You are on page 1of 34

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

KHOA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài 8: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước trong sạch, vững mạnh và sự
vận dụng của Đảng ta trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay.

Học viên: Trần Thúy Liễu


Mã sinh viên: 2155360023
Lớp: Chính sách công – K41

HÀ NỘI – 2021
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu......................................................4
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn......................................................................... ....5
6. Kết cấu tiểu luận..............................................................................................5
NỘI DUNG
Ch ươ ng 1 : Tư tư ởn g Hồ Chí Minh v ề nhà n ước tr ong sa ch , v ững
mạnh................................................................................................................. .6
1. Đẩy mạnh và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của nhà
nước.................................................................................................................. .6
1.1 Đặc quyền, đặc lợi.......................................................................................6
1.2 Tham ô, lãng phí, quan liêu..................................................................... ....7
1.3 Tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo..........................................................................9
2. Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục
đạo đức cách mạng......................................................................................... ...10
2.1 Tăng cường pháp luật..................................................................................11
2.2 Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước đủ đức, đủ tài.....12

2.2.1 Tuyệt đối trung thành với cách mạng.......................................................13

2.2.2 Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ..................13

2.2.3 Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân...............................................14


2.2.4 Cán bộ công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám

chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khắn, “thắng không kiêu, bại

không nản”................................................................................... ........................14

2.2.5 Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động

vì sự lớn mạnh, trong sạch của nhà nước.............................................................15

3. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức.............................................................................15

Chương II: Sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay..........................16

1. Các yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do

dân, vì dân trong giai đoạn mới............................................................................17

2. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân

hiện nay...................................................................................... ..........................18

2.1 Mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây

dựng và quản lý nhà nước....................................................................................19

2.2 Nâng cao chất lượng hoạt động và kiện toàn tổ chức Quốc hội....................20

2.2.1 Nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động lập pháp.....................................20

2.2.2 Nâng cao năng lực quyết định quyết định các vấn đề trọng đại của đất

nước........................................................................... .........................................23

2.2.3 Nâng cao chất lượng giám sát...................................................................23

2.2.4 Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy..............................................23

2.3 Tiếp tục cải chính nền hành chính của nhà nước.........................................24
2.3.1 Nâng cao hiệu quả hoạt động của chính phủ......................................24

2.3.2 Đẩy mạnh phân cấp quản lý...............................................................25

2.3.3 Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra..................................................25

2.4 Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương.................26

2.4.1 Kiện toàn chính quyền cơ sở..............................................................26

2.4.2 Đổi mới tổ chức, hoạt động của HĐND, UBND các cấp...................26

2.5 Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức....................................................27

KẾT LUẬN.................................................................................................29

TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................30


1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong lịch sử của các dân tộc thường có những vĩ nhân mà cuộc đời và sự
nghiệp,tư tưởng và hành động của họ gắn liền với cả một giai đoạn lịch sử và biến
cố củadân tộc và thơi đại của mình, ví dụ phải kể đến như: Mác, Lê nin, Ăng ghen,...
Và đặc biệt hơn cả đối với lịch sử dân tộc Việt Nam, vẫn luôn luôn sáng mãi cái tên
vĩđại Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng, Mặt trận, Quân đội, đồng thời
cũng là người sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong một phần tư
thế kỷ ở cương vị Chủ tịch nước, Người đã dành nhiều công sức cho việc xây dựng
nhà nước kiểu mới ở Việt Nam_ Nhà nước trong sạch, vững mạnh và nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng của dân – do dân – vì dân, trong sạch – vững mạnh – hiệu
quả là sự vận dụng sáng tạo học thuyết về nhà nước của chủ nghĩa Mác – Lê nin
trong điều kiện của nước ta, có sự chọn lọc, kế thừa và phát huy cả những tinh hoa
trong việc xây dựng nhà nước đã có trong lịch sử dân tộc và nhân loại.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước vững mạnh, có hiệu lực phải là
một nhà nước làm cho mọi người dân biết sống và làm việc theo Hiến Pháp và Pháp
luật. Mặt khác, nhà nước đó phải “dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân,
lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân”. Một trong những mối quan
tâm của Người là làm sao đào tạo và bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ chính
quyền phù hợp với bản chất của Nhà nước ta, thấm nhuần tinh thần “dân là chủ, cán
bộ là đầy tớ trung thành của nhân dân”. Là người sáng lập ra Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, Người rất đề cao pháp quyền, nhưng Người không lúc nào coi
nhẹ vai trò của giáo dục đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội và nhà nước.
2

Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, mô hình Nhà nước Việt Nam được xây dựng
trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh đã phát huy thành quả tích cực trong sự nghiệp
cách mạng của dân tộc hơn 60 năm qua. Di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà
nước đã và đang được toàn Đảng, toàn dân kế thừa, phát triển trong sự nghiệp xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền và
những hoạt động thực tiễn của Người điều nổi bật lên là lòng nhân ái và tình người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trọng quản lý nhà nước bằng pháp luật. Đó là pháp trị, là
nhà nước pháp quyền. Đồng thời, Người còn chủ động đức trị, thực hành dân chủ
rộng rãi, ra sức bảo vệ quyền tự do dân chủ cho nhân dân, lấy sức để giáo dục và
cảm hóa con người, yêu thương, quý trọng nhân dân. Người yêu cầu các cấp chính
quyền thật sự thấm nhuần tính chất của nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân mà phát huy cao độ dân chủ để động viên tất cả sức dân cho cách mạng, đưa
kháng chiến đến thắng lợi và kiến quốc thành công.

Trong thời kỳ nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nhà nước pháp
quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh thì tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước trong sach vững mạnh nói riêng đã có vị trí, vai trò vô
cùng quan trọng trong việc xây dựng nhà nước thật sự dân chủ, một nhà nước thật
sự của dân, vì quyền lợi và lợi ích của nhân dân. Vì vậy, tôi chọn đề tài này để có
thể nghiên cứu một cách cụ thể và chi tiết hơn về tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây
dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh ở Việt Nam.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


3

Trong thời kỳ nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nhà nước pháp
quyền trong sạch, vững mạnh, nhà nước của dân – do dân – vì dân, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thì tư tưởng Hồ Chí Minh
nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước nói riêng đã có vị trí và vai trò vô
cùng quan trọng, là nền tảng để Đảng ta xây dựng mô hình Nhà nước Việt Nam Dân
chủ cộng hòa một cách hoàn thiện nhất. Do đó, tôi chọn đề tài này để có thể nghiên
cứu chi tiết hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền
ở Việt Nam.

Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam
tiếp tục khẳng định: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một quan điểm toàn diện và sâu săc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và
phát triển, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc. Do vậy, học tập và
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những nhiệm vụ đặt ra trong giai
đoạn hiện nay, trong đó có tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong sạch, vững mạnh,
nhà nước của dân – do dân – vì dân. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước
đã và đang đặt ra nhiều vấn đề: Cần hoàn thiện nhà nước, nhà nước pháp quyền chủ
nghĩa xã hội. Khi chúng ta đang trong quá trình vận động của nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hòi phải có sự quản lý ở trình độ tương ứng.
Hơn nữa, xu hướng toàn cầu hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế cũng đang đặt ra
nhiệm vụ không nhỏ đối với Nhà nước. Để thực hiện mục tiêu trên, cần giải quyết
các nhiệm vụ sau:

 Nêu bật những yếu tố ảnh hưởng (lý luận - thực tiễn) đến sự hình thành tư
tưởng về Nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh.
4

 Xác định các giai đoạn hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước pháp quyền.
 Nghiên cứu nội dung tư tưởng của Người về xây dựng Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân.
 Trên cơ sở đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta hiện
nay, đưa ra một số giải pháp để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước ta hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu:

 Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước trong sạch, vững mạnh.


 Sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

3.2 Phạm vi nghiên cứu:

 Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp
quyền trong sạch, vững mạnh.
 Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp
quyền trong sạch, vững mạnh.
 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền trong sạch, vững
mạnh.
 Sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


5

Đề tài sử dụng phương pháp biện chứng duy vật về lịch sử của chủ nghĩa Mác
- Lênin, phương pháp luận Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về Nhà nước, pháp luật. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp cụ thể: phân tích,
tổng hợp, lịch sử và lôgíc, phương pháp văn hóa học, gắn lý luận với thực tiễn....

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Bài tiểu luận đặt hy vọng vào việc góp phần nghiên cứu cơ bản về tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền trong sạch vững mạnh trong mối quan hệ với
định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Qua đó, tìm hiểu và nghiên cứu và sự vận
dụng và phát triển của Đảng ta từ tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nhà nước
pháp quyền chủ nghĩa xã hội của dân do dân vì dân hiện nay.

6. Kết cấu của tiểu luận

Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước trong sạch, vững mạnh

 Đẩy mạnh và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của nhà nước
 Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với giáo dục đạo đức cách
mạng
 Đẩy mạnh giáo dục đạo đức

Chương 2: Sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay

 Các yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân trong giai đoạn hiện nay
 Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân hiện
nay
6

NỘI DUNG

Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước trong sạch, vững mạnh.

1. Đẩy mạnh và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước.

Xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân không bao giờ tách rời với
việc làm cho Nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh. Điều này luôn luôn thường trực
trong tâm trí và hành động của Hồ Chí Minh. Khi nước nhà giành được độc lập,
chính quyền cách mạng còn non trẻ cũng như lúc cách mạng chuyển giai đoạn, Hồ
Chí Minh càng chú ý hơn bao giờ hết đến việc bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh
của các cấp chính quyền, bởi vì thường những lúc đó cách mạng đứng trước những
thử thách rất gay gắt và những tiêu cực rất dễ trở thành nguy cơ làm biến chất Nhà
nước. Chỉ một tháng sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí
Minh đã gửi thư cho Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng,nêu rõ phải chống
đặc quyền, đặc lợi; bộ máy nhà nước không phải là bộ máy áp bức, bóc lột nhân dân,
cán bộ, công chức không phải là những “ông quan cách mạng”. Người nhắc nhở:
“Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa.
Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi và gắng sức
cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu
không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc,
vì lợi ích của nước nhà mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công bình,
chính trực vào lòng”. Người đã chỉ ra trách nhiệm của người cán bộ, công chức trong
xây dựng một Nhà nước mới – Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đồng thời
trong quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người
cũng đã chỉ rõ những tiêu cực sau và nhắc nhở mọi người đề phòng và khắc phục.

1.1 Đặc quyền, đặc lợi:


7

Xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi phải tẩy trừ những thói cậy
mình là người trong cơ quan chính quyền rồi hách dịch với dân, lạm dụng chức
quyền, đồng thời để vơ vét tiền của, làm lợi cho cá nhân mình, như thế tức là sa vào
chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích chung, lợi ích của toàn
nhà nước.

Trong chính quyền, còn hiện tượng gây mất đoàn kết, không biết cách làm cho
mọi người hòa thuận với nhau, còn có người “bênh vực lớp này, chống lại lớp khác”.

1.2 Tham ô, lãng phí, quan liêu:

Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan liêu là “giặc nội xâm”, “giặc ở trong
lòng”, thứ giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Người phê bình những người “lấy
của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức”. Quan điểm của Hồ Chí
Minh là: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù có hay không, cũng là bạn đồng
minh của thực dân và phong kiến... Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật
thám”. Tham ô là lợi dụng quyền hành hoặc chức trách để ăn cắp của công, lãng phí,
làm tốn kém hao tổn công ích. Tham ô là một trong những hành động xấu xa nhất
của con người. Nhân dân lao động làm lụng đổ mồ hôi, sôi nước mắt để góp phần
xây dựng của công, của Nhà nước và của tập thể. Của công ấy là nền tảng vật chất
của chế độ Xã hội chủ nghĩa, là nguồn gốc chủ yếu để nâng cao đời sống của nhân
dân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, tham ô là lấy trộm của công, chiếm của công
thành của tư. Nó có hại đến sự nghiệp xây dựng nước nhà, có hại đến công việc cải
thiện cuộc sống của nhân dân, có hại đến đạo đức cách mạng. Lãng phí và tham ô
tuy có khác nhau ở chỗ lãng phí thì không trực tiếp ăn cắp, ăn trộm của công, nhưng
kết quả tai hại đến tài sản của Nhà nước, của tập thể thì cũng có tội.

Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là ăn cắp của công thành của tư, đục
khoét của nhân dân, ăn bớt của bộ đội, tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của
8

Chính phủ để làm quỹ riêng cho mình. Hay nói cách khác, tham ô, lãng phí tài sản
của Nhà nước, của tập thể, của nhân dân la hành động trộm cắp mà ai cũng phải thù
ghét, phải từ bỏ.

Chống tham ô, lãng phí là vấn đề luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm
và đã trở thành một nội dung quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Người. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguyên nhân sâu xa dẫn đến căn bệnh tham ô, lãng phí là vì
chủ nghĩa cá nhân. Người nói, chủ nghĩa cá nhân như một thứ vi trùng rất độc, nảy
sinh ra các bệnh nguy hiểm như lười biếng, ngại gian khổ, khó khăn, tham danh, trục
lợi, thích địa vị, quyền hành, tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa,... Cũng do chủ nghĩa
cá nhân mà mất đoàn kết, thiếu tính tích cực, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm,
không chấp hành đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại lợi ích
của cách mạng và nhân dân. Ngày 27-11-1946, Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh ấn định
hình phạt tội đưa và nhận hối lộ với mức từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai và phải
nộp phạt gấp đôi tiền nhận hối lộ.

