You are on page 1of 27

CÂU HỎI ÔN TẬP MÔN LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM

BÀI 3. QUYỀN CON NGƯỜI,


QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN
Câu 1. Anh (chị) hãy so sánh quyền con người với quyền công dân và cho ví dụ
minh họa.
Trả lời:
* So sánh quyền con người với quyền công dân
- Điểm giống nhau giữa quyền con người với quyền công dân:
Quyền con người và quyền công dân là những quyền cơ bản, quan trọng được quy
định trong Hiến pháp.
Quyền công dân và quyền con người là hai phạm trù rất gần gũi với nhau nhưng
không đồng nhất. Nhân quyền và dân quyền đều là những quyền lợi mà mọi công dân
đều được hưởng và được bảo vệ (trừ những người không có quốc tịch). Trong đó quyền
công dân có nghĩa hẹp hơn so với quyền con người, về bản chất quyền công dân là những
quyền con người được nhà nước thừa nhận và áp dụng cho công dân nước mình. Một số
quyền công dân cũng là quyền con người như: quyền được có nhà ở, quyền tự do kinh
doanh buôn bán, tự do ngôn luận, quyền được học tập, quyền được tham gia quản lí nhà
nước và xã hôi, quyền được bảo vệ về sức khỏe…
- Điểm khác nhau giữa quyền con người với quyền công dân:

Quyền con người Quyền công dân

Khái niệm Là những quyền bẩm sinh, vốn Là những lợi ích pháp lý được
có của con người, được cộng các nhà nước thừa nhâ ̣n và bảo
đồng quốc tế bảo vệ, nếu không vệ cho những người có quốc tịch
được hưởng thì không thể sống của nước mình.
như một con người.

Lịch sử Tư tưởng xuất hiện trong các Từ cách mạng tư sản (khoảng
nền văn minh cổ đại; luật nhân thế kỷ 16
quyền quốc tế chỉ có từ 1945.

Văn bản ghi nhận - Các văn bản pháp lý quốc tế. Hiến pháp, luật và các đạo luật
và bảo đảm - Hiến pháp, luật và các đạo quốc gia
luật cơ bản của quốc gia.

1
Nội hàm Những tự do và bảo đảm mà Những tự do và bảo đảm mà một
mọi thành viên trong gia đình quốc gia dành cho các công dân
nhân loại được hưởng và được của nước mình.
cộng đồng quốc tế bảo vệ.

Tính chất Tự nhiên, vốn có, không do chủ Do các nhà nước xác định bằng
thể nào ban phát. Thể hiện vị pháp luật. Thể hiện vị thế của
thế của mỗi cá nhân trong quan mỗi cá nhân trong quan hệ với
hệ với quốc gia mà cá nhân đó quốc gia mà cá nhân đó là công
là công dân và với cộng đồng dân.
nhân loại.

Đặc điểm Áp dụng toàn cầu; đồng nhất Áp dụng trong lãnh thổ quốc
trong mọi hoàn cảnh; không gia; không hoàn toàn giống nhau
thay đổi theo thời gian. giữa các quốc gia; có thể bị thay
đổi theo thời gian.

Chủ thể có quyền Mọi thành viên của nhân loại, Chỉ những người có quốc tịch
bất kể dân tộc, chủng tộc, thành của một quốc gia.
phần xuất thân, tôn giáo, tư
tưởng, giới tính, độ tuổi,…

Chủ thể có nghĩa Các nhà nước là chủ thể chính, Các nhà nước là chủ thể chính,
vụ bảo đảm ngoài ra các tổ chức quốc tế, ngoài ra các doanh nghiệp, cộng
doanh nghiệp, cộng đồng, cá đồng, cá nhân… cũng có trách
nhân.. đều có trách nhiệm. nhiệm.

Cơ chế bảo vệ Các diễn đàn, thủ tục điều tra, Toà án và một số cơ chế tài phán
giải quyết khiếu nại, tố cáo vi khác ở mỗi quốc gia. Trong một
phạm nhân quyền của Liên hợp số trường hợp, các cơ chế quốc
quốc và một số tổ chức liên tế được áp dụng như là giải pháp
chính phủ khu vực. tiếp nối.

Thời điểm phát Từ khi con người được sinh ra. Từ khi chủ thể đáp ứng được
sinh quyền đầy đủ các điều kiện mà mà
pháp luật của mỗi quốc gia quy
định.

Nhóm quyền chủ Kinh tế, xã hội, văn hóa. Dân sự, chính trị
yếu

* Ví dụ minh họa về quyền con người và quyền công dân:


Ở nhiều góc độ khác nhau - xem so sánh, có thể chứng minh quyền con người là
khái niê ̣m rô ̣ng hơn quyền công dân.
Ví dụ, về tính chất, quyền con người không bị bó hẹp trong mối quan hê ̣ giữa cá
nhân với nhà nước như quyền công dân, mà thể hiê ̣n mối quan hê ̣ giữa cá nhân với toàn
2
thể cô ̣ng đồng nhân loại. Về phạm vi áp dụng, do không bị giới hạn bởi chế định quốc
tịch, nên chủ thể của quyền con người là tất cả các thành viên của gia đình nhân loại, bất
kể vị thế, hoàn cảnh, quốc tịch,... Nói cách khác, quyền con người được áp dụng mô ̣t
cách bình đẳng với tất cả mọi người thuô ̣c mọi dân tô ̣c đang sinh sống trên phạm vi toàn
cầu, không phụ thuô ̣c vào biên giới quốc gia, tư cách cá nhân hay môi trường sống của
chủ thể quyền.
Các quyền con người, quyền công dân được pháp điển hóa vào Hiến pháp các nước
trên thế giới theo những cách thức nhất định. Tuy là hai phạm trù khác nhau nhưng quyền
con người và quyền công dân hầu như không mâu thuẫn mà ngược lại có sự thống nhất,
bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Nhìn chung các quyền con người, quyền công dân được pháp
điển hóa vào Hiến pháp các nước trên thế giới theo ba cách cơ bản sau:
Thứ nhất, đề cập trực tiếp thành các điều khoản trong một chương riêng (có tên
“quyền con người”, “quyền con người, quyền công dân” hoặc quyền công dân” hoặc rải
rác trong một số chương của Hiến pháp. Đây là cách hiến định nhân quyền phổ biến nhất
hiện nay được đa số các quốc gia trong đó có Việt Nam áp dụng.
Thứ hai, các quyền con người, quyền công dân được quy định trong một văn bản
riêng và được thừa nhận như là một cấu phần của Hiến pháp.
Câu 2. Anh (chị) hãy phân tích nội dung hai quy định sau:
“Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định” (Điều 51 Hiến pháp
năm 1992)
“Quyền con người , quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, sức
khỏe của cộng đồng” (Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013)
Trả lời:
* Phân tích “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định” (Điều
51 Hiến pháp năm 1992)
Quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định ở Điều 51 của Hiến pháp năm
1992, với nội dung như sau: 
- Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân.
Trên cơ sở quy định của Điều 51 Hiến pháp 1992, mọi công dân Việt Nam, không
phân biệt dân tộc, nam nữ, tôn giáo, địa vị xã hội, đều bình đẳng với nhau về quyền và
nghĩa vụ. Đó là bản chất riêng, không trộn lẫn của Nhà nước ta với chế độ nhà nước
khác.
Sự bình đẳng của công dân luôn luôn thể hiện ở hai mặt: Quyền và nghĩa vụ. Trong
chế độ xã hội ta, không thể chấp nhận tình trạng người được hưởng quyền mà không thực
hiện nghĩa vụ và ngược lại. Thực tế cho thấy các quyền công dân chỉ có thể được đảm
bảo trên cơ sở công dân thực hiện nghĩa vụ của mình. Việc công dân thực hiện nghĩa vụ
chính là điều kiện tiên quyết để tạo ra tiền đề vật chất bảo đảm cho việc thực hiện các
quyền công dân.
Hiến pháp năm  1992 quy định việc Nhà nước bảo đảm cho cho các quyền công dân
được thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh các nghĩa vụ của mình. Mối quan hệ qua lại cùng
có trách nhiệm giữa Nhà nước với công dân, giữa công dân với công dân chỉ tồn tại và

