You are on page 1of 16

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Học phần luật thương mại


Đề tài:

GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Linh


Sinh viên: Nguyễn tuấn tùng
mã sv: 183200457739.
Lớp: LTM 14H-1

HÀ NỘI – 2021

Đề: vận dụng thực tế tại doanh nghiệp cụ thể giả sử tình huống để phân biệt loại
hình doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần. đưa ra những vướng mắt khó

0
khắn nguyên nhân khắc phục từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện cho doanh
nghiệp.
Mở đầu:
Quyền tự do kinh doanh là mối quan tâm của Đảng và Nhà nước ta kể từ đầu
thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Để thực hiện được chủ trương này, Quốc hội khoá
VIII đã thông qua hai đạo luật quan trọng là Luật Doanh nghiệp tư nhân năm
1990 và Luật Công ty năm 1990. Hai đạo luật này đã tạo cơ sở pháp lý quan
trọng cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta; là cột mốc quan
trọng, có ý nghĩa quyết định trong quá trình đổi mới kinh tế, chuyển sang nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty năm 1990 quy
định ba loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong đó có doanh
nghiệp tư nhân. Sau khi hai đạo luật này được hợp nhất và đổi tên thành Luật
Doanh nghiệp năm 1999, đạo luật này đã được thay thế bằng Luật Doanh nghiệp
năm 2005, 2014 và hiện hành là Luật Doanh nghiệp năm 2020.
Luật doanh nghiệp năm 2020 ra đời trên cơ sở kế thừa và phát huy những kết
quả đã đạt được của Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp 2005, 2014
luật doanh nghiệp 2020 đồng thời khắc phục những hạn chế, bất cập và thể chế
hóa các vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn. Mục tiêu cao nhất của Luật doanh
nghiệp 2020 là tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng hơn, hỗ trợ các doanh
nghiệp phát triển, nhất là những doanh nghiệp vừa và nhỏ - nhân tố đóng vai trò
lớn trong sự phát triển của nền kinh tế. Doanh nghiệp tư nhân đã trở thành đề tài
nghiên cứu của nhiều tác giả, được khai thác dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy
nhiên, với Luật Doanh nghiệp năm 2020, chưa có nhiều công trình nghiên cứu,
đánh giá các quy định pháp luật về loại hình doanh nghiệp.

Chương 1: tổng quang về doanh nghiệp.


1.1. Doanh nghiệp tư nhân.

1
1.1.1 Khái niệm danh nghiệp tư nhân.
Căn cứ vào điều 183 luật doanh nghiệp 2020, doanh nghiệp tư nhân được
hiểu như sau:
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Chủ
doanh nghiệp tư nhân không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành
viên công ty hợp danh.
Doanh nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn thành lập hoặc mua cổ
phần, phần vốn góp trong công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn
hoặc công ty cổ phần.
1.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân
Khi thành lập doanh nghiệp tư nhân, nhà đầu tư phải nắm được những đặc
điểm của loại hình doanh nghiệp này để có sự lựa chọn đúng đắn.
Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân bỏ vốn ra thành lập và làm chủ
Doanh nghiệp tư nhân không xuất hiện sự góp vốn giống như ở các công ty
nhiều chủ sở hữu, nguồn vốn của DN cũng chủ yếu xuất phát từ tài sản của
một cá nhân duy nhất.
Về quan hệ sở hữu vốn trong Doanh nghiệp
Nguồn vốn ban đầu của Doanh nghiệp tư nhân xuất phát chủ yếu từ tài sản
của chủ Doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động, chủ Doanh nghiệp có
quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư, chỉ phải khai báo với Cơ quan đăng ký
kinh doanh trong trường hợp giảm vốn xuống dưới mức đã đăng kí. Vì vậy,
không có giới hạn nào giữa phần vốn và tài sản đưa vào kinh doanh của
Doanh nghiệp Tư nhân và phần còn lại thuộc sở hữu của chủ Doanh nghiệp.
Điều đó có nghĩa là không thể tách bạch tài sản của chủ Doanh nghiệp Tư
nhân và tài sản của chính Doanh nghiệp Tư nhân đó.