Ngày 26-1-1947, Hồ Chí Minh ký lệnh nói rõ tội tham ô, trộm cắp của công
dân là tội tử hình. Lãng phí là một căn bệnh mà Hồ Chí Minh lên án gay gắt. Chính
bản thân Người luôn làm gương, tích cực thực hành chống lãng phí trong cuộc sống
và công việc hằng ngày. Người biết quý từng đồng xu, bát gạo do dân đóng góp cho
hoạt động của bộ máy nhà nước. Lãng phí ở đây được Hồ Chí Minh xác định là lãng
phí sức lao động, lãng phí thời giờ, lãng phí tiền của. Chống lãng phí là biện pháp
để tiết kiệm, một vấn đề quốc sách của mọi quốc gia. Liên quan đến bệnh tham ô,
bệnh lãng phí là bệnh quan quan liêu, một căn bệnh không những có ở cấp trung
ương, ở cấp tính, ở cấp huyện mà còn ngay ở cả cấp cơ sở. Cuối năm đó, khi giao
cho đồng chí Lê Giản phụ trách ngành công an, Người đã dặn rằng: “Chú phụ trách
ngành này là phải “thiết diện vô tư”, tức là mặt sắt không thiên vị. Nếu chú không
“ thiết diện vô tư” thì Bác sẽ “thiết diện vô tư” đối với chú.” Như vậy chỉ trong vòng
9

3-4 tháng sau ngày tuyên bố độc lập, Hồ Chí Minh đã tập trung cao độ cho việc xây
dựng bộ máy, trong đó có khía cạnh pháp luật chống tham nhũng, một trong những
vấn đề lớn liên quan đến sự sống còn của chế độ mới. Ngay cả khi nói về Đảng, gắn
vấn đề pháp luật chống tham nhũng, Người khẳng định “Nếu cần có đảng phái thì
sẽ là đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta
hoàn toàn độc lập. Đảng viên của Đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những
kẻ phản quốc và những kẻ tham ô”.

Hồ Chí Minh phê bình những người và các cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến
cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần
gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi
mặt, không đi sâu vào từng vấn đề. Bệnh quan liêu làm cho chúng ta chỉ biết khai
hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn... thành
thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ
đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che
chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, đây là bệnh gốc sinh ra các bệnh tham ô, lãng
phí; muốn trừ sạch bệnh tham ô, lãng phí thì trước hết phải tẩy sạch bệnh quan liêu.

1.3 Tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo

Những hành động trên gây mất doàn kết, gây rối cho công tác. Hồ Chí Minh
kịch liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh, tệ nạn bà con bạn hữu, con ông cháu cha, những
người có tài năng nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc nước
là việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai. Trong chính quyền, còn
hiện tượng gây mất đoàn kết, không biết cách làm cho mọi người “bênh vực lớp này,
chống lại lớp khác”.
10

Ngoài bệnh cậy thế, còn có người kiêu ngạo, “tưởng mình ở trong cơ quan
Chính Phủ là thần thánh rồi... cử chỉ lúc nào cũng vác mặt quan cách mạng, làm mất
uy tín của Chính Phủ”.

2. Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục
đạo đức cách mạng.

Về phép trị nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người luôn kết hợp một cách
nhuần nhuyễn giữa quản lý xã hội bằng pháp luật với phát huy những truyền thống
tốt đẹp trong đời sống cộng đồng người Việt Nam được hình thành trong hàng nghìn
năm lịch sử. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa “Pháp trị” và “Đức trị”.

Trong việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình với cương vị là Chủ
tịch nước, Hồ Chí Minh bao giờ cũng thể hiện là một người sáng suốt, thống nhất
hài hòa giữa lý trí và tình cảm, nghiêm khắc, bao dung, nahan ái nhưng không bao
che cho những sai lầm, khuyết điểm của bất cứ ai. Kỷ cương, phép nước thời nào
cũng luôn được đề cao và phải được áp dụng cho tất cả mọi người. Do đó, Hồ Chí
Minh yêu cầu pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kì kẻ ấy ở địa
vị nào, làm nghề nghiệp gì. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh dùng sức mạnh uy tín của
mình để cảm hóa những người có lỗi lầm. kéo họ đi với cách mạng, giáo dục những
người mắc khuyết điểm để họ tránh phạm pháp.

Theo Người, một xã hội kỷ cương, một nhà nước mạnh có hiệu lực phải quản
lý bằng pháp luật, không một giờ phút nào được coi thường pháp luật, thiếu pháp
luật. Không quản lý nhà nước bằng pháp luật sẽ dẫn đến sơ hở, cán bộ sẽ dễ sinh ra
lạm dụng quyền lực, vi phạm quyền dân chủ của công dân, dễ có hành vi xâm phạm
đến quyền tự do của người khác, của cộng đồng và của xã hội dẫn đến hỗn loạn vô
Chính Phủ. Chính vì vậy, khi xây dựng Hiến pháp mới và hình thành một hệ thống
Pháp luật mới, Người đề nghị vận dụng những điều luật cũ còn tương đối phù hợp
11

với tình hình mới, trừ bỏ những điều luật vi phạm và trái với chủ quyền, đạo đức.
Tuy nhiên, Người cũng lưu ý: “Luật pháp phải dựa vào đạo đức, mặt khác luật pháp
bảo vệ pháp luật, bảo vệ đạo đức. Không xử phạt là không đúng, song chút gì cũng
xử phạt thì không đúng. Nhà nước phải vừa giáo dục vừa sử dụng pháp luật để cải
tạo họ, giúp họ trở nên lương thiện”.

Trong những năm trực tiếp lãnh đạo nhà nước, Người đã từng bước xây dựng
hệ thống pháp luật, ngoài hai bản Hiến Pháp, Người đã công bố 16 đạo luật và gần
1300 văn bản dưới luật khác.

