You are on page 1of 23

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT
BỘ MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chủ đề tiểu luận: Vấn đề xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh
theo tư tưởng Hồ Chí Minh – thực trạng và giải pháp

Giảng viên:

TP. HCM, tháng 5 năm 2023


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................................1

2. Mục tiêu nghiên cứu....................................................................................................2

3. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................2

4. Ý nghĩa của đề tài........................................................................................................3

NỘI DUNG.....................................................................................................................4

CHƯƠNG 1. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH..............................................................................4

1.1. Bản chất giai cấp của nhà nước................................................................................4

1.2. Nhà nước trong sạch, vững mạnh.............................................................................5

1.2.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước...........................................................................5

1.2.2. Phòng, chống tiêu cực trong Nhà nước..............................................................7

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG SẠCH,
VỮNG MẠNH..............................................................................................................10

2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước trong sạch, vững
mạnh trong giai đoạn hiện nay......................................................................................10

2.2. Những thành tựu đạt được trong xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh.......12

2.3. Những hạn chế còn tồn tại trong xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh.......13

2.4. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế còn tồn tại...................................................14

2.5. Giải pháp xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh trong thời gian tới.............15

KẾT LUẬN...................................................................................................................18

TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................19


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của
Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta
giành thắng lợi.

Trong hệ thống quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh có tư tưởng về xây dựng
nhà nước trong sạch, vững mạnh chiếm một vị trí quan trọng. Hồ Chí Minh đã tiếp thu
chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy ở lý luận đó những giá trị phổ biến có tính quy luật
và phương pháp luận khoa học, để vận dụng và phát triển sáng tạo. Người kế thừa di
sản truyền thống của dân tộc và với 30 năm hoạt động ở nước ngoài tiếp cận nhiều
nền văn hóa, văn minh của nhân loại, phát triển nhận thức cùng thời đại.

Từ những năm đầu thực hiện Đổi mới, Việt Nam đã đặt ra mục tiêu xây dựng
một nền kinh tế vững mạnh, đồng thời cũng xác định rõ nhiệm vụ xây dựng một nhà
nước trong sạch, vững mạnh. Thông qua nhiều chính sách, pháp luật, cũng như những
đợt đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, các cơ quan chức năng, Việt
Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong việc xây dựng nhà nước trong sạch,
vững mạnh. Tuy nhiên, trong thời gian thực hiện, việc xây dựng nhà nước trong sạch,
vững mạnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn và thách thức. Những hạn chế và vấn đề tồn
tại còn đang là một thách thức lớn đối với quá trình phát triển của Việt Nam.

Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, việc nghiên cứu và đưa ra giải pháp xây dựng
nhà nước trong sạch, vững mạnh là rất cần thiết và quan trọng. Thông qua việc tìm
hiểu về tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như đánh giá thực trạng, chúng ta sẽ tìm ra
những giải pháp cụ thể để hoàn thiện công tác xây dựng nhà nước trong sạch, vững
mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển bền vững của đất nước.

1
Xuất phát từ những lý do trên cho thấy việc phân tích đề tài: “Vấn đề xây dựng
nhà nước trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh – thực trạng và giải
pháp” là vô cùng cấp thiết.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá thực trạng của quá trình xây dựng nhà
nước trong sạch, vững mạnh hiện nay và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên
cứu tập trung vào việc phân tích các thành tựu và hạn chế của quá trình xây dựng nhà
nước trong sạch, vững mạnh và đưa ra các giải pháp cụ thể để tăng cường công tác
xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh trong tương lai.

Trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển kinh tế và xã hội của Việt Nam đang
ngày càng mạnh mẽ, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số thách thức trong công tác xây
dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh. Điều này đòi hỏi chúng ta cần đánh giá lại tình
hình hiện tại và đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển của
đất nước.

3. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu cho đề tài "Vấn đề xây dựng nhà nước trong sạch,
vững mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh - thực trạng và giải pháp" sẽ sử dụng phương
pháp nghiên cứu kết hợp giữa phương pháp nghiên cứu lý thuyết và phương pháp
nghiên cứu thực địa.

Phương pháp nghiên cứu lý thuyết sẽ tập trung vào việc phân tích tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh. Các tài liệu, sách vở, bài báo,
các diễn đàn trực tuyến và các nguồn tư liệu khác sẽ được sử dụng để phân tích và
đánh giá tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề này.

