You are on page 1of 15

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HIẾN




Tiểu luận học phần


PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

GV hướng dẫn: TS. NGÔ HỮU NHỊ


Mã học phần: LAW10118
Nhóm thực hiên: 06

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11, năm 2020.


LỜI TRI ÂN

Lời đầu tiên, chúng em xin gữi lời cảm ơn chân thành đến Trường Đại Học Văn
Hiến. Đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng em được học tập và hoàn thành đề tài
nghiên cứu về môn “Pháp luật đại cương”. Đặt biệt, chúng em xin giữ lời tri ân sâu sắc
đến thầy Ngô Hữu Nhị đã dày công truyền đạt kiến thức và hướng dẫn chúng em trong
quá trình làm bài tiểu luận cuối kì. Chúng em đã cố gắng vận dụng những kiến thức đã
học được trong suốt học kì vừa qua để hoàn thành bài tiểu luận này. Nhưng do kiến
thức còn nhiều hạn chế và không có kinh nghiệm nên khó tránh những sai sót trong quá
trình làm bài. Rất kính mong sự góp ý của thầy để bài tiểu luận của chúng em được
hoàn thiện hơn.

Một lần nữa, chúng em xin chân thành cảm ơn thầy đã truyền đạt và giúp đỡ
chúng em hoàn thành bài tiểu luận cuối kì này

Xin chân thành cảm ơn.


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................................

TP. HCM, Ngày….., thàng….., năm 2020.

Chữ ký của giảng viên

MỤC LỤC

I. PHÂN TÍCH TÍNH ƯU, KHUYẾT ĐIỂM CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA................................................................................................................................1

Khái niệm về nhà nước xã hội chủ nghĩa:...............................................................1

1. Tính ưu điểm............................................................................................................1
2. Tính khuyết điểm......................................................................................................3

II. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI.........................................3

1. Pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước:.......3

2. Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội:..............4

3. Pháp luật góp phần tạo dựng những quan hệ mới:.................................................5

4. Pháp luật tạo ra môi trường ổn định trong việc thiết lập các mối quan hệ giao ban
giữa các quốc gia:...........................................................................................................5

5. Pháp luật là cơ sở bảo đảm cho sự tồn tại và vận hành bình thường của xã hội:..6

6. Pháp luật là cơ sở xây dựng một xã hội trật tự, kỷ cương, văn minh và có đạo
đức cao:..........................................................................................................................6

7. Pháp luật là công cụ quản lí xã hội chủ nghĩa:........................................................7

8. Pháp luật là nền tảng hướng đến tính công bằng, nhân đạo và lợi ích của người
lao động:..........................................................................................................................7

III. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG PHÁT QUỐC TẾ...................................................................7

TÀI LIỆU KHAM KHẢO...................................................................................................10


I. PHÂN TÍCH TÍNH ƯU, KHUYẾT ĐIỂM CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA.
 Khái niệm về nhà nước xã hội chủ nghĩa:
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một trong những tổ chức chính trị cơ bản
nhất của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, một công cụ quản lý mà Đảng của
giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân tổ chức ra để qua đó là chủ yếu, nhân dân
lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình, cũng qua đó là chủ yếu mà giai
cấp công nhân và Đảng của nó lãnh đạo xã hội về mọi mặt Nhà nước xã hội chủ
nghĩa nằm trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa nên nó là một loại hình nhà nước dân chủ.

Hình 1-0- 1:Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.