3
bảo đảm khi mỗi người, cùng với việc hưởng quyền thực hiện đầy đủ và trách nhiệm các
nghĩa vụ công dân của mình.
- Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của
mình đối với Nhà nước và xã hội.
Quyền của mỗi người, công dân là quyền bất khả xâm phạm, mọi người phải có
nghĩa vụ tôn trọng quyền đó, Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân, nếu ai vi phạm
sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Ngược lại, công dân có trách nhiệm thực hiện
nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Nghĩa là, công dân phải thực hiện nghĩa vụ đối với
Nhà nước và xã hội, nếu không thực hiện sẽ gánh lấy những chế tài tương ứng. Ví dụ
như: Công dân trong độ tuổi pháp luật quy định phải thực hiện nghĩa vụ quân sự. Việc
thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân
tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
- Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định.
Để đảm bảo cho các quyền và nghĩa vụ của công dân có thể thực hiện trong thực tế,
yếu tố đầu tiên và quyết định là khi quy định phải đảm bảo tính khả thi của chúng. Khi
các quy phạm pháp luật không mang tính hiện thực thì nó sẽ đánh mất đi tính nghiêm túc
vốn có của nó, tạo ra tâm lý nghi ngờ của công dân đối với pháp luật của Nhà nước, dẫn
đến thái độ coi thường pháp luật. Khi niềm tin đối với pháp luật không còn thì sự tôn
trọng dành cho Nhà nước và pháp luật cũng có cơ sở để tồn tại.
* Phân tích “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định
của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013)
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, một nguyên tắc chung về giới hạn
quyền với tính cách là tư tưởng chủ đạo, định hướng cho việc xác định giới hạn đối với
tất cả các quyền (cần thiết và có thể) đã được quy định tại  khoản 2 Điều 14 Hiến pháp
năm 2013: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của
luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khoẻ của cộng đồng”.
Hiến pháp năm 2013 quy định nguyên tắc về giới hạn quyền trước hết thể hiện quan
niệm của các nhà lập hiến Việt Nam về bản chất của quyền con người, quyền công dân.
Theo đó, quyền con người tuy mang tính tự nhiên, vốn có và không phải có ai ban phát
cho chủ thể các quyền đó nhưng cũng không phải mọi quyền đều có ý nghĩa tuyệt đối và
không phải trong mọi trường hợp đều có thể thực hiện (hưởng thụ) quyền một cách tuyệt
đối. Bởi lẽ, con người hoặc công dân sinh ra và sống, hưởng thụ các quyền trong một
cộng đồng xã hội. Các quyền tuy là của cá nhân mỗi con người hoặc công dân nhưng
không thể đối lập, loại trừ, hay xâm hại cho quyền của cá nhân khác hay những lợi ích
của cộng đồng. Nói cách khác, vì lợi ích chung, trong những trường hợp cần thiết, quyền
con người, quyền công dân có thể bị giới hạn. Với tính cách là luật cơ bản, Hiến pháp
phải vạch rõ, hiến định nguyên tắc của việc giới hạn này. Việc quy định một nguyên tắc
cho việc giới hạn quyền trong Hiến pháp mang hai ý nghĩa sau:
(1) xác lập tiêu chí để sự giới hạn quyền được chính đáng, tránh sự tuỳ tiện trong
hoạt động của bộ máy nhà nước làm triệt tiêu, vô hiệu hoá hay giảm ý nghĩa của quyền;
(2) bảo đảm tính hiện thực của quyền vì sự giới hạn đối với quyền con người, quyền
công dân là một giải pháp được lựa chọn cuối cùng khi không có giải pháp nào khác phù

4
hợp hơn. Trên tinh thần đó, suy cho cùng, nguyên tắc giới hạn quyền cũng nhằm mục
đích tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Có thể khẳng định nguyên tắc giới hạn quyền không tồn tại một cách biệt lập mà
trong mối liên hệ thống nhất với các nguyên tắc khác được quy định tại Điều 15: Quyền
công dân không tách rời nghĩa vụ công dân (khoản 1); Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng
quyền của người khác (khoản 2); Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với
Nhà nước và xã hội (khoản 3); Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không
được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác
(khoản 4). Ở chừng mực nhất định và từng khía cạnh cụ thể, các nguyên tắc trên cũng thể
hiện tư tưởng giới hạn quyền. Tuy nhiên, những nguyên tắc này hướng đến điều chỉnh
hành vi của các chủ thể có quyền, còn nguyên tắc giới hạn quyền lại hướng đến chủ thể
có nghĩa vụ, trách nhiệm công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền, chính là Nhà
nước.
Nguyên tắc giới hạn quyền được quy định như vậy, cho dù đã hoàn toàn phù hợp
với luật nhân quyền quốc tế hay chưa thì đây vẫn được coi là điểm sáng rực rỡ nhất, thể
hiện sự tiến bộ, phát triển vượt bậc trong chế định quyền cơ bản của Hiến pháp năm
2013.

Trong việc ghi nhận các quyền cụ thể, Hiến pháp năm 2013 cũng kế thừa, phát triển
cách thức ghi nhận quyền và kèm theo đó là giới hạn của quyền trong các bản Hiến pháp
trước như:
- Quyền sống: Mọi người có quyền sống. Tuy nhiên, trên tinh thần tôn trọng, bảo
vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, luật hình sự Việt Nam thời gian gần đây
đã thu hẹp số lượng các tội danh có khung hình phạt với mức cao nhất là tử hình. Luật
hình sự cũng quy định không áp dụng hình phạt tử hình, không thi hành án tử hình đối
với người bị kết án đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội hoặc đủ 75 tuổi trở lên khi
phạm tội hoặc khi xét xử, phụ nữ đang có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng
tuổi.
- Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự
và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử
nào khác xâm phạm thân thể, sức khoẻ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm: Không ai bị bắt
nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm
sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Tuy nhiên, đây là quyền con người,
không phải quyền riêng của công dân (chủ thể quyền được mở rộng). Hơn nữa phạm vi
quyền này cũng được mở rộng hơn ở chỗ mọi người có quyền không bị tra tấn, bạo lực,
truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm. Thân thể của con người không chỉ là đối tượng vật chất (cơ thể) mà
còn có cả các giá trị tinh thần như danh dự, nhân phẩm.
- Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác (khoản 3 Điều 20): Đây là
quyền mới được ghi nhận lần đầu trong Hiến pháp Việt Nam. Tính bị giới hạn của quyền
này thể hiện ở chỗ theo quy định của luật. Nếu được diễn đạt: “Việc thực hiện quyền này
theo quy định của luật” thì phù hợp hơn, như vậy quyền này mới không bị giới hạn bởi
luật.
- Quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng
tư khác: Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và
5
các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác (đoạn 2 khoản 2 Điều 21). Mặt
khác, phạm vi quyền được mở rộng hơn, không chỉ bất khả xâm phạm quyền riêng tư qua
các đối tượng như thư tín, điện thoại, điện tín mà là bất kỳ hình thức trao đổi thông tin
riêng tư nào.
- Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở: Việc khám xét chỗ ở do luật định (khoản 3
Điều 22). Trong khi đó, Hiến pháp năm 1992, 1980 quy định việc khám xét chỗ ở do
người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật (Điều 73); Hiến pháp năm
1959 quy định pháp luật bảo đảm nhà ở của công dân không bị xâm phạm.
- Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo: Không ai được… lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
để vi phạm pháp luật (khoản 3 Điều 24). Giới hạn này cũng tương tự như giới hạn được
quy định trong các bản Hiến pháp trước
- Quyền khiếu nại, tố cáo: Nghiêm cấm… lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu
khống, vu cáo làm hại người khác (khoản 3 Điều 30).
- Quyền được suy đoán vô tội: Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến
khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu
lực pháp luật (khoản 1 Điều 31).
- Quyền sở hữu tài sản: Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc
vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc
trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường (khoản 3 Điều
32) - đó là quan điểm giới hạn đối với quyền này của nhà lập hiến. Hiến pháp năm 2013
đã mở rộng hơn các lý do của việc trưng mua hoặc trưng dụng tài sản của cá nhân, tổ
chức. Khả năng bị giới hạn tăng lên đồng nghĩa với phạm vi quyền sở hữu tài sản của cá
nhân, tổ chức bị thu hẹp hơn so với quy định trong Hiến pháp năm 1992.
- Quyền tự do kinh doanh: Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những
ngành nghề mà pháp luật không cấm (Điều 33). Quyền này đã được mở rộng về chủ thể,
thành quyền của mọi người (quyền con người). Trừ khoảng cấm của pháp luật, còn lại là
tự do kinh doanh. Đây là điều kiện cần thiết để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường, tăng khả năng thu hút đầu tư, kinh doanh, cạnh tranh kinh tế ở Việt Nam.
Câu 3. Quyền con người, quyền công dân có thể bị hạn chế như thế nào? Anh (chị)
hãy bình luận vấn đề này.
Trả lời:
* Những hạn chế quyền con người, quyền công dân:
“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật
trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,
sức khỏe của cộng đồng” (Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013)
Giới hạn quyền, khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013: “Ở nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã
hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và luật”. Giới hạn
quyền trong Hiến pháp năm 2013 không chỉ là nguyên tắc cho chế định quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp (Chương II) mà còn là nguyên
tắc cho cả bản Hiến pháp và cũng là nguyên tắc chung cho cả hệ thống pháp luật.
Quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng,
bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (khoản 1 Điều 14), Hiến pháp năm 2013
6
đã thể hiện sự phát triển quan trọng về nhận thức lý luận và tư duy lập hiến trong việc ghi
nhận quyền con người, quyền công dân so với Hiến pháp năm 1992 (chỉ ghi nhận quyền
con người về chính trị, dân sự và kinh tế, văn hóa, xã hội được thể hiện ở các quyền công
dân). Điểm nhấn của nội dung này là việc bổ sung nguyên tắc “Quyền con người, quyền
công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do
quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng
đồng” (khoản 2 Điều 14). Đây chính là điều kiện để bảo đảm tính hiện thực của quyền
con người, quyền công dân, bảo đảm sự cân bằng, minh bạch và lành mạnh giữa các lợi
ích trong mối quan hệ giữa Nhà nước với con người, công dân, cá nhân và phù hợp với
các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên; hạn chế tối đa bất
cứ sự lạm dụng hay tùy tiện nào tước đi hay hạn chế các quyền và tự do vốn có của mọi
người bởi các cơ quan nhà nước
* Những bình luận hạn chế quyền con người, quyền công dân:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013: “Quyền con người, quyền
công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do
quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khoẻ cộng
đồng”. Nhưng với tính cách là luật cơ bản, các quy định của Hiến pháp nói chung thường
mang tính khái quát rất cao và đó cũng chính là tư tưởng, định hướng hay chính là những
nguyên tắc cho cả hệ thống pháp luật. Nhìn nhận như vậy thì mới có thể thấy được một
cách đầy đủ bức tranh về nguyên tắc giới hạn quyền trong các bản Hiến pháp Việt Nam.
Giới hạn quyền được quy định như vậy, cho dù đã hoàn toàn phù hợp với luật nhân
quyền quốc tế hay chưa thì đây vẫn được coi là điểm sáng rực rỡ nhất, thể hiện sự tiến
bộ, phát triển vượt bậc trong chế định quyền cơ bản của Hiến pháp năm 2013.
Hiến pháp năm 2013 quy định về giới hạn quyền trước hết thể hiện quan niệm của
các nhà lập hiến Việt Nam về bản chất của quyền con người, quyền công dân. Theo đó,
quyền con người tuy mang tính tự nhiên, vốn có và không phải có ai ban phát cho chủ thể
các quyền đó nhưng cũng không phải mọi quyền đều có ý nghĩa tuyệt đối và không phải
trong mọi trường hợp đều có thể thực hiện (hưởng thụ) quyền một cách tuyệt đối. Bởi lẽ,
con người hoặc công dân sinh ra và sống, hưởng thụ các quyền trong một cộng đồng xã
hội. Các quyền tuy là của cá nhân mỗi con người hoặc công dân nhưng không thể đối lập,
loại trừ, hay xâm hại cho quyền của cá nhân khác hay những lợi ích của cộng đồng. Nói
cách khác, vì lợi ích chung, trong những trường hợp cần thiết, quyền con người, quyền
công dân có thể bị giới hạn. Với tính cách là luật cơ bản, Hiến pháp phải vạch rõ, hiến
định nguyên tắc của việc giới hạn này. Việc quy định một nguyên tắc cho việc giới hạn
quyền trong Hiến pháp mang hai ý nghĩa sau:
(1) Xác lập tiêu chí để sự giới hạn quyền được chính đáng, tránh sự tuỳ tiện trong
hoạt động của bộ máy nhà nước làm triệt tiêu, vô hiệu hoá hay giảm ý nghĩa của quyền;
(2) Bảo đảm tính hiện thực của quyền vì sự giới hạn đối với quyền con người,
quyền công dân là một giải pháp được lựa chọn cuối cùng khi không có giải pháp nào
khác phù hợp hơn. Trên tinh thần đó, suy cho cùng, giới hạn quyền cũng nhằm mục đích
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Giới hạn quyền trong Hiến pháp năm 2013 không chỉ là nguyên tắc cho chế định
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp (Chương II)
mà còn là nguyên tắc cho cả bản Hiến pháp và cũng là nguyên tắc chung cho cả hệ thống
pháp luật.