Phương pháp nghiên cứu thực địa sẽ tập trung vào việc khảo sát thực trạng xây
dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh tại Việt Nam hiện nay, đánh giá những thành
tựu đã đạt được và những hạn chế, thách thức đang tồn tại. Nghiên cứu sẽ tiến hành
thông qua việc thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu.
2
Kết hợp giữa phương pháp nghiên cứu lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
thực địa sẽ giúp cho nghiên cứu trở nên toàn diện và đầy đủ, đồng thời cung cấp được
cái nhìn sâu sắc và rõ ràng về vấn đề xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh theo
tư tưởng Hồ Chí Minh.

4. Ý nghĩa của đề tài

Đề tài "Vấn đề xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng Hồ
Chí Minh – thực trạng và giải pháp" có ý nghĩa rất quan trọng và thiết thực trong thời
điểm hiện nay. Việc xây dựng một nhà nước trong sạch, vững mạnh luôn là một mục
tiêu quan trọng và cần thiết đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là trong bối cảnh thế giới
đang phải đối mặt với nhiều thách thức và biến động.

Đề tài này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Người về xây dựng một nhà nước trong sạch, vững mạnh. Điều này giúp chúng ta
có thể áp dụng tư tưởng của Người vào thực tiễn, xây dựng một nhà nước trong sạch,
vững mạnh và phát triển bền vững.

Nghiên cứu về thực trạng và những hạn chế còn tồn tại trong quá trình xây
dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh cũng giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về tình
hình hiện tại, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế và thách
thức đó.

Việc nghiên cứu và đề xuất giải pháp để xây dựng một nhà nước trong sạch,
vững mạnh là một nhiệm vụ cấp bách và là nhiệm vụ lớn của các nhà nghiên cứu và
các chính trị gia trong thời điểm hiện nay. Đề tài này cũng đóng góp đáng kể vào việc
tăng cường sự hiểu biết và nhận thức của cộng đồng về vấn đề này, đồng thời đưa ra
các giải pháp cụ thể nhằm đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước.

3
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG SẠCH, VỮNG


MẠNH THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1.1. Bản chất giai cấp của nhà nước

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ, nhưng
tuyệt nhiên nó không phải là “nhà nước toàn dân”, hiểu theo nghĩa là nhà nước phi
giai cấp. Nhà nước ở đâu và bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định.
Nhà nước Việt Nam mới - Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, theo quan điểm
của Hồ Chí Minh, là một nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai
cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam thể hiện trên mấy phương diện:

Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vị trí và vai trò cầm quyền. Lời nói đầu
của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân
dần, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Ngay
trong quan điểm về nhà nước dân chủ, nhà nước do nhân dân là người chủ nắm chính
quyền, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh nòng cốt của nhân dân là liên minh công - nông -
trí, do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo.

Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước Việt Nam thể hiện ở tính định hướng xã
hội chủ nghĩa trong sự phát triển đất nước. Đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu cách mạng nhất quán của Hồ Chí Minh. Việc giành lấy
chính quyền, lập nên Nhà nước Việt Nam mới chính là để giai cấp công nhân và nhân
dân lao động có được một tổ chức mạnh mẽ nhằm thực hiện mục tiêu nói trên.

Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện ở nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh rất chú ý đến cả
hai mặt dân chủ và tập trung trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy, cơ quan
nhà nước. Người nhấn mạnh đến sự cần thiết phải phát huy cao độ dân chủ, đồng thời
cũng nhấn mạnh phải phát huy cao độ tập trung, Nhà nước phải tập trung thống nhất
quyền lực để tất cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân.

4
Trong Nhà nước Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính
nhân dân và tính dân tộc. Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công mối quan hệ
giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng
của Người về Nhà nước mới ở Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc, thể hiện cụ thể như sau:

Một là, Nhà nước mới ở Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài,
gian khổ của nhiều thế hệ người Việt Nam, của toàn thể dân tộc. Từ giữa thế kỷ XIX,
khi đất nước bị ngoại xâm, các tầng lớp nhân dân Việt Nam, hết thế hệ này đến thế hệ
khác đã không quản hy sinh, xương máu chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Từ
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trở thành lực lượng lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng của dân tộc, với chiến lược đại đoàn kết đúng đắn, sức mạnh của toàn dân tộc đã
được tập hợp và phát huy cao độ, chiến thắng ngoại xâm, giành lại độc lập, tự do.

Hai là, Nhà nước Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định rõ và luôn kiên trì,
nhất quán mục tiêu vì quyền lợi của nhân dân, lấy quyền lợi của dân tộc làm nền tảng.
Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định quyền lợi cơ bản của giai
cấp công nhân thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và của toàn dân tộc.