2
Quan hệ sở hữu quyết định quan hệ quản lí
Doanh nghiệp tư nhân chỉ có một chủ đầu tư duy nhất, vì vậy cá nhân có
quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của Doanh
nghiệp tư nhân. Chủ Doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật
của Doanh nghiệp tư nhân.
Về phân phối lợi nhuận
Vấn đề phân chia lợi nhuận không đặt ra đối với Doanh nghiệp tư nhân bởi
Doanh nghiệp tư nhân chỉ có một chủ sở hữu và toàn bộ lợi nhuận thu được
từ hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp sẽ thuộc về một mình chủ Doanh
nghiệp. Tuy nhiên điều đó cũng có nghĩa là cá nhân duy nhất đó sẽ có nghĩa
vụ chịu mọi rủi ro trong kinh doanh.
Doanh nghiệp Tư nhân không có tư cách pháp nhân
Một pháp nhân phải có tài sản riêng, tức phải có sự tách bạch giữa tài sản
của pháp nhân đó với những người tạo ra pháp nhân. Doanh nghiệp Tư nhân
không có sự độc lập về tài sản vì tài sản của Doanh nghiệp Tư nhân không
độc lập trong quan hệ với tài sản của chủ Doanh nghiệp Tư nhân.
Chủ Doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn trước mọi khoản nợ phát
sinh trong quá trình hoạt động
Do tính chất độc lập về tài sản không có nên chủ Doanh nghiệp Tư nhân
– người chịu trách nhiệm duy nhất trước mọi rủi ro của Doanh nghiệp sẽ
phải chịu chế độ trách nhiệm vô hạn. Chủ Doanh nghiệp Tư nhân không chỉ
chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp trong phạm vi
phần vốn đầu tư đã đăng kí mà phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản
trong trường hợp phần vốn đầu tư đã đăng kí không đủ
1.2. công ty cổ phần.
1.2.1. khai niệm công ty cổ phần.
Theo khoản 1 Điều 111 Luật Doanh nghiệp 2020, công ty cổ phần là loại
hình doanh nghiệp, trong đó:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;

3
- Cổ đông là cá nhân hoặc tổ chức sẽ sở hữu cổ phần. Tối thiểu phải có 03 cổ
đông và không hạn chế số lượng tối đa. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã
góp vào doanh nghiệp;
- Lợi nhuận mà cổ đông nhận được từ việc sở hữu cổ phần là cổ tức;
- Công ty cổ phần có thể huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu;
- Công ty cổ phần có đầy đủ các yếu tố để được coi là có tư cách pháp nhân
theo Điều 74 Bộ Luật Dân sự 2015. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp, công ty chính thức có tư cách pháp nhân.
1.2.2. Đặc điểm của công ty cổ phần.
Về cổ đông của công ty
Cổ đông là người sở hữu ít nhất một cổ phần của công ty cổ phần, chỉ chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính khác trong phạm vi số
vốn đã góp. Công ty phải có tối thiểu 03 cổ đông sáng lập và không hạn chế
số lượng cổ đông tối đa.
Công ty cổ phần có 03 loại cổ đông, bao gồm:
- Cổ đông sáng lập: Cổ đông sáng lập phải sở hữu ít nhất một cổ phần phổ
thông và ký tên trong danh sách cổ đông sáng lập công ty cổ phần.
Có thể thấy, cổ đông sáng lập cũng chính là cổ đông phổ thông.
- Cổ đông phổ thông: Cổ đông phổ thông là người sở hữu cổ phần phổ
thông.
- Cổ đông ưu đãi: Người sở hữu cổ phần ưu đãi là cổ đông ưu đãi.
Về vốn điều lệ và khả năng huy động vốn của công ty
Vốn điều lệ được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần, việc mua cổ
phần là chính là cách để góp vốn vào công ty cổ phần;
Công ty cổ phần có khả năng huy động vốn linh hoạt. Giống như các loại
hình công ty khác, công ty cổ phần có thể huy động vốn từ các khoản vay tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước. Ngoài ra công ty cp có thể huy động vốn
bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu, cụ thể:

4
+ Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cp phát hành, bút toán ghi sổ hoặc dữ
liệu điện tử xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó.
Việc phát hành cổ phiếu là một điểm mạnh mà công ty trách nhiệm hữu hạn
không có được.
+ Công ty cổ phần có quyền phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi và
các loại trái phiếu khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty.
Chương 2 phân biệt hai loại hình doanh nhiệp.
2.1. điểm giống và khác nhau của doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ
phần.
Tiêu chí Công ty cổ phần Doanh nghiệp tư
nhân
Về tư cách pháp nhân Công ty cổ phần có Trong khi đó doanh
tư cách pháp nhân nghiệp tư nhân
kể từ ngày được cấp không có tư cách
Giấy chứng nhận pháp nhân.
đăng ký doanh
nghiệp
Về trách nhiệm Cổ đông góp vốn Chủ sở hữu doanh
chịu trách nhiệm nghiệp tư nhân chịu
hữu hạn trong phạm trách nhiệm vô hạn
vi vốn góp của bằng toàn bộ tài sản
mình. của mình vềmọi hoạt
động của doanh
nghiệp
Về cơ cấu tổ chức Doanh nghiệp tư Sự đa dạng về thành
nhân chỉ có 1 chủ sở viên của công ty cổ
hữu là cá nhân phần (cổ đông công
ty cổ phần có thể là
tổ chức, cá nhân; số
lượng cổ đông tối

5
thiểu là 03 và không
hạn chế số lượng tối
đa).
Về quyền tự quyết Công ty cổ phần cần Tự quyết như chủ sở
có sự thông qua của hữu của doanh
cổ đông công ty (đại nghiệp tư nhân.
hội đồng cổ đông là
cơ quan quyết định
cao nhất, hội đồng
quản trị là cơ quan
quản lý của công ty
cổ phần)
Về vốn doanh nghiệp tư Công ty cổ phần dễ
nhân có giới hạn tồn dàng huy động được
tại hạn chế bởi tập nguồn vốn lớn thông
trung vào năng lực qua việc phát hành
tài chính của một cá cổ phiếu và trái
nhân. phiếu (được phép
phát hành cổ phiếu
để huy động vốn)
Về chuyển nhượng Chủ sở hữu doanh Công ty cổ phần chỉ
nghiệp tư nhân có được phép bán số cổ
quyền bán doanh phần của riêng mình
nghiệp của mình mà thôi.
cho người khác

2.2. ưu nhược điểm ,của 2 loại hình kinh doanh. doanh nghiệp tư nhân
và công ty cổ phần .
2.2.1. Ưu điểm của doanh nghiệp tư nhân.

6
 Doanh nghiệp tư nhân là một trong những loại hình đơn giản nhất trong
tất cả các loại hình doanh nghiệp và có một chủ sở hữu duy nhất; thuận
lợi trong việc quản lí; điều hành và quyết định các vấn đề của doanh
nghiệp. Với trách nhiệm hữu hạn và cổ phần, nếu muốn mang tài sản ra
ngoài công ty thì bạn phải có giấy tờ; thủ tục. Và phải làm theo các quy
định được đặt ra. Nhưng với doanh nghiệp tư nhân, vì số vốn đầu tư
thuộc về chủ doanh nghiệp; tài sản của một doanh nghiệp tư nhân và của
chủ doanh nghiệp tư nhân không có sự tách biệt.
 Do đó, chủ doanh nghiệp có thể rút vốn đầu tư. Có thể lấy và di chuyển
tài sản từ doanh nghiệp ra ngoài mà không chịu sự ràng buộc nào cả. Từ
đó tạo sự linh hoạt trong quyền sở hữu vốn.
 Doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn chủ động trong việc quyết định các vấn
đề liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
 Hơn thế nữa, doanh nghiệp tư nhân ít bị chịu sự ràng buộc chặt chẽ bởi
pháp luật. Chẳng hạn như không bắt buộc phải tổ chức họp như công ty
cổ phần hoặc công ty TNHH.
 Lợi thế nữa của doanh nghiệp tư nhân đó là kiểm soát được rủi ro vì chỉ
có duy nhất một người làm đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
 Linh hoạt hơn nữa, chủ doanh nghiệp tư nhân có thể cho thuê lại doanh
nghiệp.
 Về vấn đề thuế. Chủ doanh nghiệp đóng thuế thu nhập cá nhân ngay trên
thuế thu nhập doanh nghiệp.
2.2.2.Nhược điểm của doanh nghiệp tư nhân
 Mặc dù có những ưu điểm như vậy, song doanh nghiệp tư nhân cũng có
một số hạn chế cơ bản.
 Đầu tiên, chỉ có một cá nhân, không có sự liên kết góp vốn; đáp ứng ngay
nhu cầu cần có vốn lớn để kinh doanh. Chính vì chỉ có một người duy
nhất nên dễ xảy ra quyết định độc đoán; thiếu tính khách quan.