2.1 Tăng cường pháp luật

Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tại phiên họp đầu
tiên của Chính Phủ (3-9-1945), trong 6 nhiệm vụ cấp bách, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đề ra nhiệm vụ thứ ba là “chúng ta phải có ngay một hiến pháp dân chủ, phải tổ chức
càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu” để sớm có
một Nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra. Ngày 17-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký sắc lệnh ấn định thể lệ Tổng tuyển cử. Ngày 20-9- 1945, Người ký sắc lệnh 34
thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để chuẩn
bị đệ trình Quốc hội. Chính phủ liên hiệp kháng chiến được Quốc hội họp phiên đầu
tiên ngày 2-3-1946 bầu ra là Chính phủ hợp hiến đầu tiên có đầy đủ tư cách và hiệu
lực trong việc giải quyết mọi vấn đề về đối nội và đối ngoại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và
lập pháp. Nhưng điều quan trọng hơn là Người tập trung chỉ đạo đưa pháp luật vào
cuộc sống, làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế, tạo cơ chế bảo đảm cho pháp
luật được thi hành. Trước đây, dưới chế độ cũ, bọn thực dân phong kiến tìm cách
làm cho dân ngu để dễ trị. Trong chế độ mới, Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục lại
nhân dân, nâng cao dân trí, làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết
12

dựng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm. Tư tưởng “pháp trị” của Hồ Chí
Minh đặc biệt thể hiện nổi bật ở việc bảo đảm tính khoa học, hiệu lực và nghiêm
minh của pháp luật. Hơn 2 tháng sau khi tuyên bố độc lập, ngày 23-11-1945, Hồ Chí
Minh đã ký sắc lệnh 64-SL về việc thành lập Ban Thanh tra đặc biệt và một Tòa án
đặc biệt có nhiệm vụ giám sát và xét xử các sai phạm của các nhân viên từ trong các
ủy ban nhân dân các cấp đến cơ quan cao nhất của chính quyền.

Trong năm 1946, những chuyện về ăn hối lộ, tham nhũng trong Chính phủ đã
được Quốc hội nước ta lúc bấy giờ hết sức quan tâm. Đặc biệt là sau vụ Chu Bỏ
Phượng, Bộ trưởng bộ kinh tế trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, là đại biểu
của Việt Nam quốc dân đảng, thành viên trong đoàn chính phủ ta dự Hội nghị
Fontainbleau, bị các nhà chức trách Pháp bắt được vì mang vàng đi buôn. Tại kỳ họp
thứ hai Quốc hội khóa I (11-1946), có đại biểu quốc hội đã chất vấn chính phủ về vụ
việc này. Thay mặt Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời thẳng thắn rằng:
“Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong Chính phủ, từ Hồ Chí
Minh đến những người làm việc ở các ủy ban làng, đông lắm, phức tạp lắm. Dù sao
Chính phủ đã hết sức làm gương, và nếu làm gương không xong thì sẽ dựng pháp
luật mà trị những kẻ ăn hối lộ. Đã trị, đang trị và sẽ trị cho kỳ hết”. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về tính nghiêm minh của Pháp luật rất rõ ràng, dứt khoát: “Pháp luật phải thẳng
tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”. Trong
kháng chiên chống Pháp (9- 1950), Bác Hồ, dự rất đau lòng, vẫn đã y án tử hình
Trần Dụ Châu, Đại tá, Cục trưởng cục quân nhu, phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền
hạn, bớt xén phần cơm áo của bộ đội để sống trác táng, trụy lạc. Người tâm sự với
Trần Đăng Ninh trước khi ký bác đơn chống án của Trần Dụ Châu: “Với loài sâu
mọt đục khoét nhân dân, nếu phải giết đi một con mà cứu được cả rừng cây, thì việc
đó là cần thiết, hơn nữa là nhân đạo”.

2.2 Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước đủ đức, đủ tài
13

Một tư tưởng quan trọng nữa của Người là để có bộ máy nhà nước trong sạch,
vững mạnh, hiệu quả, trước hết là phải có đội ngũ cán bộ, nhân viên có đạo đức,
gương mẫu trong chấp hành pháp luật. Đồng thời phải là những người am hiểu pháp
luật và cả ngành nghề chuyên môn. Do đó, từ 1948, Người đã ký sắc lệnh về “lập
một chế độ công chức mới” và ban hành săc lệnh “quy chế công chức Việt Nam”.
Điều đó có ý nghĩa vô cùng to lớn rằng ngay từ rất sớm, Người đã coi trọng thể chế
hóa việc đào tạo và sử dụng cán bộ Nhà nước”. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đề
cao vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức. Người coi cán bộ nói chung “là cái
gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém”. Để xây dựng một Nhà nước pháp quyền vững mạnh, vấn đề xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Nói một cách tổng quát
nhất về yêu cầu đối với đội ngũ này, theo Hồ Chí Minh, đó là những người vừa có
đức, vừa có tài, trong đó đức là gốc; đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý, có hiệu
quả. Đi vào những mặt cụ thể, Hồ Chí Minh nêu lên những yêu cầu về xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức.

2.2.1 Tuyệt đối trung thành với cách mạng.

Đây là yêu cầu đầu tiên cần có đối với đội ngũ cán bộ, công chức. Cán bộ,
công chức phải là những người kiên cường bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
Nhà nước. Hồ Chí Minh nhấn mạnh lòng trung thành đó không phải là những điều
trừu tượng, chung chung, mà phải được thể hiện hằng ngày, hằng giờ, trong mọi lĩnh
vực công tác, thể hiện trong kết quả thực tế công tác. Lòng trung thành đó thể hiện
đặc biệt rõ trong những lúc đất nước gặp khó khăn, thử thách, chuyển giai đoạn.

2.2.2 Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ.

Chỉ với lòng nhiệt tình thì chưa đủ và cùng lắm chỉ phá được cái xấu, cái cũ
mà không xây được cái tốt, cái mới. Yêu cầu tối thiểu là đội ngũ cán bộ, công chức
14

phải hiểu biết công việc của mình, biết quản lý nhà nước, do vậy, phải được đào tao
và tự mình phải luôn luôn học hỏi. Đó là tính chuyên nghiệp của đội ngũ công chức.
Công chức phải chuyên sâu nghiệp vụ, phải luôn luôn học tập không ngừng nghỉ,
học mọi lúc, mọi nơi, học tập suốt đời. Hồ Chí Minh chính là con người điển hình
của tự học. Người tự học những kiến thức về nhà nước trong cả cuộc đời mình.

2.2.3 Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.

Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương xây dựng mối quan hệ bền chặt giữa đội
ngũ cán bộ, công chức với nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức là những người
hưởng lương từ nguồn ngân sách nhà nước do dân đóng góp. Chính vì vậy, Hồ Chí
Minh nhắc nhở mọi cán bộ, công chức không được lãng phí của công; phải sẵn sàng
phục vụ nhân dân, luôn luôn nêu cao đạo đức cách mạng, sẵn sàng hy sinh quyền lợi
cá nhân mình cho Tổ quốc, lấy phục vụ quyền lợi chính đáng của nhân dân làm mục
tiêu cho hoạt động của mình.