1. Tính ưu điểm.
Khi bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa được hình thành :
- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cở quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp.
- Bản chất của Nhà nước ta là của nhân dân, do dân và vì dân, “tất cả các
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà là nền tảng là liên minh giữ giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức”.
- Bộ máy quản lý Nhà nước phát triển mạnh và không ngừng cũng cố và
hoàn thiện. Nền kinh tế chính trị, xã hội được đổi mới, xã hội chủ nghĩa là bản
chất của Nhà nước. Nhà nước thực hiện quản lý toàn diện về mọi mặt của đời
sống xã hội để bảo đảm sự ổn định chính trị, cũng cố quyền lực nhân dân, phát
1
huy dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội. Thúc đẩy phát triển nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa, những tính chất và mục đích của xã hội chủ nghĩa đã có sự khác biệt
so với những bộ máy nhà nước trước đây.
- Sức mạnh chấn áp với bộ phận chống đối và các hành vi phạm pháp là
sức mạnh tổng hợp của bộ máy Nhà nước của các tổ chức chính trị xã hội và
của nhân dân.
- Đội ngũ cán bộ công chức của bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải
đáp ứng những tiêu chuẩn chung là: có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội,
tận tụy phục vụ nhân dân; có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực, có quan hệ mật
thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm; có trình độ lý luận và thực tiễn, kiên
định tư tưởng và quan điểm của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; có đủ
năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện những nhiệm vụ cụ thể
được giao trong bộ máy nhà nước. Có tinh thần phụng công, thủ pháp, chí công
vô tư, có tính liêm minh, không quan liêu, hách dịch. Họ là những người luôn chịu
sự giám sát của nhân dân và có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào nếu không hoàn
thành nhiệm vụ và không được sự tín nhiệm của nhân dân.
Nhà nước ta dưới chế độ xã hội chủ nghĩa thì Đảng ta đã ban hành và lãnh đạo,
chỉ đạo tổ chức thực hiện những chủ chương, nghị quyết kết luận về xây dựng tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị, đạt được nhiều hiệu quả quan trọng:
- Hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước được đổi mới. Chức năng nhiệm
vụ, mối quan hệ cộng tác của từng tổ chức được phân định, điều chỉnh hợp lý
hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng hoàn thiện pháp quyền nhà nước xã
hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Hệ thống chính trị cơ bản ổn định, phù hợp với cương lĩnh và hiến pháp.
Đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn có ý nghĩa
lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Hình Hình 1- 2:máy


1-- 3:Bộ Nềnnước
kinh xã
tế Việt Nam trong
hội chủ
chế Việt
nghĩa độ xã hội chủ nghĩa.
Nam.

2
2. Tính khuyết điểm.
Tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, chồng chéo về
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền; tiêu chuẩn cán bộ, công chức nhà nước chưa
được xác định rõ ràng, vì vậy còn những cán bộ làm việc trong bộ máy nhà nước
chưa ngang tầm với nhiệm vụ được giao; hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, thiếu
hoàn chỉnh; tình trạng quan liêu, cửa quyền, xa rời quần chúng... vẫn còn, làm
cho hiệu lực quản lý của nhà nước thấp.
Tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa về hệ thống chính trị cơ cấu
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đạt hiệu quả thấp. Tỉ lệ người phục vụ cao,
nhất là khối văn phòng, số lượng lảnh đạo nhiều. Việc bổ nhiệm các cấp “Hàm” ở
một số cơ quan chưa hợp lý.
Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hiệu quả. Việc công khai, minh bạch và
trách nhiệm giải trình chưa hạn chế, cải cách thủ tục hành chính thực hiện chậm,
không đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.
Người hoạt động không chuyên trách cấp xã, thôn, tổ dân phố chính sách
tiền lương còn nhiều bất cập.
Chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, trách nhiệm, mối quan hệ cộng tác của
cấp tỉnh, huyện, xã chưa cụ thể. Về việc quản lý đảng viên ở nhiều nơi vẫn còn
chưa chặc chẽ. Nhiều trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố không phải là Đảng
viên.
Tổ chức bộ máy nhà nước, phương thức mặt trận tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội chậm đổi mới, một số nhiệm vụ vẫn trùng lập, vẫn còn “hành
chính hóa”, “công chức hóa”.
  Tổ chức hội quần chúng lập nhiều ở các cấp, nhưng cơ sở vật chất và
kinh phí hoạt động chủ yếu vẫn dựa vào ngân sách nhà nước.

II. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI.
1. Pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước:
Một trong những nguyên lý, đã được khẳng định là quốc gia chẳng thể tồn tại
thiếu pháp luật và luật pháp không thể phát huy hiệu lực của mình nếu không có sức
mạnh của bộ máy quốc gia. Trong khoa học có những quan điểm nhấn mạnh ý nghĩa
tuyệt đối của quyền lực nhà nước, coi đó là cái nảy sinh cái thứ nhất, còn pháp luật
chỉ là cái phái sinh (cái thứ hai); hoặc coi pháp luật đứng trên quốc gia, quốc gia phải
tuyệt đối phục tùng luật pháp... Là chưa có cơ sở xứng đáng vị:
- Thứ nhất, đúng là pháp luật do nhà nước ban hành, nhưng luật pháp không
phải chỉ là kết quả của tư duy chủ quan một cách đơn thuần, mà nó còn xuất phát từ
những nhu cầu khách quan của tầng lớp. Luật pháp chỉ có thể đi vào cuộc sống nếu
như nó hiệp với trình độ phát triển kinh tế tầng lớp.
- Thứ hai, pháp luật cũng còn cần có quyền lực quốc gia bảo đảm mới có thể
phát huy tác dụng trong thực tại đời sống. Do vậy nói pháp luật đứng trên nhà nước là
không thực tại.
3
- Thứ ba, nhu cầu về luật pháp còn là nhu cầu tự thân của bộ máy quốc gia. Bộ
máy nhà nước là một thiết chế phức tạp bao gồm nhiều bộ phận (nhiều loại cơ quan
quốc gia). Để bộ máy đó hoạt động có hiệu quả đòi hỏi phải xác định đúng chức năng,
thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi loại cơ quan, mỗi cơ quan; phải xác lập mối quan hệ
đúng đắn giữa chúng; phải có những phương pháp tổ chức và hoạt động thích hợp để
tạo ra một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập và thực thi quyền lực quốc gia. Tất
những điều đó chỉ có thể thực hành được khi dựa trên cơ sở vững chắc của những
nguyên tắc và quy định cụ thể của luật pháp.
Thực tế cho thấy khi chưa có một hệ thống quy phạm luật pháp về tổ chức đầy
đủ, đồng bộ, hiệp và chính xác để làm cơ sở cho việc củng cố và hoàn thiện bộ máy
quốc gia thì dễ dẫn đến tình trạng trùng, chồng chéo, thực hành khống đúng chức
năng, thẩm quyền của một số cơ quan quốc gia, bộ máy sẽ sinh ra cồng kềnh và kém
hiệu quả. Giống như trên, pháp luật có vai trò quan yếu trong việc quy định nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của mỗi loại cán bộ, mỗi cán bộ làm việc trong từng cơ quan
cụ thể của bộ máy quốc gia. Nhờ có luật pháp, các hiện tượng lạm quyền, bao biện,
vô trách nhiệm... Của hàng ngũ viên chức nhà nước dễ dàng được phát hiện và loại
trừ.
2. Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội:
Quốc gia là đại diện chính thức của toàn thể từng lớp. Vì vậy nhà nước có chức
năng (nhiệm vụ) quản lý toàn tầng lớp.
Để quản lý toàn tầng lớp, nhà nước dùng nhiều dụng cụ, nhiều biện pháp, nhưng
luật pháp là công cụ quan yếu nhất. Với những đặc điểm riêng của mình, luật pháp có
khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách nhanh nhất,
đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô rộng lớn nhất. Cũng nhờ có luật pháp, quốc
gia có cơ sở để phát huy quyền lực của mình và rà, kiểm soát các hoạt động của các tổ
chức, các cơ quan, các viên chức nhà nước và mọi công dân.
Trong tổ chức và quản lý kinh tế, pháp luật lại càng có vai trò lớn. Bởi, chức năng
tổ chức và quản lý kinh tế của quốc gia có phạm vi rộng và phức tạp, bao gồm nhiều
vấn đề, nhiều mối quan hệ mà nhà nước cần xác lập, điều hành và kiểm soát như
hoạch định chính sách kinh tế, xác định chỉ tiêu kế hoạch, quy định các chế độ tài chính,
tiền tệ, giá... Thảy quá trình tổ chức và quản lý đều đòi hỏi sự hoạt động tích cực của
quốc gia nhằm tạo ra một cơ chế đồng bộ, xúc tiến quá trình phát triển đúng hướng của
nền kinh tế và mang lại hiệu quả thiết thực.
Do thuộc tính phức tạp và khuôn khổ rộng của chức năng quản lý kinh tế, nhà
nước không thể trực tiếp tham dự vào các hoạt động kinh tế cụ thể mà chỉ thực hiện
việc quản lý ở tầm vĩ mô và mang thuộc tính hành chính - kinh tế. Quá trình quản lý kinh
tế không thể thực hành được nếu không dựa vào pháp luật. Chỉ trên cơ sở một hệ
thống văn bản luật pháp kinh tế đầy đủ, đồng bộ, hiệp với thực tiễn (điều kiện và trình
độ phát triển của kinh tế xã hội) và kịp thời trong mỗi thời kỳ cụ thể, quốc gia mới có thể
phát huy được hiệu lực của mình trong lĩnh vực tổ chức và quản lý kinh tế, xã hội.