Ba là, Nhà nước mới ở Việt Nam đã đảm đương nhiệm vụ mà toàn thể dân tộc
giao phó là tổ chức nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự
do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới. Con đường quá
độ lên chủ nghĩa xã hội và đi đến chủ nghĩa cộng sản là con đường mà Hồ Chí Minh
và Đảng ta đã xác định, cũng là sự nghiệp của chính Nhà nước.

1.2. Nhà nước trong sạch, vững mạnh

1.2.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước

Để giữ vững bản chất của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước hoạt động có hiệu
quả, phòng chống thoái hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ nhà nước, Hồ Chí Minh
rất chú trọng vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước.

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu.
Các cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước, dù ít hay nhiều đều nắm giữ quyền lực trong
5
tay. Quyền lực này là do nhân dân ủy thác cho. Tuy nhiên, một khi đã nắm giữ quyền
lực, cơ quan nhà nước hay cán bộ nhà nước đều có thể trở nên lạm quyền. Người chỉ
rõ: “dân ghét các ông chủ tịch, các ông ủy viên vì cái tật ngông nghênh, cậy thế, cậy
quyền. Những ông này không hiểu nhiệm vụ và chính sách của Việt Minh, nên khi
nắm được chút quyền trong tay vẫn hay lạm dụng”. Vì thế để bảo đảm tất cả mọi
quyền lực thuộc về nhân dân, cần kiểm soát quyền lực nhà nước.

Vổ hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước, theo Hồ Chí Minh, trước hết, cần
phát huy vai trò, trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc, là Đảng cầm quyền,
lãnh đạo Nhà nước và xã hội, chính vì vậy, Đảng có quyền và có trách nhiệm kiểm
soát quyền lực nhà nước. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Công việc của Đảng và Nhà nước
ngày càng nhiều. Muốn hoàn thành tốt mọi việc, thì toàn thể đảng viên và cán bộ phải
chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và chính sách của Đảng. Và muốn như vậy, thì các
cấp ủy đảng phải tăng cường công tác kiểm tra. Vì kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và
giáo dục đẳng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm
gương mẫu tốt cho nhân dân". Để kiểm soát có kết quả tốt, theo Hồ Chí Minh, cần có
hai điều kiện là việc kiểm soát phải có hệ thống và người đi kiểm soát phải là những
người rất có uy tín. Người còn nêu rõ hai cách kiểm soát là từ trên xuống và từ dưới
lên. Người nhấn mạnh, phải “khéo kiểm soát.

Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước dựa trên cách thức tổ chức bộ máy nhà
nước và việc phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước
bước đầu cũng đã được Hồ Chí Minh đề cập. Hiến pháp năm 1946 ghi rõ một số hình
thức kiểm soát bên trong Nhà nước, trong đó nổi bật là kiểm soát của Nghị viện nhân
dân đối với Chính phủ, chẳng hạn, Nghị viện nhân dân có quyền “Kiểm soát và phê
bình Chính phủ”, “Bộ trưởng nào không được Nghị viện tín nhiệm thì phải từ chức”,
v.v..

Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, vì thế, nhân dân có quyền
kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây là hình thức được Hồ Chí Minh đề cập rất cụ thể.
Người nhấn mạnh: “Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải
có quần chúng giúp mới được”. Đảng cầm quyền cần chú ý phát huy vai trò kiểm soát

6
quyền lực của nhân dân, bởi so với số nhân dân thì số đảng viên chỉ là tối thiểu, hàng
trăm người dân mới có một đảng viên. Nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng
không làm được việc gì hết. Đối với Nhà nước, là công bộc của dân, “mọi công tác
phải dựa hẳn vào quần chúng, hoan nghênh quần chúng đôn đốc và kiểm tra”.

1.2.2. Phòng, chống tiêu cực trong Nhà nước

Trong quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước Việt Nam, Hồ Chí Minh thường
nói đến những tiêu cực sau đây để nhắc nhở mọi người đề phòng và khắc phục:

Một là, đặc quyền, đặc lợi. Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi
phải tẩy trừ những thói cậy mình là người trong cơ quan chính quyền để cửa quyển,
hách dịch với dân, lạm quyền, đồng thời để vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để
làm lợi cho cá nhân mình, làm như thế tức là sa vào chủ nghĩa cá nhân.

