vật chất” của tư duy, là
hiện thực trực tiếp của ý thức, là phương thức để ý thức tồn tại với tư cách là sản phẩm xã
hội- lịch sử. Không có hệ thống tín hiệu này- tức ngôn ngữ, thì ý thức không thể tồn tại
và thể hiện được. Ngôn ngữ ( tiếng nói và chữ viết ) vừa là phương tiện giao tiếp đồng
thời là công cụ của tư duy. Nhờ ngôn ngữ con người mới có thể khái quát hóa, trừu tượng
hóa, mới có thể suy truyền cho người kia, thế hệ này cho thế hệ khác. Ý thức không phải
hiện tượng thuần túy cá nhân mà là một hiện tượng có tính chất xã hội, do đó không có
phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển
được. Như vậy, ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để phát triển tâm lí, tư duy và văn hóa con
người, xã hội loài người nói chung. Vì thế Ph. Ăngghen viết: “sau lao động và đồng thời
với lao động là ngôn ngữ... đó là hai sức kích thích chủ yếu” của sự chuyển biến bộ não
của con người, tâm lí động vật thành ý thức.

2.Tổng quan về tri thức

2.1.Khái niệm tri thức

Tri thức được hình thành từ những nhận thức, tư duy của con người về thế giới khách
quan, về thực tiễn của cuộc sống. Tuy khái niệm tri thức đã có từ lâu trong lịch sử loài
người nhưng những nghiên cứu mang tính khoa học- triết học về tri thức chỉ thực sự bắt
đầu từ phát biểu của Platon- một triết gia Hy Lạp cổ đại sống vào khoảng 427-347 TCN.
Theo ông, tri thức là cái có trước các sự vật cảm biết mà không phải là sự khái quát kinh
nghiệm trong quá trình nhận biết các sự vật đó. Trên cơ sở lí luận nhận thức này, Platon
phân loại trí thức thành tri thức hoàn toàn đúng đắn, tin cậy và tri thức mờ nhạt. Tuy nhận
thức của ông còn hạn chế và khuynh hướng duy tâm song nó cũng đã khẳng định được sự
tồn tại và vai trò của tri thức. Những triết gia sau Platon đã tiếp tục nghiên cứu và tìm
hiểu về khái niệm và bản chất của tri thức. Những người có quan điểm tiến bộ hơn như
Immanuel Kant đã trình bày quan điểm của ông về tri thức một cách chính xác hơn. Lịch
sử hình thành khái niệm “tri thức” đã trải qua một quá trình lâu dài nhưng đến nay vẫn
còn là một đề tài đang được nghiên cứu và gây nhiều tranh luận. Xét trên phương diện
ngôn ngữ học, tri thức là một khái niệm rõ ràng, dễ hiểu: “Tri thức là những gì bạn đã
đọc”. Còn xét trên phương diện triết học, tri thức mang nghĩa phổ quát hơn, dùng để diễn
tả nguồn gốc, sự phát triển và mối quan hệ của các sự vật, hiện tượng. Ta có thể định
nghĩa: “Tri thức là kết quả của các quá trình nhận thức của con người về đối tượng được
nhận thức, làm tái hiện tư tưởng con người, những thuộc tính, những mối quan hệ, những
qui luật vận động, phát triển của đối tượng và được diễn đạt bằng ngôn ngữ tự nhiên hay
hệ thống kí hiệu khác”. Như vậy, tri thức bao gồm tất cả những thông tin, số liệu, khả
năng, sức sáng tạo, quan niệm về giá trị và những sản phẩm mang tính tương tự xã hội
khác. Tri thức đóng vai trò rất lớn đối với sự phát triển của xã hội loài người.

Kinh tế thế giới đang bước vào một thời đại mới, một trình độ mới. Đó là trình độ mà
“nhân tố quan trọng nhất là việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực và việc sáng tạo,
phân phối và sử dụng tri thức trong các ngành kĩ thuật cao”. Tiêu chí chủ yếu của nó là
lấy tri thức, trí óc làm yếu tố then chốt để phát triển kinh tế và tồn tại trực tiếp giống như
các yếu tố sức lao động và tài nguyên. Đó là thời đại mà “Tri thức đã trở thành động lực
chủ yếu của sự phát triển xã hội”, “Tri thức là tài nguyên là tư bản”, “Tri thức là tâm
điểm của cạnh tranh và là nguồn lực dẫn dắt cho sự tăng trưởng dài hạn, dẫn tới những
thay đổi lớn trong cách tổ chức sản xuất, cấu trúc trị trường, lựa chọn nghề nghiệp”....