4
3. Pháp luật góp phần tạo dựng những quan hệ mới:
Bên cạnh chức năng đề đạt, luật pháp còn có tính tiên phong, định hướng cho sự
phát triển của các quan hệ từng lớp. Có thể nói, luật pháp có vai trò quan trọng trong
việc tạo dựng (lập) nên những quan hệ mới.
Trên cơ sở xác định thực trạng từng lớp với những tình huống (sự kiện) cụ thể,
tiêu biểu, tồn tại và tái diễn bộc trực ở những thời khắc cụ thể trong tầng lớp, nhà nước
đề ra pháp luật để điều chỉnh kịp thời và hiệp. Nhưng cuộc sống vốn sống động và thực
tế thường diễn ra với những đổi thay thẳng tuột. Tuy nhiên, về cơ bản những đổi thay
đó vẫn diễn ra theo những quy luật nhất thiết mà con người có thể nhận thức được.
Dựa trên cơ sở của những kết quả và dự báo khoa học, người ta có thể dự định
được những đổi thay có thể diễn ra với những tình huống (sự kiện) cụ thể, điển hình
cần có sự điều chỉnh bằng luật pháp. Từ đó luật pháp được đặt ra để định hướng trước,
xác lập những quy định và có thể thiết kế những mô hình tổ chức quy định chức năng
nhiệm vụ và tổ chức thí nghiệm... Tuy vậy, pháp luật bao giờ cũng có sự ổn định tương
đối. Sự hình thành mới hoặc thay đổi thường chỉ diễn ra với từng bộ phận của hệ thống
pháp luật, ít có những đột biến toàn phần trong một thời kì ngắn. Tính định hướng của
luật pháp cũng theo quy luật đó. Hệ thống quy phạm định hướng chỉ là một bộ phận
nhất định của hệ thống pháp luật thực định của mỗi nhà nước.
Sự phối hợp hài hòa giữa tính cụ thể của luật pháp với tính tiền phong (định
hướng) của nó có một ý nghĩa rất quan yếu là tạo ra được sự ổn định và phát triển, kế
thừa và đổi mới trực tính, làm cho luật pháp năng động, hiệp hơn, tiến bộ hơn.
4. Pháp luật tạo ra môi trường ổn định trong việc thiết lập các mối quan hệ giao ban
giữa các quốc gia:
Có một thực tiễn là tiện chế chính trị có thể đổi thay, tức là quyền lực của một bộ
máy quốc gia trong một thời kỳ lịch sử nhất mực có thể đổi thay, nhưng nhân dân và
quyền lực quần chúng vẫn tồn tại và phát triển. Những quan hệ đa chiều trong xã hội
vẫn phát triển và đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng pháp luật để bảo đảm sự ổn định
thứ tự. Bởi thế, quyền lực dân chúng là vấn đề căn bản; trật tự từng lớp là đòi hỏi khách
quan và những nhu cầu về luật pháp là xoành xoạch có.
Luật pháp và nhà nước luôn có quan hệ khăng khít với nhau “như hình với bóng”.
Nhưng đó là nói ở góc độ chung. Khi tiếp cận ở giác độ cụ thể, luật pháp có những nét
riêng cơ bản. Đó là khi luật pháp phản ánh đúng những lợi. Của dân tộc, của quần
chúng thì dù chế độ nhà nước nào cũng phải trọng. Nếu đi trái lại điều đó là ngược với
lợi. Của dân tộc, của nhân dân và sẽ bị nhân dân phản đối, không coi trọng, không chấp
hành. Xét ở góc độ này, luật pháp còn có vai trò giữ gìn sự ổn định và thứ tự xã hội.
Sự ổn định của mỗi nhà nước là điều kiện quan trọng để tạo ra niềm tin, là cơ sở
để mở mang các mối bang giao với các nước khác. Trong thời đại ngày nay, phạm vi
của các mối quan hệ bang giao giữa các nước càng ngày càng lớn và nội dung thuộc
tính của các quan hệ đó càng ngày càng đa diện (nhiều mặt). Cơ sở cho việc thiết lập
và củng cố các mối quan hệ bang giao đó là pháp luật (luật pháp quốc tế và pháp luật
5
nhà nước). Khởi hành từ nhu cầu đó, hệ thống luật pháp của mỗi nước cũng có bước