Hai là, tham ô, lãng phí, quan liêu. Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan liêu
là “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, thứ giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Người
thường phê bình những người "lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo
đức". Quan điểm của Hồ Chí Minh là: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý
hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến... Tội lỗi ấy cũng nặng
như tội lỗi Việt gian, mật thám”. Ngày 27/11/1946, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh ấn
định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ với mức từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai và phải
nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ. Ngày 26/1/1946, Hồ Chí Minh ký lệnh nói rõ tội
tham ô, trộm cắp đến mức cao nhất là tử hình.

Lãng phí là một căn bệnh mà Hồ Chí Minh lên án gay gắt. Bản thân Người
luôn làm gương, tích cực thực hành chống lãng phí trong cuộc sống và công việc hằng
ngày. Người quý trọng từng đồng tiền, bát gạo do dân đóng góp cho hoạt động của bộ
máy nhà nước. Lãng phí ở đây được Hồ Chí Minh xác định là lãng phí sức lao động,
lãng phí thời gian, lãng phí tiền của. Chống lãng phí là biện pháp để tiết kiệm, là quốc
sách của mọi quốc gia.

Bệnh quan liêu không những có ở cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện mà còn
có ngay ở cả cấp cơ sở. Hồ Chí Minh phê bình những người và các cơ quan lãnh đạo
từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán

7
bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem
xét khắp mọi mặt, không đi sâu từng vấn đề. Bệnh quan liêu làm cho chúng ta chỉ biết
khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn
thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tại mà không nghe thấu, có chế độ mà không
giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững... Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng,
che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, đây là bệnh gốc sinh ra các bệnh tham ô,
lãng phí; muốn trừ sạch bệnh tham ô, lãng phí thì trước hết phải tẩy sạch bệnh quan
liêu.

“Tư túng”, “chia nỗ”, “kiêu ngạo"là những căn bệnh gây mất đoàn kết, gây rối
cho công tác. Hồ Chí Minh kịch liệt lên án tệ kéo bè, béo cánh, bà con, bạn hữu mình
không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không
vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Trong chính quyển, hiện tượng gây mất đoàn kết,
không biết cách làm cho mọi người hoà thuận với nhau còn tồn tại, còn có người
“bênh vực lớp này, chống lại lớp khác". Ngoài bệnh cậy thế, có người còn kiêu ngạo,
tưởng mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi cử chỉ lúc nào cũng vác mặt
“quan cách mạng”, làm mất uy tín của Chính phủ là thần thánh rồi cử chỉ lúc nào cũng
vác một “quan cách mạng", làm mất uy tín của Chính phủ.

Để tìm ra biện pháp phòng, chống tiêu cực trong bộ máy nhà nước, Hồ Chí
Minh đã dày công luận giải nguyên nhân nảy sinh tiêu cực. Những nguyên nhân này
được Hổ Chí Minh tiếp cận rất toàn diện. Trước hết là nguyên nhân chủ quan, bắt
nguồn từ căn “bệnh mẹ” là chủ nghĩa cá nhân, từ sự thiếu tu dưỡng, ròn luyện của bản
thân cán bộ. Bốn cạnh đó còn có những nguyên nhân khách quan. từ gần đến xa, là do
công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước chưa tốt; do cách tổ chức, vận hành trong
Đảng, trong Nhà nước, sự phối hợp giữa Đảng với Nhà nước chưa thật sự khoa học,
hiệu quả; do trình độ phát triển còn thấp của đời sống xã hội; do tàn dư của những
chính sách phản động của chế độ thực dân, phong kiến; do âm mưu chống phá của các
lực lượng phản động, v.v.. Các nguyên nhân này không tồn tại biệt lập với nhau, mà
có sự kết hợp với nhau, tiến công vào đội ngũ cán bộ. Nếu Đảng và Nhà nước không
có biện pháp phòng, chống tốt, không có chính sách bảo vệ cán bộ một cách có hiệu
quả, thì nguy cơ mất cán bộ là rất lớn.

8
Phòng, chống tiêu cực trong Nhà nước là nhiệm vụ hết sức khó khăn. Trong
nhiều tác phẩm khác nhau, ở nhiều thời điểm khác nhau, Hồ Chí Minh đã nêu lên
nhiều biện pháp khác nhau. Khái quát lại, có một số biện pháp cơ bản như sau:

Một là, nâng cao trình độ dân chủ trong xã hội, thực hành dân chủ rộng rãi,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân là giải pháp căn bản và có ý nghĩa lâu dài.

Hai là, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Công tác
kiểm tra phải thường xuyên. Cán bộ, đảng viên phải nghiêm túc và tự giác tuân thủ
pháp luật, kỷ luật. Đối với những kẻ thoái hóa, biến chất, pháp luật phải “thẳng tay
trừng trị", bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Trong Nhà nước “trăm đều
phải có thần linh pháp quyền" thì tuyệt nhiên không có bất cứ vùng cấm nào.