2.2.Vai trò chung của tri thức

Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng
nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chosnh
của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ tri thức trở thành nguồn lực đặc
biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển.

3.Vai trò của tri thức đối với ý thức

Tri thức là một phần của ý thức, là yếu tố tạo ảnh hưởng đối với ý thức. Khi con người
tích lũy được càng nhiều tri thức thì họ sẽ có ý thức thật cao, càng đi sâu vào bản chất sự
vật và cải tạo thế giới có hiệu quả hơn. Tính năng động của ý thức nhờ đó mà tăng lên.
Nhấn mạnh: “Tri thức là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất của ý thức, điều đó có ý nghĩa là
chống lại quan điểm giản đơn coi ý thức chỉ là tình cảm, niềm tin và ý chí”, quan điểm
này là biểu hiện chủ quan, duy ý chí của sự tưởng tượng chủ quan. Tuy nhiên cũng không
thể coi nhẹ nhân tố tình cảm, ý chí. Ngược lại nếu tri thức biến thành tình cảm, niềm tin,
ý chí của con người hoạt động thì tự nó không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực.
Tri thức chính là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển.

3.1. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức

Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức vì bởi lẽ tri thức là một phần của ý thức, là đơn
vị không thể thiếu trong cấu thành của ý thức. Xây dựng một ý thức tốt thì không thể
thiếu được việc xây dựng một tri thức tốt, đúng đắn.

Ví dụ: Một sinh viên trang bị cho mình đầy đủ tri thức về văn hóa, chính trị, kinh tế,... thì
sẽ tự ý thức được đâu là trách nhiệm cá nhân và những việc nên làm của bản thân. Khi đó
sinh viên ấy sẽ có ý thức tốt trong xã hội.

3.2.Tri thức là tiền đề để ý thức phát triển

Tri thức phát triển sẽ song hành vào đó là sự phát triển của ý thức. Vì khi có một tri thức
tốt, đúng đắn thì chả có lí do gì mà ý thức của con người ta là không tốt cả. Khi con
người có tri thức, có hiểu biết, am hiểu sâu rộng tới mọi vấn đề hay lĩnh vực xã hội, thì
con người ta dễ dàng thực hiện được những mục tiêu, ham muốn, ước nguyện của bản
thân, chỉ có tri thức được lấy bằng chính mồ hôi công sức mới mang lại được hiệu quả.

II.Vai trò của tri thức trong hoạt động của con người ở Việt Nam
Tri thức đã và đang ngày càng trở nên quan trọng đối với đời sống xã hội. Nó tác động
trực tiếp đến các lĩnh vực của xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa giáo dục,...

1.Vai trò của tri thức đối với nền kinh tế- kinh tế tri thức

Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế lấy sản xuất và kinh doanh tri thức làm nội dung chủ
yếu. Tương lai của bất cứ doanh nghiệp nào cũng không chỉ phụ thuộc vào việc sử dụng
tiền bạc, nguyên vật liệu, nguồn nhân lực và máy móc thiết bị... mà còn phụ thuộc vào
việc xử lí và sử dụng những thông tin nội bộ và thông tin từ môi trường kinh doanh. Cách
tốt nhất để tăng năng suất là tìm hiểu kiến thức chuyên môn mà hãng có được, sử dụng vì
mục đích thương mai và những kiến thức này cần được phát triển không ngừng.

Giá trị của những công ty công nghệ cao như các công ty sản xuất phần mềm và các công
ty công nghệ sinh học không chỉ nằm trong những tài sản vật chất hữu hình, mà còn nằm
trong những tài sản vô hình, như tri thức và các bằng sáng chế. Để trở thành một công ty
được dẫn dắt bởi tri thức, các công ty phải biết nhận ra những thay đổi của tỉ trọng vốn trí
tuệ trong tổng giá trị kinh doanh. Vốn trị tuệ của công ty, tri thức, bí quyết và phương
pháp đội ngũ nhân viên và công nhân cũng như khả năng của công ty để liên tục hoàn
thiện phương pháp sản xuất là một nguồn lợi thế cạnh tranh. Hiện có các bằng chứng
đáng lưu ý chỉ ra phần giá trị vô hình của các công ti công nghệ cao và dịch vụ đã vượt xa
phần giá trị hữu hình của các tài sản vật thể của các công ti đó, như các tòa nhà hay thiết
bị. Nguồn vốn con người là một thành tố giá trị cơ bản trong một công ty dựa vào tri
thức.

You might also like