Đặc biệt, phải chống bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu, phải luôn luôn gần dân,
hiểu dân và vì dân. Cán bộ, công chức xa dân, quan liêu, hách dịch, cửa quyền... đối
với nhân dân đều dẫn đến nguy cơ làm suy yếu Nhà nước, thậm chí làm biến chất
Nhà nước vì đã phạm một điều có tính chất cốt tử của cấu tạo quyền lực nhà nước là
tất cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân.

2.2.4 Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán,
dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, “thắng không
kiêu, bại không nản”.

Đó là những người có ý thức sẵn sàng làm “công bộc”, làm “đày tớ”, phục vụ
tận tuỵ nhân dân, những người cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm việc với
tinh thần đầy sáng tạo. Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ, công chức phải luôn luôn tu
15

dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, luôn luôn “có chí tiến thủ”, luôn luôn học tập
đế nâng cao trình độ về mọi mặt, học ở trường, học ở trong cuộc sống, trong công
tác, học ở thầy, học ở bạn.

2.2.5 Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành
động vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước.

Với chức trách là những người phục vụ nhân dân, thì cán bộ, công chức phải
tận tuy, tận trung với nước, tận hiếu với dân. Muốn vậy, theo Hồ Chí Minh cán bộ,
công chức phải thường xuyên tự phê bình và phê bình để giữ vững phẩm chất đạo
đức cách mạng và năng lực công tác. Đồng thời, cán bộ, công chức phải chăm lo xây
dựng bộ máy nhà nước để nhà nước đúng là nhà nước của dân, do dân, vì dân.

3. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của mỗi
công dân đó là “Học tập và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”,rèn
luyện đạo đức cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Người có tài mà không
có đức là người vô dụng, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.
Do đó, chúng ta phải trau dồi cả vốn tri thức để có tài, và kết hợp hài hòa với đạo
đức để trở thành người công dân cho ích cho toàn xã hội và đất nước. Bên cạnh đó,
Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng sức mạnh uy tín của mình để cảm hóa những người
lầm lỗi, nagwn chặn những hành động xấu xa trong công cuộc xây dựng nhà nước
trong sạch vững mạnh. Dưới ngọn cờ đại nghĩa, bao dung của Hồ Chí Minh, nhiều
người vốn rất mặc cảm với cách mạng đã không “sảy chân” phạm pháp hoặc không
đi theo kẻ địch, tin tưởng tuyệt đối vào Đảng và Nhà nước.
16

Chương II: Sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay.

Hiện nay, đất nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen.
Trong bối cảnh đó, yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đặt ra rất cấp
bách. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh “Tiếp tục xây dựng,
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ
trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị... Xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội
chủ nghĩa phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành
đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn
với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội”

Để tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng ta xác
định mục tiêu của xây dựng Nhà nước pháp quyền là nhằm xây dựng một quốc hội
thực quyền, một chính phủ hiệu quả, một nền tư pháp độc lập, công minh; bảo đảm
mối quan hệ thống nhất, hiệu lực, hiệu quả, năng động – sáng tạo giữa chính quyền
trung ương và địa phương... Đồng thời, xác định rõ hơn nguyên tắc Đảng lãnh đạo
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận chế độ đa nguyên chính
trị, đa đảng đối lập. Hiến pháp năm 2013 khẳng định, Đảng là “lực lượng lãnh đạo
nhà nước và xã hội” và “các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật”. Điều này có nghĩa, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội theo
nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhận thức rõ hơn sự lãnh đạo của Đảng và
quyền làm chủ của nhân dân thể hiện tập trung ở Nhà nước, được thực hiện chủ yếu
thông qua hoạt động của Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Nhà nước
pháp quyền giữ vị trí trung tâm trong hệ thống chính trị.
17

1. Các yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân trong giai đoạn mới.

Các nghị quyết của Đảng, nhất là nghị quyết của Hội nghị lần thứ tám Ban
Chấp hành Trung ương (khóa VII) đã nêu lên những quan điểm cơ bản và phương
hướng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cần tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện các quyết định đó.

Để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao đối với việc xây dựng Nhà nước trong thời
kỳ mới, trong các văn kiện của Đảng của các Đại hội VII, IX, X, XI đã nhấn mạnh
một số chủ trương, nhiệm vụ với các yêu cầu sau đây:

Một là,tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân
qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia xây
dựng và bảo vệ Nhà nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với hoạt
động của cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước.

Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong sach, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; cán bộ, công chức
nhà nước thật sự là công bộc, tận tụy phục vụ nhân dân.

Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xây dựng và hoàn
thiện nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với đặc điểm, tính chất của
các cơ quan Nhà nước ở từng cấp, chú trọng trong sự lãnh đạo của các tổ chức đảng
đối với việc kiểm kê, kiểm soát trong quản lý kinh tế, tài chính.

Ba yêu cầu trên quan hệ chặt chẽ với nhau, dựa trên nền tảng chung là xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, thưc hiện đại
đoàn kết dân tộc và đoàn kết dân tộc mà nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân
và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
18

2. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân hiện nay.

Những năm gần đây, nhất là Đại hội XI, XII của Đảng với tinh thần nhìn thẳng
vào sự thật đã thẳng thắn chỉ ra thực tế dân chủ chưa được phát huy đầy đủ, còn
mang nặng hình thức. Có nơi dân chủ chỉ để trang trí, trình diễn. Quyền làm chủ của
nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển, quản lý đất nước. Cải
cách hành chính còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; thủ tục hành chính
còn phức tạp, phiền hà, đang là rào cản lớn đối với việc tạo lập môi trường xã hội,
môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch, hiệu quả cho sự phát triển. Tổ chức
và hoạt động của chính quyền địa phương chậm đổi mới; hiệu quả, hiệu lực ở nhiều
nơi chưa cao. Trách nhiệm giải trình của các cấp chính quyền chưa được quy định
rõ ràng. Việc triển khai một số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn chậm; vẫn còn tình
trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, oan sai, bỏ lọt tội phạm. Công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu đề ra; tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng
với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc
trong xã hội. Cách làm việc quan liêu đang dẫn tới một thực tế của nền hành chính
như báo chí đã nói tới nhiều: “hành dân là chính”. Vì vậy, để có một nhà nước pháp
quyền thật sự trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, thật sự của dân, do dân, vì dân, hoạt
động theo Hiến pháp, pháp luật và ý nguyện của dân, cần phải phát huy dân chủ đi
đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thật sự tôn trọng quyền làm
chủ của nhân dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; cải cách bộ
máy hành chính, xây dựng một nền hành chính dân chủ.

Trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ nguyện
19

vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến.
Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những
quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân”. Trên thực tế, qua diễn
đàn Quốc hội, nhiều lời hứa trước dân khá tâm huyết. Điều đó là cần thiết nhưng chỉ
mới là bước đầu. Vấn đề có ý nghĩa quyết định là hiệu quả của hành động và nêu
gương trước đồng bào. Nhân dân kỳ vọng và chờ đợi. Chính phủ mới phải học Bác
Hồ về lời hứa đi đôi với hành động. Chỉ có thực hiện dân chủ thực sự cho dân, nâng
cao địa vị, quyền hành và năng lực làm chủ của nhân dân, chịu trách nhiệm trước
dân, trọng dân, học dân, hiểu dân, hỏi dân, bàn bạc và giải thích cho dân thì Chính
phủ mới được dân tin, dân phục, dân yêu. Nếu không thế mà cứ hành động theo kiểu
làm bằng được, bất chấp long dân, ý dân thì dân oán. Mà “dân oán, dù tạm thời may
có chút thành công, nhưng về mặt chính trị là thất bại”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
dạy “Nước lấy dân làm gốc”. Theo đó, Chính phủ phải: “Đem tài dân, sức dân, của
dân làm lợi cho dân”. Chính phủ phải thật sự là công bộc của dân, dựa vào trí tuệ và
lực lượng của dân, giữ chặt mối liên hệ với dân và luôn luôn lắng nghe ý kiến của
dân, đó là nền tảng lực lượng của Chính phủ. “Cách xa dân chúng, không liên hệ
chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”.

2.1 Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong xây dựng và quản lý nhà nước.

Phương hướng vừa cơ bản, vừa cấp bách hàng đầu lúc này là giữ vững và phát
huy bản chất tốt đẹp của nhà nước ta, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái đạo
đức, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, sách nhiễu nhân dân trong bộ máy nhà nước.
Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với đất nước ta. Chính quyền có trong sạch,
được dân tin yêu, ủng hộ thì mới vững mạnh, có hiệu lực. Chỉ có dựa vào sức mạnh
nhân dân mới xây dựng được chính quyền trong sạch, vững mạnh, giữ vững kỷ
20

cương, an ninh, quốc phòng, tạo động lực to lớn phát triển kinh tế - xã hội. Để thực
hiện phương hướng trên, điều quan trọng hàng đầu là nâng cao chất lượng chế độ
dân chủ đại diện, mở rộng và có cơ chế từng bước thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp
một cách thiết thực, đúng hướng và hiệu quả. Đảng ta đã và đang thực hiện triển
khai các nhiệm vụ sau:

 Thứ nhất, tiếp tục cải tiến chế độ bầu cử các cơ quan dân cư, bảo đảm
cho cử tri tiếp xúc, đối thoại với ứng cử viên, có đủ thông tin để trao
đổi, nhận xét, lựa chọn và bầu cử đại biểu của mình thực sự dân chủ
trên cơ sở có sự lãnh đạo, hướng dẫn về tiêu chuẩn, cơ cấu. Quy định
nhiều hình thức thích hợp để duy trì sự liên hệ thường xuyên giữa đại
biểu dân cưu và cử tri, để các đại biểu luôn luôn sát thực tiễn, nắm chắc
tâm tư, nguyện vọng, yêu cầu của dân. Các đại biểu phải định kỳ báo
cáo và chịu sự kiểm tra, giám sát của cử tri, nếu không đủ tín nhiệm thì
cử tri thực hiện quyền bãi miễn. Có các hình thức để nhân dân có thể
dự thính hoặc theo dõi trực tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng
các kỳ họp của cơ quan dân cư. Cải tiến cách thức để nhân dân tham
gia thảo luận và góp ý kiến vào các dự án luật, các dự thảo nghị quyết
quan trọng của Đảng và Nhà nước thật sự thiết thực và có hiệu quả,
tránh làm hình thức, tràn lan, tốn kém.
 Thứ hai, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan dân cử (Quốc
hội, Hội đồng nhân dân) để các cơ quan này thực sự là cơ quan đại diện
của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước trong việc xem xét và
quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương. Các
cơ quan hành chính nhà nước phải nghiêm túc chấp hành các quyết định
của cơ quan dân cử trong trách nhiệm, quyền hạn đã được pháp luật quy
định và chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan dân cử.
21

 Thứ ba,đẩy mạnh cải cách thể chế và thủ tục hành chính trong các lĩnh
vực trực tiếp liên quan đến đời sống nhân dân. Nhà nước giảm tối đa cơ
chế xin phép – cho phép trong từng vụ việc, rít kinh nghiệm về cơ chế
“một cửa” đã thực hiện có hiệu quả ở một số địa phương để chỉ đạo áp
dụng rộng rãi ở các ngành, các cấp.
 Thứ tư, xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan nhà nước trong
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Xử lý nghiêm minh các
hành vi trì hoãn, chậm trễ, làm sai lệch, can thiệp trái pháp luật hoặc
lẩn tránh trách nhiệm đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Cần có
quy chế tạo thuận lợi để người dân trình bày ý nguyện, thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo để xuyên tạc, vu khống, gây rối.
 Thứ năm, các cơ quan có thẩm quyền lập pháp, lập quy cần rà soát, sửa
đổi, bổ sung và xây dựng mới các văn bản pháp luật với các định chế
cụ thể, rõ ràng về quyền giám sát, kiểm tra của nhân dân trong các lĩnh
vực sản xuất, phân phối, thu chi ngân sách, tài chính, các chế độ thu và
sử dụng học phí, viện phí,... trong các cơ quan, đơn vị sản xuất kinh
doanh trương học, bệnh viện. Thanh tra nhà nước cùng Mặt trận Tổ
quốc, Liên đoàn lao động các cấp cần phối hợp và có biện pháp xây
dựng, củng cố thanh tra nhân dâ xã, phường, thị trấn, doanh nghiệp,
trường học,... để thanh tra nhân dân đẩy lùi tiêu cực.
 Thứ sáu, nghiên cứu thực hiện từng bước chế độ dân chủ trực tiếp, trước
hết ở cấp cơ sở:
+ Những quyết định quan trọng ở cấp cơ sở có quan hệ đến đông
đảo nhân dân cần đưa các phương án khác nhau và thông qua những
hình thức phù hợp để nhân dân thảo luận và biểu quyết. Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân chấp hành theo kết quả biểu quyết đó.
22

+ Định kỳ 6 tháng và một năm, Hội đồng nhân dân và Ủy ban


nhân dân xã, phường phải báo cáo công khai với dân về các công việc
đã làm, tình hình sử dụng tài sản, tài chính, ngân sách, các khoản đóng
góp của dân, quyết toán các công trình xây dựng cơ bản.