Ba là, phạt nghiêm minh, nghiêm khắc, đúng người đúng tội là cần thiết, song
việc gì cũng xử phạt thì lại không đúng. Cần coi trọng giáo dục, lấy giáo dục, cảm hóa
làm chủ yếu. Chỉ có như vậy mới làm cho cái tốt trong mỗi người được phát huy và
cái xấu mất dẫn đi. Trong giáo dục cán bộ, phải coi trọng giáo dục đạo đức, xây dựng
hệ chuẩn mực đạo đức của người cầm quyền, khơi dậy lương tâm trong mỗi con
người. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to,
cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục
khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư.

Bốn là, cán bộ phải đi trước làm gương, cán bộ giữ chức vụ càng cao, trách
nhiệm nêu gương càng lớn. Cán bộ, đặc biệt là người đứng đầu, có ý thức nêu gương
tu dưỡng đạo đức, chống tiêu cực sẽ có tác động rất mạnh mẽ đến cấp dưới, đến nhân
dân, góp phần gây nên những đức tính tốt trong nhân dân. Đây là một nét đặc sắc
trong văn hoá chính trị Việt Nam.

Năm là, phải huy động sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước vào cuộc chiến chống
lại tiêu cực trong con người, trong xã hội và trong bộ máy nhà nước. Bất kỳ người
Việt Nam nào có lòng tự hào, tự tôn dân tộc, thì dù là người dân bình thường, hay cán
bộ, đảng viên, thì đều phải có trách nhiệm tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng.

9
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG
SẠCH, VỮNG MẠNH

2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước trong sạch,
vững mạnh trong giai đoạn hiện nay

Trải qua các thời kỳ cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước ta không ngừng lớn mạnh và từng bước hoàn thiện về mọi mặt, ngày
càng đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.

Xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của nhân dân luôn là mối quan tâm của Ðảng ta.
Ðảng chủ trương xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa phải bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân;
quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; hoàn thiện hệ thống pháp
luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật; xây dựng,
hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và
quyết định của các cơ quan công quyền.

Thực hiện chủ trương của Ðảng, những năm qua, hoạt động lập pháp của Quốc
hội nước ta đã có nhiều tiến bộ, thông qua một số lượng lớn luật và Bộ luật với chất
lượng ngày càng được nâng cao, bước đầu đáp ứng yêu cầu của công cuộc phát triển
đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế.

Các luật được ban hành theo hướng cụ thể hơn, bám sát yêu cầu về mọi mặt
của công cuộc đổi mới, xử lý tốt hơn một số vấn đề nhạy cảm, phản ánh đầy đủ hơn
thực tiễn xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, hoạt động giám sát của Quốc hội có bước
đổi mới cả về nội dung và hình thức, góp phần thúc đẩy việc thực hiện pháp luật và
các Nghị quyết của Quốc hội. Việc Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của
đất nước cũng ngày càng thực chất hơn, từ tổ chức bộ máy, nhân sự cấp cao của Nhà
nước, đến nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách Nhà nước, chủ trương đầu
tư các dự án, công trình quan trọng quốc gia.

10
Trong quản lý nhà nước và chỉ đạo, điều hành, Chính phủ đã triển khai thực
hiện đồng bộ, toàn diện các nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh vực pháp luật đã quy định và
đã đạt được những tiến bộ trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, kiểm soát
và ổn định kinh tế vĩ mô, huy động các nguồn lực cho phát triển kinh tế-xã hội; mở
rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, đẩy mạnh cải cách hành chính, chống tham
nhũng, lãng phí; bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là một sự kiện chính trị trọng
đại, một dấu mốc rất quan trọng, có ý nghĩa định hướng, cổ vũ, động viên toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa đất
nước phát triển nhanh và bền vững. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
được chuẩn bị công phu với nhiều điểm mới, điểm nhấn; trong đó, có những nhận
thức lý luận mới về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, trong sạch.