7
Nhìn chung, tư tưởng giới hạn quyền tại khoản 2 Điều 4 Hiến pháp năm 2013 được
thể hiện phù hợp với yêu cầu lập hiến ở mỗi giai đoạn phát triển của đất nước và ngày
càng hoàn thiện, tiến bộ hơn trong quá trình phát triển chung của nền lập hiến Việt Nam.
Sự giới hạn quyền ngày càng hướng đến mục tiêu bảo vệ các quyền một cách tốt hơn,
theo bản chất của quyền đồng thời cũng bảo đảm cho tính hiện thực của quyền.
Tuy đến Hiến pháp năm 2013 mới có một quy định xác định chung về giới hạn
quyền cho chế định quyền cơ bản trong Hiến pháp nhưng ở các bản Hiến pháp trước đây,
tư tưởng về giới hạn quyền vẫn được xác lập tương ứng với mỗi quyền cụ thể được ghi
nhận. Cho dù đã xác lập nguyên tắc chung về giới hạn quyền nhưng Hiến pháp vẫn cần
phải có giới hạn riêng đối với mỗi quyền cụ thể (nếu cần thiết và có thể). Bên cạnh đó,
nguyên tắc giới hạn quyền cũng cần có sự hỗ trợ của những nguyên tắc chung khác của
chế định trong một thể thống nhất. Giới hạn quyền không chỉ được thể hiện ở việc vạch
định phạm vi nội dung quyền mà còn được thể hiện ở cách thức ghi nhận quyền (kỹ thuật
lập hiến). Theo đó, giới hạn quyền thường được thể hiện ở sự ghi nhận, xác định phạm vi
chủ thể có quyền, chủ thể có nghĩa vụ hoặc ở cách thức xác định phạm vi các hình thức
pháp lý ghi nhận quyền hay cụ thể hoá việc thực hiện quyền (văn bản luật hay pháp luật).
Hiến pháp Việt Nam khi xác định giới hạn quyền vẫn chưa thể hiện rõ ràng về quyền
tuyệt đối (không được giới hạn) và quyền có thể bị giới hạn; chưa phân biệt giới hạn
quyền với tạm đình chỉ việc thực hiện quyền (trong một số trường hợp).
Câu 4. Xu thế toàn cầu hóa đã làm thay đổi nhận thức của các nhà lập Hiến
Việt Nam về vấn đề quyền con người như thế nào?
Trả lời:
* Quyền con người trong điều kiện toàn cầu hóa đã làm thay đổi nhận thức của
các nhà lập Hiến Việt Nam:
Hiện nay, quyền con người đã trở thành một vấn đề toàn cầu, mối quan tâm lớn của
cộng đồng quốc tế và như Đảng ta đã khẳng định, là nguyện vọng chung của nhân loại,
thành quả đấu tranh của loài người qua nhiều thế hệ. Liên hợp quốc là tổ chức toàn cầu
lớn nhất, giữ vị trí trung tâm và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống quốc
tế. Hiến chương LHQ nêu rõ việc bảo vệ các quyền cơ bản và phẩm giá con người là một
trong những mục tiêu hàng đầu của LHQ và trên thực tế nhiệm vụ thúc đẩy, bảo vệ quyền
con người cùng với việc duy trì hòa bình-an ninh quốc tế và hợp tác vì phát triển đã trở
thành ba trụ cột trong hoạt động của tổ chức này. 
Trong từng giai đoạn phát triển của xã hô ̣i, cùng với viêc̣ xuất hiê ̣n thế hê ̣ quyền con
người mới làm nảy sinh sự cần thiết khách quan và nhu cầu tự nhiên của viê ̣c nghiên cứu,
nhâ ̣n thức sâu sắc, và tiếp đến tư duy lại quyền con người. Thế hê ̣ quyền con người thứ
nhất là các quyền dân sự, chính trị. Thế hê ̣ quyền con người thứ hai là các quyền kinh tế,
văn hóa, xã hô ̣i. Thế hê ̣ quyền con người thứ ba có tên gọi là các quyền tâ ̣p thể, ở phương
diê ̣n lý luâ ̣n chung là kết quả của viê ̣c nhâ ̣n thức về giai đoạn phát triển mới của quyền
con người gắn liền với quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa, và tương ứng của sự tư
duy lại các giai đoạn tiến triển trước đó của quyền con người. Có thể gọi thế hê ̣ quyền
con người thứ ba là “các quyền của nhân dân”, “các quyền của sự đoàn kết”. Ở phương
diê ̣n lý luâ ̣n – phương pháp luâ ̣n, điều đó có ý nghĩa đă ̣c biê ̣t quan trọng.
Ngày 12/11/2013 vừa qua, tại Trụ sở Liên hợp quốc ở Niu-Oóc, Hoa Kỳ, Đại hội
đồng LHQ đã bỏ phiếu kín để bầu các quốc gia thành viên mới của Hội đồng Nhân quyền
cho nhiệm kỳ ba năm 2014-2016 với sự tham gia của tất cả 193 quốc gia thành viên
LHQ. Việt Nam đạt 184/193 phiếu ủng hộ, trúng cử với số phiếu cao nhất trong số 14
8
nước mới trúng cử vào Hội đồng nhân quyền gồm 47 thành viên đại diện cho các khu
vực.
Việc Việt Nam ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ xuất phát từ chính sách nhất
quán của Đảng và Nhà nước ta là bảo vệ, thúc đẩy các quyền con người và tích cực đóng
góp vào hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.  Kết quả Việt Nam trúng cử với số phiếu rất
cao mang nhiều ý nghĩa lớn.  Trước hết, đó là sự ghi nhận rộng rãi và đánh giá cao của
cộng đồng quốc tế đối với các thành tựu của trong công cuộc đổi mới toàn diện, chính
sách, nỗ lực và kết quả tích cực đạt được về quyền con người ở Việt Nam. Đây cũng là
thành công của công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước, thể hiện uy tín, vị thế quốc tế
ngày càng tăng của Việt Nam và sự đánh giá cao của quốc tế đối với các vai trò, đóng
góp của Việt Nam tại Liên hợp quốc và các diễn đàn đa phương khác. 
Đảng, Nhà nước ta bắt nguồn từ khát vọng thiết tha được hưởng các quyền tự do cơ
bản của nhân dân Việt Nam vốn đã phải chịu cảnh là người dân của một nước thuộc địa.
Nhiều bạn bè còn nhắc lại tình cảm, sự ủng hộ đối với nhân dân Việt Nam luôn đi đầu
trong cuộc đấu tranh bảo vệ quyền dân tộc tự quyết. Đây là một trong những quyền con
người cơ bản nhất, được ghi nhận trong những điều khoản đầu tiên của các điều ước quốc
tế quan trọng nhất hiện nay về quyền con người. Tuyên bố được các nước thành viên
LHQ thông qua tại Hội nghị thế giới về quyền con người tổ chức vào tháng 6/1993 ở
Viên (Áo) nêu rõ rằng quyền dân tộc tự quyết có nghĩa là các dân tộc có quyền tự do lựa
chọn thể chế chính trị. Quyền đó cũng có nghĩa là các dân tộc tự do theo đuổi sự phát
triển kinh tế, xã hội và văn hoá của mình. 
Con người được đặt là trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong quá trình
phát triển và công cuộc đổi mới toàn diện ở Việt Nam. Các quyền và tự do cơ bản của
nhân dân được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng nhiều
chủ trương, chính sách và cơ chế. Vấn đề tôn trọng, thúc đẩy quyền con người được
khẳng định ngay trong những chương đầu, trở thành những quy định có giá trị thực hiện
trực tiếp trong nội dung sửa đổi của Hiến pháp năm 1992 đã  được đăng công khai, lấy ý
kiến đóng góp rộng rãi của nhân dân. 
Đường lối đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và chính sách nhất quán của Đảng, Nhà
nước ta là bảo vệ, thúc đẩy quyền con người tiếp tục là những định hướng cho việc hoàn
thiện luật pháp, thể chế nâng cao hiệu quả bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền dân sự,
chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của người dân. Theo đó và với đường lối đối ngoại
đúng đắn của Đại hội Đảng lần thứ XI, trong đó có chủ trương là đối tác tin cậy, thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế,
chúng ta sẽ nỗ lực để có thêm nhiều đóng góp hiệu quả vào công việc chung, thực hiện
tốt vai trò là thành viên của Hội đồng Nhân quyền.     
Chế định về quyền con người trong Hiến pháp sửa đổi, do đó, cần được xây dựng
trên nguyên tắc tiếp cận dựa trên quyền. Nguyên tắc ấy chỉ ra việc định rõ một cách chính
xác nội hàm của khái niệm quyền công dân và quyền con người. Không đơn thuần là chủ
thể của quyền công dân hẹp hơn chủ thể của quyền con người, điều quan trọng đó là việc
xem cá nhân là chủ thể cao nhất và tối cao của các quyền con người.
Đến Hiến pháp năm 2013, nhận thức mới về quyền con người và một bước tiến về
kỹ thuật lập hiến là phải xây dựng các đạo luật mới về quyền con người, quyền công dân
mà nước ta chưa có như Luật Trưng cầu dân ý, Luật Về hội, Luật Biểu tình... Chỉ trên cơ