phát triển mới: Bên cạnh những văn bản luật pháp quy định và điều chỉnh các quan hệ
tầng lớp có liên quan đến các chủ thể luật pháp trong nước còn cần có đầy đủ các văn
bản pháp luật quy định và điều chỉnh các quan hệ có nhân tố nước ngoài: (ví dụ: luật
đầu tư, luật về khoa học, và công nghệ... ).
Cũng cần nhấn mạnh rằng, muốn có môi trường từng lớp ổn định để mở mang
các mối bang giao và hiệp tác thì chẳng thể chỉ để ý ''một mảng'' của hệ thống luật pháp
của một quốc gia, mà phải để ý tới sự đồng bộ của cả hệ thống luật pháp của quốc gia
đó. Bởi, hệ thống pháp luật của mỗi nhà nước là một chỉnh thể, mỗi bộ phận (mỗi mảng)
trong hệ thống pháp luật đó không thể tồn tại và phát triển riêng biệt, cục bộ được mà
luôn có quan hệ và tác động qua lại với các bộ phận khác.
Như vậy muốn thực hành tốt sự quản lý quốc gia, đẩy nhanh sự phát triển của xã
hội, mở rộng quan hệ và cộng tác với các nước thì phải chú trọng phát huy vai trò của
luật pháp, phải mau chóng xây dựng một hệ thống pháp luật toàn diện, đầy đủ và đồng
bộ, thích hợp với những điều kiện và cảnh ngộ trong nước, đồng thời hợp với thiên
hướng phát triển chung với tình hình quốc tế và khu vực.
5. Pháp luật là cơ sở bảo đảm cho sự tồn tại và vận hành bình thường của xã hội:
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là công cụ
không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói chung và
của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý nhà nước hữu
hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, làm lành
mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới.
6. Pháp luật là cơ sở xây dựng một xã hội trật tự, kỷ cương, văn minh và có đạo đức
cao:
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật
được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ nhằm mục đích xây dựng
một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo vệ và phát triển các
giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức. Pháp luật càng chặt chẽ, càng đầy đủ và
được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức càng được đề cao, đồng thời khả năng điều
chỉnh và giáo dục của đạo đức càng được mở rộng và ảnh hưởng một cách toàn diện,
tích cực đến mọi hành vi, mọi mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con
người với xã hội. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thể hiện đúng đắn ý chí và nguyện
vọng của số đông, phù hợp với xu thế vận động của lịch sử sẽ góp phần thúc đẩy sự
phát triển và tiến bộ xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu
hóa hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với pháp luật là phải tác động tích cực đến nền đạo
đức của xã hội. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi cá nhân trong
hoạt động của mình phải tính toán chặt chẽ những điều kiện khách quan và hiệu quả
kinh tế. Khi đời sống kinh tế - xã hội đã và đang có những chuyển biến lớn, thì quan hệ
giữa con người với con người không thể chỉ là mối quan hệ trực tiếp, cảm tính, chủ yếu
vẫn bị chi phối bởi những nguyên tắc và chuẩn mực của sự phát triển ưu trội về đạo
đức như trước đây, mà nó cần được bổ sung những chuẩn mực, những giá trị mới, như
tính kinh tế, tính hiệu quả…
6
7. Pháp luật là công cụ quản lí xã hội chủ nghĩa:
Trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại, cùng với Nhà nước, pháp luật ra đời
nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Bên cạnh đạo đức và dư luận xã hội, pháp
luật là công cụ quản lí xã hội chủ yếu của Nhà nước...
Việc tăng cường vai trò của pháp luật, tạo môi trường thuận lợi cho sự hình thành
và phát triển ý thức đạo đức đã trở thành một trong những yêu cầu cấp thiết. Quá trình
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
cũng như xã hội dân sự đòi hỏi phải tích cực hơn nữa trong việc đưa pháp luật vào đời
sống, hình thành và phát triển ý thức pháp luật. Đồng thời, việc xã hội hóa tri thức, nâng
cao dân trí, tạo cơ sở nâng cao đạo đức lên trình độ duy lý pháp lý và khoa học, chuyển
thói quen điều chỉnh xã hội theo “lệ”, chủ yếu là sự cảm thông sang điều chỉnh xã hội
bằng pháp luật trên nguyên tắc công bằng và bình đẳng xã hội là điều hết sức cần thiết.
Trong quan niệm về chuẩn giá trị và đánh giá đạo đức, tính khách quan, khoa học phải
thay cho sự tùy tiện vốn dựa trên cơ sở kinh nghiệm, duy cảm, duy tình. Sự điều chỉnh
xã hội bằng pháp luật (với nguyên tắc tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật)
làm cho mọi thành viên trong xã hội có thể tự do phát huy khả năng sáng tạo của mình
trong môi trường lành mạnh - môi trường vận hành có trật tự, nền nếp, kỷ cương của
một xã hội năng động, phát triển và văn minh. Đó cũng chính là nhu cầu tình cảm, là
trách nhiệm và yêu cầu đạo đức đối với mỗi công dân trong giai đoạn mới.
8. Pháp luật là nền tảng hướng đến tính công bằng, nhân đạo và lợi ích của người
lao động:
Thực tế những năm vừa qua cho thấy hệ thống pháp luật và việc thi hành pháp
luật trong đời sống đã có những tác động rõ rệt đến đời sống xã hội. Những quy định
trong Hiến pháp, trong các luật và văn bản dưới luật luôn đề cao tính nhân đạo và nhân
văn bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của Nhà nước mà nhân dân là chủ và do nhân
dân làm chủ. Nói đúng hơn, đó là hệ thống pháp luật phục vụ cho việc thực thi các lợi
ích cơ bản của con người, đặc biệt là lợi ích của người lao động. Vì vậy, các nguyên tắc
định hướng cho việc xây dựng nội dung của hệ thống pháp luật, như công bằng, nhân
đạo, vì sự phát triển tiến bộ của con người và xã hội... cũng chính là những nguyên tắc
đạo đức cơ bản mà nhân loại tiến bộ đã, đang và sẽ hướng tới. Có thể nói, pháp luật
góp phần rất lớn trong việc hình thành ý thức tôn trọng và chấp hành những quy phạm
chung, giúp con người có những hành vi ứng xử văn minh, phù hợp với chiều hướng
phát triển tiến bộ của thời đại.
III. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG PHÁT QUỐC TẾ.
Khái niệm:Luật quốc tế hiện đại hay còn gọi là công pháp quốc tế là tổng thể những
nguyên tắc, những quy phạm pháp luật quốc tế do các chủ thể tham gia vào quan hệ
pháp lí quốc tế xây dựng trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, thông qua đấu tranh và
thương lượng nhằm điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt (chủ yếu là quan hệ chính trị)
giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau (trước tiên và chủ yếu giữa các quốc gia) trong
những trường hợp cần thiết luật quốc tế được bảo đảm thi hành bằng những biện pháp