Theo Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh là
nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Nhà nước và toàn bộ xã hội. Nhà nước trong sạch,
vững mạnh là một yếu tố quan trọng để bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước,
nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo quyền lợi của các tầng lớp nhân dân, xây dựng
một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Nhà nước vốn là “một trong những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất”
nhưng “là một vấn đề rất cơ bản, rất mấu chốt trong toàn bộ chính trị” (2). Vì thế, trong
đường lối lãnh đạo của mình ở từng thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc
biệt coi trọng việc đề ra đường lối xây dựng và hoàn thiện Nhà nước - yếu tố trung
tâm của hệ thống chính trị. Trong những năm sắp tới, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn
mạnh: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trong sạch, vững mạnh do Đảng lãnh
đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”1.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 174.
11
Bên cạnh đó, tại Đại hội XIII của Đảng, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
không chỉ được đề cập trong Báo cáo chính trị, mà còn được trình bày riêng trong Báo
cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng.

Trước hết về chủ đề, Đại hội XIII của Đảng đã phát triển thành tố “Tăng cường
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” của Đại hội XII thành “Tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”. Nhận thức mới là bổ
sung nhiệm vụ “xây dựng hệ thống chính trị” cùng với xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh; và không chỉ đề cập đến xây dựng Đảng, mà còn cả chỉnh đốn Đảng.

2.2. Những thành tựu đạt được trong xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh

Qua hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nhận thức về mô hình tổ chức
quyền lực nhà nước đã có sự phát triển về chất để chỉ đạo quá trình xây dựng và hoàn
thiện bộ máy nhà nước. Từ Nhà nước hành chính, quan liêu bao cấp, tổ chức và hoạt
động theo mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa sang tổ chức quyền lực nhà nước theo
mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với những nguyên tắc tổ chức và hoạt
động mới, là một bước đột phá về nhận thức tư duy, lý luận để từng bước chỉ đạo quá
trình cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Qua hơn 35 năm đổi mới, đặc biệt là 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011),
việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có bước phát
triển mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đã từng bước được đổi mới, phù hợp
hơn với yêu cầu phát triển của đất nước và thông lệ quốc tế. Bộ máy nhà nước được
sắp xếp ngày càng tinh gọn, gắn với tinh giản biên chế; hoạt động hiệu lực và hiệu quả
hơn trước.

Cải cách hành chính, cải cách tư pháp trên một số lĩnh vực có bước tiến rõ rệt.
Nền hành chính quốc gia đã được cải cách theo hướng phục vụ nhân dân, phục vụ
doanh nghiệp. Tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp, như tòa án nhân dân và viện
kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn,

12
chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của nhân dân và doanh nghiệp.

Nhận thức về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ngày càng đầy đủ, rõ nét,
góp phần đấu tranh có hiệu quả với những biểu hiện lạm dụng, tha hóa quyền lực
trong bộ máy Đảng và Nhà nước, mà đặc biệt là tình trạng tham nhũng, tiêu cực, được
nhân dân và dư luận xã hội đồng tình và ủng hộ. Có thể nói, từ sau Hiến pháp năm
2013 đến nay, từ nhận thức đến tổ chức thực hiện, kiểm soát quyền lực đã được coi
trọng, góp phần làm trong sạch bộ máy của Đảng và Nhà nước.

Vai trò của pháp luật và thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Chỉ trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV vừa
qua, Quốc hội đã xem xét và thông qua 72 dự án luật và 18 nghị quyết có quy phạm
pháp luật, bao quát hầu khắp các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Từ
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế nhà
nước, về công chức, công vụ, về bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công dân, về thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về giáo dục, đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hóa và quốc phòng - an
ninh đều có bước nâng lên về chất lượng làm cho hệ thống pháp luật của nước ta ngày
càng đồng bộ, khả thi, chứa đựng nhiều giá trị trong nước cũng như của nhân loại.
Cùng với việc hoàn thiện pháp luật, việc tổ chức thi hành pháp luật cũng được coi
trọng. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được tăng cường; ý thức
pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức được nâng lên một bước.

2.3. Những hạn chế còn tồn tại trong xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh

Mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng kể trong xây dựng nhà nước trong
sạch, vững mạnh, nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế và thách thức, bao gồm:

Thứ nhất, vấn đề đổi mới đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn hóa,
xã hội, giữa đổi mới kinh tế với đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có
một số mặt còn lúng túng. Ví dụ như, một trong những định hướng đổi mới giáo dục -
đào tạo và y tế theo hướng xã hội hóa với việc hoàn thiện chính sách, pháp luật và tổ
chức bộ máy dịch vụ công còn nhiều lúng túng và thiếu đồng bộ.