9
sở xây dựng và hoàn thiện pháp luật trên tinh thần và nội dung mới của Hiến pháp, quyền
con người, quyền công dân mới có điều kiện tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm.
Câu 5. Anh (chị) hãy giải thích vì sao chỉ từ Hiến pháp năm 1992, nguyên tắc “Tôn
trọng quyền con người” mới chính thức được ghi trong một điều khoản?
Trả lời:
* Hiến pháp năm 1992, nguyên tắc “Tôn trọng quyền con người” mới chính thức
được ghi trong một điều khoản vì:
Nhà nước ta là nhà nước của dân do dân vì dân nhân dân là chủ nhân dân làm chủ
nên mọi tất cả mọi hoạt động của nhà nước đều vì mục tiêu phục vụ nhân dân nên việc
đảm bảo quyền con người rất được coi trọng. 34 điều trong hiến pháp quy định quyền con
người cũng như quyền công dân trong đạo luật cơ bản nhất của nhà nước là bản hiến
pháp 1992 tôn trọng quyền con người là nguyên tắc cơ bản của hiến pháp bên cạnh
những nguyên tắc quan trọng khác.
Năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng của Nhà nước theo định
hướng bảo đảm các quyền dân sự, chính trị ở nước ta trong hiến pháp 1992 so với các
Hiến pháp năm 1959 và 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), lần đầu
tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 tuyên bố tôn trọng quyền con
người, nhấn mạnh vai trò của những văn bản có hiệu lực và giá trị pháp lý cao nhất là
Hiến pháp và luật trong việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp năm
1992 đã thể hiện một bước phát triển mới trong việc pháp điển hóa các quyền con người,
với việc khẳng định khái niệm và sự tôn trọng các quyền con người (Điều 50) cũng như
bổ sung một loạt các quyền và tự do mới trên tất cả các lĩnh vực. Xét trên lĩnh vực dân
sự, chính trị, trong Hiến pháp 1992, có 5 quyền quan trọng được ban hành mới hoặc bổ
sung thêm, bao gồm: quyền sở hữu tài sản (bao gồm cả tư liệu sản xuất); quyền tự do
kinh doanh; quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo luật định; quyền được
thông tin theo luật định; quyền bình đẳng của các tôn giáo; quyền không bị coi là có tội
và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản
án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra, Hiến pháp năm 1992 còn đề cập đến việc Nhà nước bảo hộ quyền lợi
chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài và mở rộng việc bảo vệ, giúp đỡ
các nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Nội dung đảm bảo quyền dân sự – chính trị ở nước ta
được thể hiện một cách cụ thể:
- Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân,
- Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về tính mạng,
- Bảo đảm một số quyền dân sự, chính trị khác,
- Bảo đảm quyền làm việc,
- Bảo đảm quyền được tiếp cận với giáo dục,
- Bảo đảm quyền được chăm sóc y tế
- Quyền được bảo đảm xã hội,
Có thể thấy rằng, Nhà nước ta từ lúc thành lập luôn luôn lấy quyền con người làm
mục tiêu đấu tranh và phấn đấu. Quyền con người luôn luôn được coi là nguyên tắc trong
hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước ta.