7
cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể do chính các chủ thể luật quốc tế thi hành hoặc bằng
sức đấu tranh của nhân dân cùng dư luận tiến bộ Thế giới.
Đặc điểm:Từ khái niệm nêu trên, luật quốc tế có những đặc điểm cơ bản như sau: Đối
tượng điều chỉnh : nếu như luật trong nước điều chỉnh về quan hệ xã hội phát sinh trong
phạm vi lãnh thổ quốc gia và quan hệ có yếu tố nước ngoài thì luật quốc tế chỉ điều
chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống quốc tế như quan hệ chính trị,
kinh tế, văn hóa, khoa học-kỷ thuật, môi trường…giữa các chủ thể của luật quốc tế với
nhau mà chủ yếu là những quan hệ chính trị. Tuy nhiên không phải tất cả quan hệ quốc
tế đều là đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế
Ví dụ: quan hệ quốc tế theo con đường các tổ chức chính trị –xã hội…không do
luật quốc tế chính trị điêù chỉnh.
Trình tự xây dựng các qui phạm pháp luật quốc tế: trong hệ thống quốc tế dựa trên
nguyên tắc cơ bản bình đẳng về chủ quyền các quốc gia nên không có cơ quan làm
luật. Con đường duy nhất để hình thành các quy phạm pháp luật quốc tế đó là sự thỏa
thuận giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau dưới hình thức ký kết các điều ước quốc
tế (quy phạm thành văn); cùng nhau thừa nhận những tập quán quốc tế trong quan hệ
giữa họ (quy phạm bất thành văn). Đây là đặc trưng quan trọng nhất.
Chủ thể của luật quốc tế: Các quốc gia có chủ quyền: Chủ quyền quốc gia trong lĩnh
vực đối nội là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình, quyền làm
luật, quyền giám sát việc thi hành pháp luật, quyền xét xử những hành vi vi phạm pháp
luật của quốc gia.
Trong lĩnh vực đối ngoại đó là quyền độc lập trong hệ thống quốc tế, tự do quan hệ
không lệ thuộc vào bất cứ thế lực nào, hai mối quan hệ này có quan hệ mật thiết với
nhau, chỉ vì khi quốc gia có quyền tối cao trong quan hệ đối ngoại thì mới có quyết định
trong quan hệ đối ngoại. Quốc gia là chủ thể đặc biệt khi tham gia vào họat động tư
pháp quốc tế, được miễn trừ về tư pháp quốc tế: quyền miễn trừ về xét xử, quyền miễn
trừ về tài sản, quyền miễn trừ về thi hành án.
Các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập được xem là quốc gia đang hình thành, đứng
lên đấu tranh giành độc lập, thành lập quốc gia có chủ quyền, có quyền tham gia đại
diện ký kết các điều ước quốc tế với các quốc gia khác, tự do không bị lệ thuộc vào bất
cứ quốc gia nào. Các tổ chức quốc liên chính phủ ( liên quốc gia) là tổ chức thành lập
trên sự liên kết giữa các quốc gia, và họat động dưới sự thỏa thuận giữa các quốc gia
(VD: LHQ, Asian, EU…).
Tổ chức phi chính phủ được thành lập dưới sự thỏa thuận giữa các thể nhân với pháp
nhân thì không được coi là chủ thể của luật quốc tế, không được thừa nhận của luật
quốc tế (VD: Hội luật gia thế giới, Hội Liên hiệp phụ nữ thế giới…).
Tư cách chủ thể của tòa thánh Vatican tòa thánh Vatican không phải là một quốc gia, tư
cách chủ thể của Vatican được đặt ra.