13
Thứ hai, cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện. Vai trò giám sát của nhân
dân chưa được phát huy mạnh mẽ. Theo Hiến pháp năm 2013 thì giữa các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp kiểm soát lẫn nhau trong việc thực hiện quyền lực nhà nước,
nhưng mới chỉ coi trọng kiểm soát của quyền lập pháp đối với hành pháp và tư pháp
thông qua giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát của các cơ quan của Quốc hội.
Cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong mỗi quyền chưa độc lập và đủ mạnh. Cơ chế
giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
các cấp hoạt động chưa thực chất, còn có biểu hiện hình thức.

Thứ ba, hệ thống pháp luật còn có những quy định mâu thuẫn, chồng chéo,
thiếu thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội mà
thực tiễn đòi hỏi. Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương phép nước
có nơi, có lúc còn bị xem nhẹ; xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý
chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước.

Thứ tư, tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở một số nơi chưa
được đổi mới một cách mạnh mẽ; chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa
thật rõ ràng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Số lượng cán bộ cấp xã và đội
ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập vẫn còn quá lớn; phẩm chất, năng
lực, uy tín còn hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm
vụ trong tình hình mới.

2.4. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế còn tồn tại

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế còn tồn tại trong xây dựng nhà
nước trong sạch, vững mạnh ở Việt Nam, bao gồm:

Đầu tiên, một trong những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế này là sự khác
biệt về nhận thức và thực tiễn giữa các khu vực, địa phương. Việc phát triển kinh tế và
xã hội không đồng đều đã dẫn đến sự chênh lệch trong nhận thức và thực tiễn của các
địa phương, gây ra sự khác biệt trong quan điểm và phương pháp xử lý vấn đề.

Thứ hai, cơ chế kiểm soát quyền lực của nhà nước chưa hoàn thiện là một
nguyên nhân khác. Vai trò giám sát của nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ, khiến
cho việc kiểm soát quyền lực chưa đủ mạnh và không đảm bảo độc lập và hiệu quả.

14
Việc kiểm soát quyền lực bên trong từng quyền cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của
thực tiễn.

Thứ ba, hệ thống pháp luật còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo và thiếu thống
nhất. Việc chấp hành pháp luật cũng chưa được nghiêm chỉnh và kỷ cương phép nước
có nơi, có lúc còn bị xem nhẹ. Xử lý vi phạm pháp luật chưa được đáp ứng đầy đủ yêu
cầu phát triển đất nước.

Cuối cùng, một nguyên nhân khác dẫn đến các hạn chế trong xây dựng nhà
nước trong sạch, vững mạnh là việc thiếu sự đổi mới, nâng cao năng lực và chất lượng
của cán bộ. Đặc biệt là ở địa phương, sự quản lý và giám sát còn chưa đầy đủ và hiệu
quả, khiến cho việc thực hiện chính sách và quyết định của nhà nước chưa được đồng
bộ và hiệu quả.

2.5. Giải pháp xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh trong thời gian tới

Trước tình hình thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất
nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái
nghiêm trọng và có thể còn kéo dài do tác động của đại dịch COVID-19. Cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá
trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Ở
trong nước, sau hơn 35 năm đổi mới, thế và lực của nước ta ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, vẫn còn một số khó khăn, như nền kinh tế phát triển chưa bền vững, còn
nhiều hạn chế, yếu kém, nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình vẫn còn lớn.
Đứng trước bối cảnh tình hình trong nước và thế giới nói trên; đồng thời, để khắc
phục những yếu kém, hạn chế, để xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh trong
thời gian tới, cần có những giải pháp chủ đạo sau đây:

Phải xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh. Cần đẩy mạnh việc
hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu
quả của Nhà nước; bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa
là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất
nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.

15
Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền
con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Phải xác định rõ cơ chế phân công, phối
hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở
quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi
quyền. Đồng thời, quy định rõ hơn cơ chế phối hợp trong việc thực hiện và kiểm soát
các quyền ở các cấp chính quyền. Tiếp tục phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm
giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền
địa phương.

Đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong
đội ngũ cán bộ, công chức. Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước. Tiếp tục nâng cao hiệu quả thực hiện và đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước.

Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế
hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, lãnh
đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực, lãnh đạo tổ chức
thực hiện có hiệu quả các chủ trương,

Phải đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn. Sai một ly thì đi một dặm, đó là tầm
quan trọng của đường lối, chủ trương của Đảng. Đường lối, chủ trương phải dựa trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phải vận dụng và phát triển
sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh của đất nước từng giai đoạn, thời kỳ.