7
 Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân không được thực hiện
một số giao kết mà pháp luật quy định: Ví dụ vay vốn ngân hàng.
 Dù được phép cho thuê lại doanh nghiệp hoặc thuê giám đốc điều hành
nhưng chủ doanh nghiệp vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
 Trách nhiệm vô hạn của doanh nghiệp tư nhân sẽ khiến cho chủ doanh
nghiệp không có sự tách bạch về tài sản. Rủi ro lớn nhất của loại hình
doanh nghiệp này đó là doanh nghiệp này sẽ phải chịu trách nhiệm về các
khoản nợ không những bằng tài sản công ty mà lẫn cả tài sản của chủ
doanh nghiệp, ngay cả khi phá sản.
 Pháp luật đã quy định chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ được thành lập duy
nhất một doanh nghiệp tư nhân và cho đến khi doanh nghiệp ấy còn tồn
tại thì chủ doanh nghiệp không được thành lập thêm một doanh nghiệp tư
nhân khác. Nếu doanh nghiệp tư nhân thứ nhất của người chủ doanh
nghiệp bị phá sản thì đồng nghĩa với việc doanh nghiệp tư nhân kia cũng
phá sản theo. Vì thế mà mỗi chủ doanh nghiệp chỉ có thể lập một doanh
nghiệp tư nhân cho mình.
2.2.3. Ưu điểm của công ty cổ phần.
 Khả năng huy động vốn công ty rất cao và linh hoạt do công ty cổ phần là
loại hình doanh nghiệp duy nhất trong 5 loại hình doanh nghiệp kể trên
không giới hạn số lượng cổ đông góp vốn và được quyền phát hành cổ
phiếu ra công chúng;
 Thủ tục chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần cũng tương đối dễ
dàng, vì thế thu hút được nhiều đối tượng cùng tham gia góp vốn vào
doanh nghiệp;
 Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn góp vào công ty nên
mức độ rủi ro của các cổ đông không cao;