+ Tổ chức và hướng dẫn các hình thức nhân dân tự quản ở cơ sở


và khu vực dân cư đối với những việc dân tự làm hoặc do nhà nước ủy
thác do dân làm với sự hỗ trợ của nhà nước như: hòa giải mâu thuẫn,
tranh chấp trong nội bộ nhân dân,.. Nhân dân ở xã, thôn, ấp, bản cùng
bàn bạc xây dựng quy ước, hương ước về nếp sống văn minh, gia đình
văn hóa, về thủ tục cưới xin, ma chay,... phù hợp với nếp sống mới, với
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và pháp luật nhà nước.

2.2 Nâng cao chất lượng hoạt động và kiện toàn tổ chức Quốc hội

2.2.1 Nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động lập pháp

Căn cứ vào định hướng phát triển đất nước, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và
điều kiện, khả năng thực hiện mà xác định rõ thứ tự ưu tiên trong chương trình xây
dựng pháp luật dài hạn và hàng năm.

Chỉ đạo chặt chẽ quá trình chuẩn bị và thông qua các dự án luật, đảm bảo
quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, trên cơ sở tổng kết thực tiễn Việt Nam,
tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài, tránh sao chép, rập khuôn. Cần tập
hợp trí tuệ của các nhà khoa học, các chuyên gia, lấy ý kiến nhân dân, nhất là các
đối tượng có liên quan đến việc thi hành pháp luật. Nâng cao chất lượng công tác
thẩm định của các ủy ban của Quốc hội để các kỳ họp của Quốc hội có thể xem xét
và thông qua các dự án luật được nhanh chóng và có chất lượng cao.
23

Giảm dần pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và nghị định của Chính phủ
quy định những vấn đề chưa có luật. Những pháp lệnh, nghị định này sau 1 thời gian
thực hiện, được kiểm nghiệm là đúng thì hoàn chỉnh để chuyển thành luật. Phấn đấu
trong một thời gian nhất định nhà nước có thể quản lý đất nước chủ yếu bằng các
đạo luật.

2.2.2 Nâng cao năng lực quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước

Phấn đấu tiến tới việc Quốc hội thực hiện đầy đủ quyền quyết định ngân sách
như Hiến pháp quy định, đảm bảo các điều kiện để Quốc hội xem xét quyết định một
cách thực chất các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình quốc gia,
các dự án đầu tư lớn cũng như các vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước
và nhân sự.

2.2.3 Nâng cao chất lượng giám sát

Nâng cao chất lượng giám sát của Quốc hội, khẩn trương xây dựng cơ chế
giám sát có hiệu lực. Quốc hội có chương trình giám sát hàng năm tập trung vào
những vấn đề bức xúc như: chống tham nhũng, chống lãng phí, về quản lý vốn và
tài sản nhà nước, bắt giam, điều tra,.. Đổi mới việc xem xét báo cáo công tác và việc
trả lời chất vấn của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân
tối cao.

Đề cao vai trò của cơ quan kiểm toán nhà nước trong việc kiểm toán mọi cơ
quan, tổ chức có sử dụng ngân sách nhà nước. Cơ quan kiểm toán, báo cáo kết quả
cho Quốc hội, Chính phủ và công bố công khai cho dân biết.

2.2.4 Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy


24

Tiếp tục kiện toàn tổ chức Quốc hội. Đại biểu Quốc hội phải có đủ tiêu chuẩn
theo quy định của pháp luật để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của người đại biểu, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng của tầng lớp nhân dân. Cần tăng thêm hợp lý số đại biểu
nguyên trách cho các ủy ban trong Quốc hội. Cải tiến và nâng cao chất lượng hoạt
động của đại biểu Quốc hội và sinh hoạt Quốc hội. Có các hình thức thu hút các
chuyên gia giỏi làm tư vấn cho các Ủy ban của Quốc hội trong các hoạt động thẩm
định và giám sát. Nghiên cứu và thành lập thêm 1 số Ủy ban của Quốc hội.

2.3 Tiếp tục cải chính nền hành chính của Nhà nước.

2.3.1 Nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ.

Chính phủ và bộ máy nhà nước thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm
vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại theo đúng
chức năng phù hợp với cơ chế mới, đó là:

- Quản lý kinh tế - xã hội theo pháp luật, giữ gìn ổn định chính trị - xã hội và
trật tự kỷ cương; chăm lo xây dựng kết cấu hạ tầng và những ngành kinh tế then chốt,
đảm bảo môi trường và điều kiện chung cho nhân dân phát triển sản xuất kinh doanh,
nâng cao đời sống.

- Thông qua các công cụ quản lý vĩ mô và vai trò kinh tế nhà nước để quản lý
thị trường, điều tiết thu nhập kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện
công bằng và tiến bộ xã hội, thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các vùng và các
tầng lớp dân cư.

- Tăng cường kiểm kê, kiểm soát sản xuất và phân bố; quản ý, sử dụng có hiệu
quả vốn và tài sản công với tư cách đại diện chủ sở hữu nhà nước, khắc phục tình
trạng vô chủ, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí.
25

- Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa với tăng cường an ninh, quốc
phòng và mở rộng hoạt động đối ngoại, để các lĩnh vực này tác động hỗ trợ nhau
cùng phát triển.

2.3.2 Đẩy mạnh phân cấp quản lý

Phân định trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền theo hướng phân
cấp rõ hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực
hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.

Trên cơ sở đảm bảo sự quản lý thống nhất của trung ương về thể chế, về chiến
lược và quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân,
cần phân cấp đúng mức và rành mạch trách nhiệm và thẩm quyền hành chính, nhằm
tạo điều kiện và thúc đẩy chính quyền địa phương phát huy tính chủ động, khai thác
mọi tiềm năng tại chỗ để phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương và đóng góp ngày
càng nhiều cho sự phát triển chung của đất nước.

Việc phân định trách nhiệm và thẩm quyền của các cấp chính quyền phải phù
hợp với tính chất và yêu cầu của từng ngành và lĩnh vực hoạt động, với chức năng,
nhiệm vụ của từng cấp chính quyền trên từng địa bàn, phù hợp với điều kiện và khả
năng của các địa phương có quy mô, vị trí khác nhau. Giữa các cấp chính quyền địa
phương cũng cần cụ thể hóa việc phân cấp theo hướng nào, do cấp nào giải quyết
sát với thực tế hơn thì giao nhiệm vụ và thẩm quyền cho cấp đó.

2.3.3 Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra

Tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, coi đó là công cụ quan
trọng và hữu hiệu để đảm bảo hiệu lực quản lý nhà nước, thiết lập kỷ cương xã hội.
26

Đổi mới tổ chức thanh tra phù hợp với chức năng quản lý nhà nước trong điều
kiện mới, phát triển mạnh tổ chức thanh tra việc thực hiện thể chế từng lĩnh vực
trong toàn xã hội như tài chính, lao động, giáo dục, vệ sinh – y tế,...