Phải tổ chức thực hiện thật tốt đường lối, chủ trương của Đảng. Phải thể chế
hóa và phải biến thành hành động tích cực nhất của tất cả các tổ chức của hệ thống
chính trị, trong đó đặc biệt quan trọng là thực thi và phát huy đầy đủ vai trò, trách
nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đối với đội ngũ cán bộ chiến lược, đặc
biệt quan trọng nữa là người đứng đầu phải nêu cao trách nhiệm làm gương tốt để mọi
người noi theo.

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi
16
mới hệ thống chính trị. Định hướng chung là: Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát
quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống
nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm
yêu cầu phát triển nhanh, bền vững.

Cần tiếp tục đổi mới kinh tế và đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, bằng cách xây dựng một chính sách, pháp luật và tổ chức bộ máy dịch vụ công
đồng bộ, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất
nước. Đồng thời, cần tăng cường công tác đào tạo và nâng cao năng lực chuyên môn
cho các cán bộ quản lý nhà nước, đặc biệt là ở địa phương.

Cần tăng cường sự minh bạch, trung thực và tác động của xã hội đối với các
chính sách, quyết định, hoạt động của các cơ quan nhà nước. Điều này có thể đạt được
thông qua việc tăng cường vai trò của các tổ chức xã hội và các phương tiện truyền
thông độc lập.

Cần xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu điều
chỉnh các quan hệ xã hội một cách nhanh chóng và chính xác. Đồng thời, cần tăng
cường sự giám sát và thực thi pháp luật, đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng, đồng
thời tăng cường sự giáo dục và nâng cao nhận thức của người dân về pháp luật.

Cần tăng cường đổi mới, nâng cao năng lực và chất lượng của cán bộ, đặc biệt
là cán bộ ở địa phương. Điều này có thể đạt được thông qua việc đầu tư vào đào tạo,
nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng quản lý, đồng thời tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát và đánh giá năng lực cán bộ.

17
KẾT LUẬN

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ, nhưng
tuyệt nhiên nó không phải là “nhà nước toàn dân”, hiểu theo nghĩa là nhà nước phi
giai cấp. Để giữ vững bản chất của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước hoạt động có
hiệu quả, phòng chống thoái hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ nhà nước, Hồ Chí
Minh rất chú trọng vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo quan điểm của Hồ Chí
Minh, kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu. Các cơ quan nhà nước, cán bộ nhà
nước, dù ít hay nhiều đều nắm giữ quyền lực trong tay. Quyền lực này là do nhân dân
ủy thác cho. Tuy nhiên, một khi đã nắm giữ quyền lực, cơ quan nhà nước hay cán bộ
nhà nước đều có thể trở nên lạm quyền. Trong quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước
Việt Nam, Hồ Chí Minh thường nói đến những tiêu cực sau đây để nhắc nhở mọi
người đề phòng và khắc phục: Đặc quyền, đặc lợi, tham ô, lãng phí, quan liêu. Bệnh
quan liêu không những có ở cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện mà còn có ngay ở cả
cấp cơ sở. “Tư túng”, “chia nỗ”, “kiêu ngạo"là những căn bệnh gây mất đoàn kết, gây
rối cho công tác.

Trải qua các thời kỳ cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước ta không ngừng lớn mạnh và từng bước hoàn thiện về mọi mặt, ngày
càng đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của nhân dân luôn là mối quan tâm của Ðảng
ta. Qua hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nhận thức về mô hình tổ chức quyền
lực nhà nước đã có sự phát triển về chất để chỉ đạo quá trình xây dựng và hoàn thiện
bộ máy nhà nước. Bên cạnh đó vấn đề xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh
cũng đạt nhiều thành tựu quan trọng. Mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng kể
trong xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn

18
chế và thách thức. Chính vì thế trong thời gian tới cần sự nỗ lực hơn nữa của cả hệ
thống chính trị để xây dựng nhà nước Việt Nam trong sạch, vững mạnh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Bộ giáo dục và đào tạo (2021), Giáo trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuấn
bản: Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.

2. Cơ quan Trưng ướng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Xây dựng Nhà nước thật
sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, link:
https://nhandan.vn/xay-dung-nha-nuoc-that-su-trong-sach-vung-manh-hoat-
dong-co-hieu-luc-hieu-qua-post589295.html

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.1, tr.147.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 84 – 85.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr.99.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia, 2021, tr. 71.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, tr 27-28.

8. Hồ Chí Minh(2011), Toàn tập,nxb: Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.8,tr.262.

9. Hồ Chí Minh(2011), Toàn tập,nxb: Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.4,tr.64-
65

10.Hồ Chí Minh(2011), Toàn tập,nxb: Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.10,tr.572

19
20

You might also like