8
 Với ưu thế khả năng huy động vốn nhanh và linh hoạt cho phép công ty
cổ phần có thể hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề.
2.2.4. Nhược điểm công ty cổ phần.
- Ít niềm tin với đối tác khi cổ đông chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong
phần vốn góp;
- Việc quản lý và điều hành công ty cổ phần rất phức tạp do số lượng cổ
đông rất lớn, nhiều cổ đông có thể không quen biết nhau và có thể có sự
phân hóa thành các nhóm cổ đông trong công ty đối kháng nhau về lợi
ích;
- Cơ cấu tổ chức phức tạp hơn loại hình công ty TNHH, công ty hợp danh
hay doanh nghiệp tư nhân. Quyền quản lý trong công ty cổ phần được
phân cấp rõ rệt. Cụ thể:
- Đại hội đồng cổ đông là bộ phận nắm quyền quyết định cao nhất của công
ty cổ phần. Tuy nhiên, bộ phận này ít hoạt động và thường chỉ họp Đại
hội đồng cổ đông mỗi năm 1 lần;
- Hội đồng quản trị có toàn quyền quản lý và ra quyết định chiến lược cho
công ty, chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng cổ đông;
- Giám đốc/Tổng giám đốc chịu trách nhiệm điều hành công việc kinh
doanh hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị.
- Quyền và lợi ích hợp pháp của các cổ đông hoặc nhóm cổ đông thiểu số
không được đảm bảo. Thực tế, tại các công ty cổ phần của Việt Nam,
quyền lực của công ty tập trung chủ yếu vào các cổ đông lớn và những
người điều hành quản lý công ty, cho nên đối với những công ty cổ phần
có Ban kiểm soát được lập ra mang tính chất hình thức hoặc không có Ủy
ban kiểm toán nội bộ thì quyền lợi của các cổ đông nhỏ lẻ có thể bị xâm
phạm hoặc ảnh hưởng;
- Đối với công ty cổ phần sẽ khó khăn hơn khi đưa ra một quyết định nào
đó dù là về quản lý doanh nghiệp hay kinh doanh do phải thông qua Hội

9
Đồng quản trị, Đại hội đồng cổ đông… Vậy nên rất dễ bỏ qua những cơ
hội kinh doanh cho doanh nghiệp.
- Công ty cổ phần sở hữu những lợi thế mà không loại hình doanh nghiệp
nào dưới đây có được, nhưng cũng đồng nghĩa với việc loại hình doanh
nghiệp này yêu cầu cao về cách thức tổ chức và quản lý doanh nghiệp. Đa
phần các công ty lớn có ít nhất 3 cá nhân hoặc tổ chức góp vốn trở lên
muốn kinh doanh những ngành nghề đòi hỏi vốn lớn sẽ ưu tiên lựa chọn
loại hình công ty cổ phần để dễ dàng huy động vốn từ nhiều nguồn và
nhiều đối tượng khác nhau. Loại hình công ty này phù hợp cho tất cả các
ngành nghề kinh doanh pháp luật Việt Nam cho phép.
chương 3: Giải Pháp.
3.1. Giải pháp để pháp triển doanh nghiệp.
- Để đạt mục tiêu phát triển số lượng và chất lượng doanh nghiệp, trên cơ
sở quan điểm của Đảng về phát triển doanh nghiệp tại Đại hội XIII, có thể
rút ra những giải pháp và định hướng cho sự phát triển doanh nghiệp Việt
Nam cho giai đoạn tới như sau:

- Thứ nhất, phát triển doanh nghiệp bền vững gắn với cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư.
Phát triển bền vững trở thành xu thế bao trùm trên thế giới. Các mô hình
tăng trưởng xanh, thân thiện với môi trường đang ngày càng được nhiều
quốc gia lựa chọn. Phát triển nhanh và bền vững là quan điểm phát triển
tổng quát đã được Đảng ta xác định. Để đất nước phát triển nhanh và bền
vững thì mỗi doanh nghiệp phải phát triển bền vững, nghĩa là doanh
nghiệp cũng cần hài hòa 3 mục tiêu của tam giác phát triển là kinh tế, xã
hội và môi trường. Doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh theo quy
hoạch, định hướng của Nhà nước, tuân thủ pháp luật của Nhà nước về bảo
vệ môi trường, đóng góp nguồn lực cho công tác bảo vệ môi trường, đồng
thời tích cực thể hiện trách nhiệm xã hội. Trách nhiệm xã hội của doanh