10
Tuy nhiên, quyền con người không phải lúc nào cũng được ghi nhận công khai
thành một nguyên tắc trong luật cơ bản của Nhà nước. Phải khẳng định rằng, với Hiến
pháp 1992, lần đầu tiên quyền con người được chính thức ghi nhận là một nguyên tắc
Hiến pháp. Việc chính thức ghi nhận quyền con người thành một nguyên tắc Hiến pháp là
một bước phát triển đáng ghi nhận trong lịch sử lập hiến Việt Nam, thể hiện một cách rõ
nét bản chất Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Câu 6. Anh (chị) hãy phân tích nguyên tắc “Công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
quyền con người” với các nội dung sau:
Trả lời:
a. Cơ sở hiến định:
Điều 3 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhâ ̣n, tôn
trọng, bảo vê ̣ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.
Như vậy, trong quy định tại Hiến pháp 2013 đã có sự phân biệt rõ hơn giữa quyền
con người và quyền công dân. Quyền con người, quyền công dân không chỉ được tôn
trọng (như quy định tại Điều 50 Hiến pháp năm 2013) mà còn được công nhận, bảo vệ,
bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời Hiến pháp đã bổ sung nguyên tắc hạn
chế quyền con người, quyền công dân phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con
người mà Việt Nam là thành viên. Theo đó, quyền con người, quyền công dân chỉ có thể
bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Nguyên tắc trách nhiệm nhà nước trong việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người,
quyền công dân không chỉ được thể hiện đầy đủ ở Chương II “Quyền con người, Quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân” mà còn ở nhiều quy định khác của Hiến pháp và là
nguyên tắc, tinh thần chủ đạo, xuyên suốt toàn bộ bản Hiến pháp. Chương II là chương
có số điều quy định nhiều nhất, từ Điều 14 đến Điều 49 (36/120 điều) với sự đổi mới
nhiều nhất cả về nội dung và cách thức thể hiện, kỹ thuật pháp lý. Ngoài việc quy định
thành nguyên tắc: Quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật
(Điều 14); ở hầu hết các điều của Hiến pháp đều quy định trách nhiệm và bảo đảm của
Nhà nước. Tại Điều 3, Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân;
công nhâ ̣n, tôn trọng, bảo vê ̣ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; Tại Điều 8. Các cơ quan nhà
nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân,
liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên
quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa
quyền; Điều 17. Nhà nước bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài; Điều 28. Nhà nước
tạo mọi điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh
bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân...
11
b. Cơ sở lý luận
Khái quát chung về tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) khẳng định quan điểm “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền
con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người”. Tại
Điều 3 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước công nhâ ̣n, tôn trọng, bảo vê ̣ và bảo
đảm quyền con người, quyền công dân”. Như vậy, ở đây Nhà nước nhận về mình trách
nhiệm, nghĩa vụ phải tôn trọng các quyền con người, quyền công dân; bảo đảm các quyền
con người, quyền công dân; đồng thời chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi
người. Các quyền của con người là những giá trị xã hội được con người nhận thức, thừa
nhận và dần được thể chế hóa trong các văn kiện quốc tế về quyền con người và được các
quốc gia thừa nhận, cam kết thực hiện. Các quyền công dân là hình thức pháp lý, biểu
hiện cụ thể của quyền.
Tuy vậy, không đồng nhất giữa quyền con người và quyền công dân, không đồng
nhất giữa các giá trị. Quyền con người là những giá trị mà cộng đồng quốc tế nhận thức,
thừa nhận, còn quyền công dân chỉ là nhận thức và thừa nhận của một quốc gia cụ thể. Vì
vậy, không ít những trường hợp giữa quyền con người và quyền công dân vẫn có những
khoảng cách nhất định. Bảo đảm các quyền con người, quyền công dân là việc tạo ra các
tiền đề, điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý và tổ chức để cá nhân, công dân,
các tổ chức của công dân thực hiện được các quyền, tự do, lợi ích chính đáng của họ đã
được pháp luật ghi nhận. Từ góc nhìn của khoa học luật học, trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nước
ta, các bảo đảm pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và mang tính quyết định, là cốt
lõi, là sự thể chế hóa các bảo đảm chính trị, kinh tế, xã hội, tổ chức thành các chuẩn mực
có tính bắt buộc mà nhà nước, các cơ quan nhà nước và xã hội phải thực hiện để bảo đảm
các quyền con người, quyền công dân.
Các bảo đảm pháp lý rất đa dạng, phong phú, trước hết là sự ghi nhận các quyền
con người, quyền công dân, đến việc tạo các điều kiện pháp lý, các điều kiện tổ chức,
việc thiết lập cơ chế, bộ máy chuyên trách bảo đảm các quyền con người, quyền công
dân. Bảo vệ quyền con người, quyền công dân là việc xác định các biện pháp pháp lý, các
biện pháp tổ chức, cơ chế để bảo vệ các quyền con người, quyền công dân khi bị xâm
phạm từ phía cơ quan công quyền, hay từ các chủ thể khác nhằm khôi phục các quyền đã
bị xâm phạm.
c. Yêu cầu đối với các chủ thể liên quan
Các quyền con người, quyền công dân rất đa dạng, được bảo đảm, bảo vệ bằng cả hệ
thống pháp luật: Từ luật công đến luật tư; từ Luật Hiến pháp, Luật hành chính, Luật hình
sự… đến Luật dân sự, Luật lao động, Luật hôn nhân gia đình. Mỗi lĩnh vực pháp luật bảo
đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân bằng những phương thức, cách thức
chuyên biệt riêng có của mình. Pháp luật hành chính là một lĩnh vực rất rộng lớn, luôn
gắn với con người từ khi sinh ra đến khi mất đi, không có một lĩnh vực pháp luật nào lại
có ý nghĩa sát thực, sâu rộng như lĩnh vực pháp luật hành chính trong việc bảo đảm, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân. Pháp luật hành chính bảo đảm, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân thông qua từng chế định của nó dù hiểu pháp luật hành chính theo
nghĩa rộng, nghĩa hẹp khác nhau. Vì vậy, việc công nhâ ̣n, tôn trọng, bảo vê ̣ và bảo đảm
quyền con người, quyền công dân bằng pháp luật hành chính cần phải xem xét ở từng chế
định của lĩnh vực pháp luật. Đây là công việc đòi hỏi những nghiên cứu công phu của các
12
nhà khoa học thuộc nhiều thế hệ khác nhau trong công cuộc xây dựng con người, xây
dựng phát triển đất nước.
d. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc
Việc tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trên thực tế gồm các quyền
sau:
+ Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin: Quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí, tự do thông tin ở Việt Nam đã được quy định rõ trong Hiến pháp, pháp luật;
được đảm bảo ngày càng tốt hơn  nhờ sự phát triển nhanh chóng, đa dạng về loại hình và
phong phú về nội dung của các phương tiện thông tin đại chúng.
+ Quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng: Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, với sự
hiện diện của các tôn giáo được truyền vào từ bên ngoài như Phật giáo, Công giáo, Tin
lành, Hồi giáo… và các tôn giáo được hình thành trong nước như đạo Cao Đài, Phật giáo
Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa… Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam là tôn
trọng và tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân thực hiện quyền tự do tôn giáo, tín
ngưỡng; coi trọng chính sách đoàn kết và hòa hợp giữa các tôn giáo, đảm bảo sự bình
đẳng, không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng, bảo hộ hoạt động của các tổ
chức tôn giáo bằng pháp luật.
+ Quyền tự do lập hội, hội họp: Được quy định trong Hiến pháp (điều 69) và được
pháp luật bảo vệ bằng nhiều văn bản luật và dưới luật. Ngoài ra, Chính phủ cũng đã ban
hành Nghị định 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 quy định về tổ chức, hoạt động và quản
lý hội nhằm tạo cơ sở pháp lý cho công dân, tổ chức ở Việt Nam thành lập hội và tạo cơ
chế, chính sách cho hoạt động của các hội, đảm bảo quyền lập hội của công dân.
+ Đảm bảo quyền của người đang chấp hành án phạt tù, người bị tạm giam, tạm
giữ đề điều tra: Pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài
sản, danh dự, nhân phẩm của những người bị tạm giữ, tạm giam. Người bị tạm giữ, tạm
giam có thể được gặp thân nhân, luật sư hoặc người bào chữa khác theo quy định của
pháp luật; được tiếp cận thông tin qua hệ thống báo chí, phát thanh, truyền hình trong nhà
tạm giữ, tạm giam; có quyền khiếu nại, tố cáo đối với các hành vi vi phạm pháp luật và
quy chế của nhà tạm giữ, tạm giam. Việc tổ chức quản lý phạm nhân và đảm bảo chế độ
đối với phạm nhân tại các trại giam, qua đó phạm nhân đã được nâng cao các chế độ về
ăn, mặc, ở, sinh hoạt và chăm sóc y tế.
+ Quyền được xét xử công bằng: Tại Việt Nam, hoạt động tố tụng được tiến hành
trên nguyên tắc bảo đảm cho người tham gia tố tụng được thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của mình một cách đầy đủ, công bằng, dân chủ; bảo đảm việc xét xử được công khai,
minh bạch, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật trong khuôn khổ nhà nước pháp quyền.
+ Các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa: Việt Nam vẫn đạt một số kết quả đáng ghi
nhận về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế được duy trì ở mức khá, trung bình 5,5-6%/năm. Nhờ tăng trưởng kinh tế,
mỗi năm Việt Nam tạo thêm hơn 1 triệu việc làm; giáo dục, y tế và an sinh xã hội ngày
càng được đảm bảo tốt hơn.
+ Đảm bảo an sinh xã hội: Những tiến bộ trong việc đảm bảo an sinh xã hội được
thể hiện rõ qua việc xây dựng và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm, góp phần giảm
bớt khó khăn, ổn định cuộc sống cho người dân. Việt Nam đã thiết kế các nhóm chính
sách ngày càng đồng bộ hơn về phát triển thị trường lao động, thực hiện chế độ bảo hiểm