Đẩy mạnh hoạt động tự thanh tra, kiểm tra trong nội bộ các cơ quan, tổ chức
nhà nước, đề cao trách nhiệm kiểm tra của các cấp trên đối với cấp dưới, của các cấp
chính quyền đối với mọi cơ quan, tổ chức trên địa bàn lãnh thổ.

2.4 Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương

2.4.1 Kiện toàn chính quyền cơ sở

- Phát huy vai trò của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn trong việc xem
xét, quyết định các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, an ninh trật tự, đời sống nhân dân, về
ngân sách và giám sát việc điều hành của Ủy ban nhân dân.

- Thực hiện hình thức, biện pháp bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân
dân ở cơ sở, đồng thời quy định một số trách nhiệm nhất định giao cho nhóm đại
biểu Hội đồng nhân dân xã theo từng thôn (làng, ấp) như tổ chức việc xây dựng, thực
hiện hương ước,...

- Quy định hợp lý số lượng cán bộ chính quyền cơ sở có phân biệt theo địa
điểm và dân số của từng loại đơn vị cơ sở, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng và
chính sách đãi ngộ phù hợp với chức trách của họ.

2.4.2 Đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các
cấp

- Kiện toàn và củng cố Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp để thực
hiện tốt nhiệm vụ và thẩm quyền đã được phân cấp; đồng thời, đề cao trách nhiệm
27

tham gia cùng chính quyền cấp trên thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với tổ
chức theo ngành dọc trên địa bàn lãnh thổ.

- Xây dựng Hội đồng nhân dân các cấp có thực quyền để thực hiện đầy đủ vai
trò là cơ quan đại diện của nhân dân, cơ quan quyền lực của nhà nước ở địa phương,
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở từng cấp.

- Nghiên cứu phân biệt sự khác nhau giữa hoạt động của chính quyền đô thị
với chính quyền nông thôn để đa dạng hóa mô hình tổ chức chính quyền địa phương.

- Ủy ban nhân dân các cấp cần được kiện toàn theo hương tinh gọn, giảm bớt
số ủy viên là thủ trưởng cơ quan chuyên môn, quy định rõ hơn trách nhiệm, thẩm
quyền của tập thể Ủy ban nhân dân và chủ tịch Ủy ban nhân dân.

2.5 Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức:

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực là yếu tố quyết
định chất lượng bộ máy nhà nước. Có biện pháp thực hiện tốt chủ trương về xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức đã nêu trong Nghị quyết Trung ương VIII và các
điểm bổ sung sau đây:

- Cán bộ lãnh đạo phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức toàn diện, trước hết
về đường lối chính trị, về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, được bố trí,
điều động theo nhu cầu và lợi ích của đất nước, có thể được luân chuyển từ trung
ương về địa phương, từ địa phương lên trung ương và từ địa phương này ra địa
phương khác. Nghiên cứu bổ sung cơ chế chọ cử, điều động các chức danh cán bộ
lãnh đạo chủ chốt các cấp cho phù hợp. Riêng đối với chức danh chủ tịch Ủy ban
nhân dân, trong trường hợp chưa đến thời hạn bầu cử Hội đồng nhân dân mà cần bố
trí một đồng chí không phải là thành viên Hội đồng nhân dân làm chủ tịch Ủy ban
28

nhân dân cùng cấp thì đưa ra Hội đồng nhân dân bầu để đồng chí đó làm chủ tịch
Ủy ban nhân dân.

- Xúc tiến ban hành thể chế và tổ chức thực hiện việc kê khai về tài sản trước
hết về nhà, đất của cán bộ.Quy định chặt chẽ các chế độ, tiêu chuẩn của cán bộ lãnh
đạo các cấp, các ngành về sử dụng ô tô, trang bị nơi làm việc, nhà và đất ở... với tinh
thần tiết kiệm, công bằng, chống lãng phí, chống đặc quyền, đặc lợi.
29

KẾT LUẬN

Trong lịch sử, tư tưởng “lấy dân làm gốc” đã sớm xuất hiện ở những nhà nước
lãnh đạo, những nhà chính trị lớn. Nhưng đến Hồ Chí Minh, tư tưởng về nhà nước
trong sạch vững mạnh, nhà nước của dân, do dân , vì dân mới được phát triển sâu
săc, phong phú về nội dung, với chất lượng mưới, trở thành một quan điểm khoa học
nhân tạo về bản chất nhà nước mới, nhà nước của dân, do dân, vì dân; nhà nước
trong sạch, vững mạnh và hiệu quả. Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
nhà nước trong sạch, vững mạnh có giá trị lý luận và thực tế to lớn, sâu sắc, định
hướng cho việc xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa. Với những kết quả đạt được trong quá trình đổi mới, cũng như những khó
khăn tồn tại , hoàn thiện nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa đã tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến quá trình đổi mới đất nước nói
chung. Thực tế cho thấy, vấn đề hoàn thiện và đổi mới nhà nước hiện nay là một quá
trình khó khăn cả trên lý thuyết lẫn thực tiễn. Điều đó đòi hỏi Đảng, nhà nước và
nhân dân ta cần có những bước đi và giải pháp vừa khẩn trương vừa vững chắc trong
việc tiếp tục cải cách triệt để hơn nữa tổ chức và hoạt động của nhà nước để đáp ứng
được tình hình mới của nhà nước trong quá trình chấn hưng dân tộc và hội nhập ngày
nay.
30

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.

3. Nguyễn Đình Lộc: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.

4. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng ta, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2009

5. Cơ quan nghiên cứu và ngôn luận của Học viện Hành chính Quốc gia, đăng ngày
23/7/2020

https://www.quanlynhanuoc.vn/2020/07/23/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-xay-dung-
nha-nuoc-trong-sach-hoat-dong-co-hieu-
qua/?fbclid=IwAR3yWabSRXCyKpCggwN769oyhUg9ZmJdZG3EunHxklPMTN
Q4ONpW58DuHH8

6. Cơ quan của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đăng ngày 19/5/2018

https://kiemsat.vn/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-nha-nuoc-phap-quyen-cua-dan-do-dan-
vi-dan-va-van-dung-trong-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-48997.html

7. Trang thông tin điện tử đoàn tổng công ty đường sắt Việt Nam đăng ngày
22/4/2013

https://thanhnienduongsat.vn/index.php?language=vi&nv=news&op=hoc-tap-dao-
duc-ho-chi-minh/chuyen-de-1-khai-niem-nguon-goc-qua-trinh-hinh-thanh-tu-
tuong-ho-chi-minh-770.html

You might also like