10
nghiệp trước hết là bảo đảm phúc lợi ngày một tốt hơn cho những người
lao động của mình, đồng thời tham gia tích cực vào công tác xã hội ở địa
phương, nơi doanh nghiệp hoạt động cũng như toàn xã hội nói chung.
Yếu tố quan trọng nhất để doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả, bền vững là
con người, công nghệ và phương thức, mô hình kinh doanh. Trong điều
kiện hiện nay, khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển
mạnh mẽ thì doanh nghiệp cần tiếp cận và ứng dụng những thành tựu của
nó vào thực tiễn, đổi mới công nghệ, áp dụng các mô hình kinh doanh
mới, thân thiện với môi trường để phát triển bền vững. Phát triển doanh
nghiệp Việt Nam để không chỉ sẵn sàng tham gia vào chuyển giao công
nghệ mà còn có khả năng đổi mới, sáng tạo ra những tiến bộ công nghệ
mới. Qua đó, khẳng định vai trò, vị trí của doanh nghiệp trong chuỗi giá
trị toàn cầu và có khả năng cung cấp những sản phẩm, dịch vụ chất lượng,
giá trị gia tăng cao. Muốn vậy, các doanh nghiệp cần tăng cường gắn kết
chặt chẽ với các trường đại học, các viện nghiên cứu để đưa ý tưởng, sản
phẩm nghiên cứu thành thực tiễn, đồng thời tham gia hiệu quả vào đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ trực tiếp cho nâng cao năng lực
cạnh tranh và năng lực đổi mới sáng tạo của bản thân mỗi doanh nghiệp.
Định hướng nêu trên được xác định rõ trong văn kiện Đại hội XIII: “phát
triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh
mẽ các thành tựu của khoa học và công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư; phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản
phẩm công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường,
tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu”(11);
“phát triển mạnh khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, lấy doanh
nghiệp làm trung tâm; thúc đẩy phát triển mô hình kinh doanh mới, kinh
tế số, xã hội số. Có cơ chế, chính sách kinh tế, tài chính khuyến khích các
doanh nghiệp tham gia nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ”

11
- Thứ hai, phát triển doanh nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ
cấu lại nền kinh tế.
Việc thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế thời
gian qua tuy đạt được một số kết quả quan trọng nhưng về cơ bản vẫn
chưa tạo được bước chuyển sang mô hình phát triển kinh tế theo chiều
sâu, hiệu quả và bền vững. Trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu
vực và của đất nước và nhất là trước tác động của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, Đại hội XIII của Đảng yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh đổi
mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình
tăng trưởng theo chiều sâu, dựa trên năng suất, tiến bộ khoa học và công
nghệ, đổi mới sáng tạo; sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực để
nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Để xây dựng nền công nghiệp quốc gia hiện đại, bao gồm công nghiệp
nền tảng và công nghiệp mũi nhọn gắn với cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư và yêu cầu bảo đảm độc lập, tự chủ, văn kiện Đại hội XIII định
hướng: “Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam tham gia phát triển
những ngành công nghiệp mới, hiện đại”(13). Trong cơ cấu lại nông
nghiệp, tổ chức kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, thị trường,
xuất khẩu và chuỗi giá trị toàn cầu. Nâng cao trình độ nghiên cứu, ứng
dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học, công nghệ để phát triển nông nghiệp
công nghệ cao nhằm tạo đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả của
nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới thông qua “phát triển mạnh mẽ
doanh nghiệp nông nghiệp”
- Thứ ba, cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp.
Một cách tổng quan, Đại hội XIII đã nhìn nhận các doanh nghiệp Việt
Nam như một hệ thống hữu cơ của nền kinh tế quốc dân với các mối liên
hệ liên kết, hợp tác, cạnh tranh theo cơ chế thị trường. Trong bối cảnh
hiện nay, mỗi loại hình doanh nghiệp đều phải cơ cấu lại để nâng cao hiệu
quả, năng lực cạnh tranh, qua đó có vị trí xứng đáng trong mạng sản xuất