13
xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, giảm
nghèo và hỗ trợ người dân tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản
+ Phát triển thị trường lao động, thúc đẩy việc làm: Để phát triển thị trường lao
động và tạo việc làm, Nhà nước chú trọng củng cố hệ thống chính sách, pháp luật về lao
động và nâng cao hiệu quả các biện pháp triển khai trên thực tế. Việc sửa đổi Bộ luật Lao
động (có hiệu lực từ 1/5/2013) và ban hành Chính sách bảo hiểm thất nghiệp (có hiệu lực
từ năm 2009) là những bước phát triển mới về hoàn thiện khung chính sách trong lĩnh
vực này.
+ Xóa đói, giảm nghèo: Giảm nghèo toàn diện và bền vững luôn được xác định là
ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam trong việc bảo đảm các quyền con người và
các Mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc (MDGs). Trong những năm gần đây, công
cuộc giảm nghèo tại Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc. Nhờ các thành tựu về
tăng trưởng kinh tế và chính sách an sinh xã hội, Việt Nam đã hoàn thành trước thời hạn
MDG về xóa đói, giảm nghèo.
+ Đảm bảo nhà ở cho người thu nhập thấp: Nhà nước đã ban hành nhiều chính
sách, chương trình phát triển nhà ở cho các đối tượng có khó khăn về nhà ở như người
lao động tại các khu công nghiệp, học sinh, sinh viên, người nghèo ở nông thôn, người có
thu nhập thấp tại khu vực đô thị...
+ Quyền chăm sóc y tế, giáo dục: Việt Nam xác định chăm sóc sức khỏe cộng đồng
là ưu tiên hàng đầu trong các chiến lược phát triển, chương trình mục tiêu quốc gia và đã
đạt được nhiều tiến bộ trong lĩnh vực này. Chất lượng đào tạo đã có nhiều chuyển biến
tích cực, từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực qua đào tạo phục vụ phát triển
kinh tế.
+ Quyền người cao tuổi: Luật Người cao tuổi đã được Quốc hội ban hành và bắt
đầu có hiệu lực từ ngày 1/7/2010. Luật đã thể chế hoá chính sách của Việt Nam về người
cao tuổi một cách hệ thống, đầy đủ và toàn diện, đảm bảo cho sự tham gia vào hoạt động
xã hội của người cao tuổi, đồng thời khuyến khích sự quan tâm của các tổ chức xã hội, cá
nhân trong công tác chăm sóc người cao tuổi.
+ Quyền bình đẳng giới và bảo đảm quyền của phụ nữ: Chính phủ Việt Nam luôn
coi trọng xây dựng và phát triển các chính sách, chương trình nhằm thúc đẩy bình đẳng
giới, tạo điều kiện để đảm bảo quyền của phụ nữ. Việt Nam đã đạt được một số thành tựu
quan trọng trong việc thúc đấy quyền phụ nữ như: xây dựng và ban hành các văn bản
pháp quy thể hiện nguyên tắc về bình đẳng giới và không phân biệt đối xử theo quy định
của Luật Bình đẳng giới 2006 và Công ước CEDAW.
+ Quyền trẻ em: Tháng 10/2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình
hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012-2020, hướng tới thực hiện mục tiêu tổng
quát là xây dựng môi trường sống an toàn, thân thiện và lành mạnh để thực hiện ngày
càng tốt hơn các quyền của trẻ em; từng bước giảm khoảng cách chênh lệch về điều kiện
sống giữa các nhóm trẻ em và trẻ em giữa các vùng, miền; nâng cao chất lượng cuộc
sống và tạo cơ hội phát triển bình đẳng cho mọi trẻ em. Việt Nam là nước đầu tiên tại
Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới tham gia Công ước về Quyền trẻ em (CRC) và
Nghị định thư bổ sung số 1 và số 2.
+ Quyền người khuyết tật: Việt Nam đã ký Công ước về quyền của người khuyết tật
năm 2008 và dự kiến hoàn thành thủ tục phê chuẩn trong năm 2014, cũng như đang nỗ
lực xây dựng và hoàn thiện luật pháp, chính sách nhằm thúc đẩy quyền của người khuyết
14
tật. Trong lộ trình phê chuẩn Công ước về quyền của người khuyết tất, Việt Nam đã ban
hành Luật về người khuyết tật năm 2010 và xây dựng các văn bản thi hành.
7. Anh (chị) hãy phân tích nguyên tắc “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”
với các nội dung sau:
Trả lời:
* Phân tích nguyên tắc “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”:
a. Cơ sở hiến định
Theo quy định tại Điều 16, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa, xã hội”.
Ở Việt Nam, bình đẳng trước pháp luật được thể hiện nhất quán trong các bản Hiến
pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992. Điều 6, 7 Hiến pháp 1946 quy định: “Tất cả công
dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa” và “Tất
cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và
công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình”. Điều 51, Hiến pháp năm
1992 cũng tiếp tục khẳng định: “Công dân có quyền bình đẳng trước pháp luật”. Quyền
bình đẳng trước pháp luật cũng được cụ thể hóa trong các lĩnh vực cụ thể của quan hệ
pháp luật. Như vậy, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật là một nội dung xuyên suốt tư
tưởng lập pháp của nước ta.
Hiến pháp năm 2013 đã quy định quyền con người tách khỏi quyền công dân và
được quy định tại Chương II - Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Theo đó, nội dung của nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật được quy định tại Điều 16
“Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”.
Hiến pháp năm 2013 về quyền bình đẳng trước pháp luật là quyền con người theo
hướng mở rộng đối tượng có quyền bình đẳng trước pháp luật; khẳng định quyền bình
đẳng trước pháp luật của mọi người được công nhận trong tất cả lĩnh vực, bao gồm đời
sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng,
không phân biệt đối xử đối với mọi người trong việc hưởng các quyền và thực hiện các
nghĩa vụ 9 do “Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác” (Điều 15 khoản
2). Công dân ở bất kỳ địa vị nào dù là cán bộ, công chức hay người lao động, dù là người
có chức, có quyền hay là một người dân bình thường đều phải chịu trách nhiệm trước nhà
nước, trước pháp luật về mỗi hành vi, mỗi việc làm của mình. Mọi hành động xâm phạm
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý
theo pháp luật. Công dân có hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý bằng các chế tài theo
quy định của pháp luật không phân biệt chức vụ, nghề nghiệp, tuổi tác và địa vị xã hội.
b. Cơ sở lý luận
Trước xu thế hội nhập quốc tế, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục được sửa đổi, bổ sung
phù hợp, với việc quyền bình đẳng trước pháp luật được thể hiện đầy đủ. Hiến pháp
khẳng định, bình đẳng trước pháp luật là quyền con người. Việc quy định theo hướng mở
rộng đối tượng có quyền bình đẳng trước pháp luật như trên cho thấy Việt Nam ghi nhận
quyền bình đẳng trước pháp luật là quyền tự nhiên của con người trong mọi lĩnh vực đời
sống xã hội.

15
Hiến pháp khẳng định quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi người được công
nhận trong tất cả lĩnh vực, bao gồm đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội. Cùng với việc ghi nhận nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của con người, Hiến
pháp quy định rõ ràng, đầy đủ các quyền của con người như quyền sống, quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, quyền tự do đi lại,
tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, quyền tham gia quản lý nhà nước…Với quan điểm
mọi người bình đẳng trước pháp luật, Hiến pháp, pháp luật cũng quy định trách nhiệm
của Nhà nước trong việc tôn trọng và bảo hộ quyền con người, bảo vệ một cách bình
đẳng, không phân biệt đối xử đối với mọi người trong việc hưởng các quyền và thực hiện
các nghĩa vụ hợp pháp của con người.
Bất cứ công dân nào, không phân biệt người đó là ai, thành phần xã hội thế nào, tình
trạng tài sản ra sao, nắm giữ chức vụ gì trong bộ máy nhà nước, theo tín ngưỡng , tôn
giáo nào… đều có quyền và nghĩa vụ như nhau. Luật pháp Nhà nước ta không thừa nhận
bất kỳ một sự đặc quyền, đặc lợi của bất kỳ đối tượng, tầng lớp nào.
Bình đẳng trước pháp luật còn có nghĩa vụ là mọi công dân đều phải tôn trọng và
tuân thủ Hiến pháp, pháp luật. Bất kỳ công dân nào vi phạm pháp luật đều bị xử lý theo
pháp luật, bất luận người đó là ai. Trước pháp luật mọi công dân chỉ có một tư cách giống
nhau: Công dân nhà nước. Pháp luật của Nhà nước ta không thừa nhận sự phân biệt công
dân thành các loại khác nhau và hưởng sự đối xử khác nhau. Sự bình đẳng trước pháp
luật không có nghĩa là mọi công dân đều được đối xử giống nhau một cách máy móc.
Trong hoạt động áp dụng pháp luật, các đặc điểm khách quan và chủ quan của mỗi người
đều được chú ý, cân nhắc một cách kỹ càng, đầy đủ. Sự áp dụng pháp luật đúng đắn đòi
hỏi phải chú ý một cách thích đáng sự khác biệt của mỗi cá nhân về tuổi tác, sức khoẻ,
hoàn cảnh xã hội, điều kiện làm việc, kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ học vấn, trách
nhiệm được giao, hoàn cảnh gia đình… Bình đẳng trước pháp luật hoàn toàn không phải
là sự áp dụng pháp luật giống nhau một cách hình thức đối với mọi công dân mà không
chú ý đến các điều kiện xã hội và cá nhân cụ thể.
Bình đẳng trước pháp luật còn bao hàm trong nó nội dung quyền bình đẳng dân tộc
(Điều 5 Hiến pháp 2013). Từ ngày thành lập chính quyền dân chủ nhân dân ở nước ta,
bình đẳng dân tộc đã trở thành một trong những nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản
của Nhà nước ta. Bình đẳng dân tộc là nguyên tắc bao trùm và xuyên suốt toàn bộ lịch sử
lập hiến Việt Nam được ghi nhận ở tất cả các Hiến pháp.
Quyền bình đẳng trước pháp luật còn bao hàm cả nội dung quyền bình đẳng nam,
nữ. Quyền bình đẳng nam nữ đã trở thành một nguyên tắc Hiến pháp từ lúc bắt đầu lịch
sử lập hiến nước ta, là nội dung xuyên suốt quá trình lập hiến.
c. Yêu cầu đối với các chủ thể liên quan
Quyền bình đẳng trước pháp luật là quyền Hiến định và bình đẳng trước pháp luật là
nguyên tắc Hiến định. Chính vì vậy, nó không chỉ được thể hiện và cụ thể hóa trong Hiến
pháp mà còn được cụ thể hóa trong tất cả các lĩnh vực cụ thể của quan hệ pháp luật như:
Điều 5, Điều 14 -16 và  Điều 17 - 23 Bộ luật Dân sự (2005); Điều 5 Bộ luật Tố tụng Hình
sự (2004); Điều 1 Luật Quốc tịch (1998); Điều 1 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội (1997);
Điều 1 Luật Bầu cử đại biểu HĐND (2003); Chương III, V Luật Hôn nhân và gia đình
(2000); Điều 4 Luật Doanh nghiệp (2005).
Trên bình diện thể chế hóa quyền bình đẳng trước pháp luật ở Việt Nam có thể đưa
ra nhận xét sau đây:

16
Thứ nhất, bình đẳng trước pháp luật là một nội dung xuyên suốt tư tưởng lập hiến
Việt Nam. Nó được khẳng định và thể hiện một cách nhất quán trong 4 bản Hiến pháp
Việt Nam. Xu hướng chung là quyền bình đẳng trước pháp luật ngày càng được bổ sung
trong nhiều lĩnh vực.
Thứ hai, quyền bình đẳng trước pháp luật xuất hiện với tư cách là một quyền trong
tất cả các bản Hiến pháp nhưng mức độ thể hiện của nó trong các bản Hiến pháp và các
lĩnh vực quan hệ pháp luật khác là không giống nhau, lúc thăng lúc trầm. Có khi nó được
thể hiện giản dị, mạch lạc và tương đối đầy đủ trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1992
nhưng cũng có thời điểm, quyền này bị cắt xén, hạn chế, thậm chí phủ nhận trong Hiến
pháp 1959 và 1980.
Thứ ba, quyền bình đẳng trước pháp luật của con người trong mối quan hệ với Nhà
nước chưa thiết lập được thế quân bình. Nói cách khác, bình đẳng trước pháp luật chỉ
được đặt trong mối quan hệ giữa công dân với nhau.
Thứ tư, quyền bình đẳng trước pháp luật chỉ nằm trên giấy, có ý nghĩa "tô điểm”
cho Hiến pháp và pháp luật nếu pháp luật không tạo ra được cơ chế để thực hiện và bảo
vệ nó. Trách nhiệm tạo ra cơ chế này trước hết thuộc về Hiến pháp.
d. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc
Để đề ra giải pháp thúc đẩy mọi người bình đẳng trước pháp luật ở Việt Nam là thực
hiện giải quyết tận gốc nguyên nhân của bất bình đẳng xã hội trong mọi lĩnh vực đang tồn
tại trong xã hội. Vì, pháp luật với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng nên
nó luôn phản ánh các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục. Không thể có
sự bình đẳng trước pháp luật nếu vẫn còn sự bất bình đẳng trong các lĩnh vực như:
- Bình đẳng về kinh tế sẽ có bình đẳng trước pháp luật
Ở Việt Nam hiện nay, tư hữu đã được thừa nhận bên cạnh sự chiếm ưu thế hơn của
công hữu. Điều này thể hiện qua việc sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước vẫn được Hiến
pháp khẳng định là nền tảng và chủ đạo. Đó là bên cạnh việc khẳng định sự bình đẳng
của các thành phần kinh tế nhưng thực tế, các doanh nghiệp nhà nước lại đóng vai trò chủ
đạo. Và chủ đạo lại không được hiểu như là công cụ để điều hành kinh tế, lấp những
khoảng trống tiêu cực mà tư nhân và thị trường bỏ ngỏ, mà lại là sự ưu ái trên mọi
phương diện: nguồn lực, chính sách, pháp luật, các lợi thế cạnh tranh khác. Tái cơ cấu
nền kinh tế, phân bổ lại nguồn lực quốc gia đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế, trả doanh nghiệp nhà nước về đúng với vai trò của nó như nó vốn có, đó chính là
tiền đề để đảm bảo bình đẳng trước pháp luật.
- Đảm bảo sự bình đẳng trong chính trị 
Sự bình đẳng về chính trị là những cơ hội ngang nhau trong việc tham gia vào sinh
hoạt chính trị của quốc gia, trong đó có sự tham gia vào thực hiện quyền lực nhà nước.
Hiến pháp phân chia nhân dân thành các thành phần khác nhau, trong đó nền tảng là giai
cấp công nhân, nông dân và trí thức (Điều 2 Hiến pháp 2013). Với việc tuyên bố chủ
quyền thuộc về nhân dân, cho thấy, quyền bình đẳng trong chính trị được pháp luật thừa
nhận.
Pháp luật phải đảm bảo cho người dân thực hiện quyền bình đẳng trong chính trị bằng
việc cải cách chế độ bầu cử, thực hiện quyền khiếu nại tố cáo, quyền tiếp cận thông tin…
Một mặt thúc đẩy quyền bình đẳng về chính trị, một mặt thể hiện quyền bình đẳng trước
pháp luật của người dân.
17
- Pháp luật phải chứa đựng các giá trị tự do, bình đẳng
  Các quyền con người muốn trở thành hiện thực phải được thể chế hóa. Tuy nhiên,
quyền bình đẳng trước pháp luật có được thực hiện trên thực tế hay không phải xét dưới
hai khía cạnh: pháp luật có thừa nhận sự tự do bình đẳng hay không, đồng thời pháp luật
phải chứa đựng trong nó các giá trị nhân loại về tự do, bình đẳng. Ở Việt Nam, các văn
bản dưới luật, thì việc ghi nhận bảo vệ sự bình đẳng vẫn còn mờ nhạt, thậm chí là có cả
vi phạm. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có nhiều. Có thể là sự tham gia của người
dân trong việc hoạch định chính sách không được quan tâm, thiếu vắng cơ chế giám sát
trong thực thi pháp luật…
Hiện tượng không bình thường là sự chi phối của các nhóm lợi ích có ưu thế trong xã
hội đến việc hoạch định chính sách và ban hành pháp luật, nhất là trong lĩnh vực kinh tế -
không phải theo hướng tích cực mà là tạo sự ra bất bình đẳng. Điều này không phải hoàn
toàn vô căn cứ nếu nghiên cứu nội dung và thực tế áp dụng một số loại văn bản pháp luật
này. Ví dụ như, cùng thực hiện hoạt động kinh doanh trên thương trường nhưng có doanh
nghiệp thua lỗ thì được Nhà nước ra tay cứu bằng nhiều cách hoặc là tái cơ cấu (chứ
không cho phá sản), miễn thuế, khoanh nợ thậm chí trả nợ thay…
8. Anh (chị) hãy phân tích nguyên tắc “Quyền công dân không tách rời nghĩa
vụ công dân” với các nội dung sau:
a. Cơ sở hiến định
Quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định ở Điều 15 của Hiến pháp năm
2013, với nội dung như sau: “1. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. 2.
Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. 3. Công dân có trách nhiệm thực
hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. 4. Việc thực hiện quyền con người, quyền công
dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác”.
Trên cơ sở Điều 51 của Hiến pháp 1992 có nội dung như sau: Quyền của công dân
không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công
dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Quyền và nghĩa vụ của
công dân do Hiến pháp và luật quy định. Như vậy, so với Hiến pháp năm 1992, thì Hiến
pháp 2013 đã bổ sung hai trường hợp “Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người
khác” và “Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi
ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Điều này có ý nghĩa
thực tiễn hết sức quan trọng, vì Hiến pháp khẳng định rõ rằng quyền con người, quyền
công dân được nhà nước tôn trọng và bảo vệ. Tuy nhiên, quyền con người, quyền công
dân phải trong khuôn khổ để bảo vệ quyền của người khác cũng như lợi ích của quốc gia,
dân tộc.
b. Cơ sở lý luận
Trong tất cả các bản Hiến pháp Việt Nam đều tuân thủ nguyên tắc: “Quyền của
công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân”. Nguyên tắc này thể hiện ý thức và trách
nhiệm của công dân. Công dân hưởng các quyền đồng thời phải thực hiện những bổn
phận nhất định. Điều này giúp ích cho sự phát triển của cá nhân mỗi công dân đồng thời
tạo điều kiện cho sự phát triển của người khác, của cộng đồng xã hội. Bởi trong xã hội
không thể có hai loại công dân: Một loại công dân chuyên hưởng quyền, một loại công
dân chuyên thực hiện nghĩa vụ.