8
Biện pháp bảo đảm thi hành luật quốc tế khi xây dựng các điều ước quốc tế các bên
thường thỏa thuận các biện pháp cưỡng chế để áp dụng cho các quốc gia vi phạm. Đó
là những quan hệ mà tự các chủ thể thỏa thuận xây dựng các biện pháp nhất định vì lợi
ích của chính họ. Các chủ thể bị hại được quyền sử dụng một số biện pháp nhất định
cho quốc gia gây hại. Biện pháp cưỡng chế được thể hiện dưới hai hình thức:
+ Cưỡng chế cá thể : trên bình diện quốc tế không có cơ quan cưỡng chế tập trung
thường trực, những biện pháp do chính chủ thể của luật quốc tế thực hiện dưới hình
thức cá thể, riêng lẻ tức là chủ thể bị hại được quyền sử dụng những biện pháp cưỡng
chế trả đũa hay biện pháp tự vệ đối với chủ thể gây hại cho mình (rút đại sứ về nước,
cắt đứt quan hệ ngoại giao, bao vây kinh tế, giáng trả…).
+Biện pháp cưỡng chế tập thể tức là: quốc gia bị hại có quyền liên minh các quốc gia
trên cơ sở các cam kết phù hợp để chống lại quốc gia gây hại cho mình.LHQ giao cho
HĐBA LHQ có nhiệm vụ giữ gìn hòa bình và an ninh của các quốc gia trong khuôn khổ
tuân thủ hiến chương LHQ, có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế và trừng
phạt kể cả dùng vũ lực chống lại các quốc gia vi phạm.
Ngoài ra vấn đề dư luận tiến bộ trên thế giới và sự đấu tranh của nhân dân các nước
cũng là biện pháp để cho pháp luật quốc tế phải tuân theo.

9
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguồn báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam. Ngày 15/09/2018.

2. Báo điện tử luatviet.com. Bài viết của TS, luật sư Phạm Ngọc Minh.

3. Báo phapluatvn.

4. Luật Minh Khuê. Biện soạn Cty Luật Minh Khuê.

5. Báo điện tử daknong.

6. Pháp luật đại cương. NXB Đại học sư phạm.

10
DANH SÁCH NHÓM

Môn: Pháp luật đại cương


GV hướng dẫn: TS. Ngô Hữu Nhị

STT Tên MSSV

1 Đào Thị Thu Đào 201A160128

2 Hà Minh Luân 201A160098

3 Huỳnh Mỹ Tâm 201A050104

4 Lộc Chạc Quyền 201A170164

5 Trần Thị Thanh Ngân 201A170092

6 Đỗ Ngọc Thanh Thúy 201A160095

7 Mai Minh Châu 201A170109

8 Nguyễn Lê Huyền My 201A170033

9 Nguyễn Thị Trang 201A050105

10 Phạm Tuyết My 201A160057

11

You might also like