12
và chuỗi giá trị toàn cầu. Sự phát triển của mỗi loại hình doanh nghiệp
không dàn đều mà có trọng tâm, trọng điểm với mục tiêu xây dựng một số
tập đoàn, doanh nghiệp mạnh về năng lực tài chính, quản trị, công nghệ,
có khả năng dẫn dắt, hỗ trợ các doanh nghiệp khác, đáp ứng yêu cầu xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Với tinh thần đó, cần tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại, cổ phần hóa, nâng cao
hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công
nghệ, quản trị doanh nghiệp nhà nước theo các chuẩn mực quốc tế; bảo
đảm doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng vật chất quan trọng của
kinh tế nhà nước. Đồng thời, “Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế
nhà nước có quy mô lớn, thực hiện quyền tự chủ, nâng cao hiệu quả hoạt
động, có năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế”
Đối với doanh nghiệp tư nhân, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để
doanh nghiệp tư nhân phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật
không cấm; phát triển nhanh, bền vững, đa dạng với tốc độ tăng trưởng
cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỷ trọng đóng góp trong GDP,
thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Phát
huy phong trào khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo; nâng cao hiệu quả hoạt
động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo môi trường và điều kiện
thuận lợi để các hộ kinh doanh cá thể tự nguyện liên kết hình thành các
hình thức tổ chức hợp tác hoặc hoạt động theo mô hình doanh nghiệp.
Đây là một hướng quan trọng để giải phóng sức sản xuất; huy động, phân
bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển. “Khuyến khích
hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh,
có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế.
Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chuyển trọng tâm
chính sách thu hút đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất lượng, lấy
chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí thu hút

13
chủ yếu. Ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công
nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác
động lan toả, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.

3.2. kết luận.


Nền kinh tế Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ đòi hỏi phải có
những quy định chặt chẽ và có sự quản lý của Nhà nước nhằm góp phần
thúc đẩy nền kinh tế phát triển đúng hướng, đồng thời không làm ảnh
hưởng đến quyền lợi của các nhà kinh doanh cũng như các chủ thể có liên
quan. Trước tình hình đất nước đang mở cửa hội nhập với các cường quốc
năm châu, nền kinh tế đang trên đà phát triển đòi hỏi phải có hệ thống
pháp luật về kinh tế quy định rõ ràng, cụ thể để điều chỉnh các mối quan
hệ trong hoạt động kinh doanh. Nhà nước đã ban hành rất nhiều văn bản
luật để điều chỉnh kịp thời các vấn đề phát sinh trong quá trình phát triển
của đất nước, giúp giải quyết nhanh chóng các yêu cầu cấp bách của các
nhà kinh doanh, đặc biệt là các loại hình doanh nghiệp Luật doanh nghiệp
được quy định lần đầu được ban hành ở Việt Nam vào năm 1990; sửa đổi,
bổ sung năm 1994; tiếp tục được thay thế bởi Luật Doanh nghiệp năm
1999, 2005, 2014 và mới nhất là Luật Doanh nghiệp năm 2020 và mới
nhất là luật doanh nghiệp 2020. Tất cả những sự thay đổi trên nhằm mục
tiêu duy nhất là hoàn thiện các quy định pháp luật về doanh nghiệp nói
chung, giảm sự cồng kềnh không cần thiết do các quy trình, thủ tục gây
ra; tạo sự nhanh chóng, dễ dàng cho doanh nghiệp trong quá trình thực
hiện Luật. Dù đã có nhiều điểm tiến bộ đáng kể trong công tác xây dựng,
thực hiện pháp luật bởi quá trình học tập kinh nghiệm của các nước, kế
thừa và phát triển những quy định của Luật cũ. Tuy nhiên, Luật Doanh
nghiệp năm 2020 vẫn tồn tại một số vướng mắc trong điều chỉnh, các loại
hình doanh nghiệp. Trên cơ sở những thuận lợi, khó khăn còn tồn tại, để
pháp luật phát huy được tác dụng tích cực của nó trong đời sống, cơ quan

14
nhà nước có thẩm quyền cần giải thích rõ những vấn đề pháp lý liên quan
đến doanh nghiệp . Đồng thời, cần chú trọng biện pháp tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật về doanh nghiệp để mọi người hiểu và tự nâng
cao ý thức, trách nhiệm của mình, góp phần thúc đẩy sự phát triển của
kinh tế đất nước, thực hiện mục tiêu đưa nền kinh tế nước ta trở thành nền
kinh tế phát triển và hội nhập sâu rộng với nền kinh tế của các nước trên
thế giớ.

15

You might also like