18
Quyền và nghĩa vụ là hai mặt của quyền làm chủ của công dân. Quyền lợi và nghĩa
vụ luôn luôn phải đi đôi với nhau. Nhà nước bảo đảm cho công dân những quyền lợi hợp
pháp nhưng mặt khác cũng đòi hỏi mọi công dân phải thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa
vụ của mình, nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác, nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.
Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia,
dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Mối quan hệ qua lại cùng có trách nhiệm giữa Nhà nước với công dân, giữa công
dân với công dân chỉ tồn tại và bảo đảm khi mỗi người, cùng với việc hưởng quyền lợi
của mình thực hiện đầy đủ và có trách nhiệm các nghĩa vụ công dân của mình.
Điều 15 trong Hiến pháp 2013 cho thấy:
Một là, quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Nghĩa là, công dân được
pháp luật trao các quyền thì phải thực hiện các nghĩa vụ tương ứng.
Hai là, mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. Nghĩa là, quyền của
mỗi người, công dân là quyền bất khả xâm phạm, mọi người phải có nghĩa vụ tôn trọng
quyền đó, nếu ai vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Ba là, công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.
Nghĩa là, công dân phải thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội, nếu không thực
hiện sẽ gánh lấy những chế tài tương ứng. Ví dụ như: Công dân trong độ tuổi pháp luật
quy định phải thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Bốn là, việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi
ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Điều này cũng có nghĩa
là, đề cao quyền con người, quyền công dân nhưng việc thực hiện chúng không được
xâm phạm tới lợi ích quan trọng hơn cũng như lợi ích của người khác.
c. Yêu cầu đối với các chủ thể liên quan
- Giải quyết đúng mối quan hệ quyền công dân gắn với nghĩa vụ công dân
Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là phát huy tối đa quyền làm chủ
của nhân dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì dân chủ không chỉ là mục tiêu,
mà còn là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Nhưng việc tôn
trọng, phát huy dân chủ của nhân dân phải đặt trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật,
mỗi người dân thực hiện đúng quyền công dân đồng thời phải có trách nhiệm làm tốt
nghĩa vụ công dân đối với xã hội và đất nước.   
Hỗ trợ người dân thực hiện đúng quyền công dân gắn với nghĩa vụ công dân, trước
hết các cấp chính quyền, cơ quan chức năng cần tôn trọng, bảo đảm và tạo điều kiện
thuận lợi để mỗi người dân có điều kiện thụ hưởng các quyền lợi hợp pháp, chính đáng
đã được Hiến pháp, pháp luật thừa nhận; đồng thời cần hướng dẫn, động viên, giáo dục,
tuyên truyền nhân dân đề cao trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ công dân đối với
xã hội và đất nước.
Mỗi người dân cần nhận thức sâu sắc rằng, quyền công dân chỉ được bảo đảm và
hiện diện trong thực tế khi đặt trong mối quan hệ hữu cơ với nghĩa vụ công dân, không
xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và các công dân khác.
Mình vì mọi người, thì mọi người mới vì mình. Do vậy, mỗi người dân cần chủ động tìm
hiểu, học tập để nắm vững những quyền lợi, nghĩa vụ cơ bản của mình. Các cơ quan nhà
nước và cơ quan báo chí cần chủ động cung cấp thông tin chính thống cho người dân,

19
tăng cường giải đáp chính sách, luật pháp để người dân có cơ hội tiếp cận, nắm vững các
quyền, nghĩa vụ công dân theo luật định.
- Tôn trọng dân chủ đi đôi với đề cao ý thức pháp luật
Khi đời sống xã hội ngày càng dân chủ thì người dân càng có nhiều cơ hội bày tỏ ý
kiến, nguyện vọng chính đáng của mình với các cấp chính quyền và cơ quan nhà nước. 
Trong một xã hội tôn trọng dân chủ và đề cao pháp quyền, chúng ta không thể chấp
nhận tình trạng dân chủ theo kiểu chưa hề đọc, chưa hề nghiên cứu các dự thảo luật mà
đã vội vàng phê phán, phản bác hay cố tình tạo ra nguyên cớ, chây ỳ không chịu chấp
nhận sự thật. Vì vậy, cùng với việc đề cao trách nhiệm của các cơ quan công quyền, cơ
quan truyền thông phải chủ động, tích cực, kiên trì tuyên truyền, giải thích, vận động
người dân thật sâu, rộng, đến từng người, từng gia đình thì chúng ta  cũng cần chú trọng
xây dựng văn hóa góp ý, văn hóa phản biện, văn hóa chấp hành pháp luật theo đúng quy
định của luật pháp. Sự hỗ trợ , đồng hành của cộng đồng là hết sức cần thiết, quan trọng,
nhưng bản thân từng người dân cũng phải nêu cao trách nhiệm công dân , tìm hiểu, học
tập, nắm vững chính sách, luật pháp, nắm vững nội dung, phương phát phản biện để thực
hiện, chấp hành cho tốt.
- Không để lòng yêu nước bị lợi dụng
Trước những vấn đề hệ trọng của đất nước, việc người dân bày tỏ quan điểm, đưa ra
ý kiến đóng góp của mình là cần thiết, chính đáng, thể hiện sự quan tâm , lòng yêu nước
rất đáng trân trọng. Chỉ đáng tiếc, trong khi đa số người dân đã thể hiện thái độ bình tĩnh,
đúng mực về tinh thần yêu nước,
Lòng yêu nước của nhân dân ta, như Bác Hồ từng khẳng định “Đó là một truyền
thống quý báu của ta”. Nhưng truyền thống quý báu đó chỉ thực sự phát huy tác dụng khi
mỗi người dân thể hiện lòng yêu nước đúng mực, đúng lúc, đúng chỗ; không có bất cứ
thái độ, cử chỉ, hành vi nào làm tổn thương đến hình ảnh đất nước, phương hại an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Biết sẻ chia với những khó khăn của đất nước, quan tâm đến những nỗi lo của chính
quyền đang phải gánh vác và cùng kiên nhẫn, chung sức, chung lòng tìm cách giải quyết
có hiệu quả bằng những việc làm thiết thực, ích nước, lợi nhà, đó chính là cách thể hiện
thái độ chính trị tích cực và lòng yêu nước chân chính của mỗi công dân để  góp phần
chăm lo lợi ích chung của nhân dân, của Tổ quốc.
d. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc
Vấn đề về quyền con người luôn được Đảng và Nhà nước ta nhất quán thực hiện, đây
là nội dung, mục tiêu xuyên suốt quá trình tiến hành cách mạng do Đảng lãnh đạo. Tìm hiểu
sự vận dụng của Đảng, Nhà nước ta trong việc giải quyết vấn đề quyền công dân không
tách rời nghĩa vụ công dân với các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, công dân là mục tiêu của cách mạng nước ta
Trên thực tế, ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, thay mặt Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công bố Tuyên ngôn độc lập
(2 - 9 -1945). Tuyên ngôn chỉ rõ: Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hoá
cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…. Tuyên ngôn không chỉ để khẳng
định Việt Nam, một quốc gia độc lập mà còn tuyên ngôn việc thực hiện quyền con người
là nhiệm vụ cao cả của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam.
20
Nhằm khẳng định quyền con người là mục tiêu nhất quán của cách mạng XHCN
nước ta, ngay bản Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà và tiếp đến các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992, 2013 đều đã Hiến định rất rõ ràng.
Từ đó, quyền con người luôn là giá trị được Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đồng
lòng, đồng sức, nêu cao ý chí quyết tâm bảo vệ và thực hiện.
Do nhất quán vấn đề quyền con người là khát vọng của nhân dân ta; là mục tiêu,
nhiệm vụ hướng tới của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, Kế thừa và phát huy những truyền
thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá
nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính về phẩm giá con
người . Điều đó cho thấy, Đảng, Nhà nước ta không chỉ thừa nhận, tôn trọng mà còn có trách
nhiệm bảo vệ những giá trị về quyền con người; luôn coi đó là một trong các mục tiêu lớn
của cách mạng nước ta.
Thứ hai, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và chủ nghĩa xã hội là điều kiện, tiền
đề để thực hiện quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân
 Chủ quyền quốc gia chính là điều kiện tiên quyết nhằm bảo đảm trên thực tế về
quyền công dân. Quyền công dân chỉ được thực thi đầy đủ và đảm bảo khi chủ quyền
quốc gia giữ vững. Mọi sự xâm phạm đến chủ quyền quốc gia chính là sự chà đạp lên
nhân quyền cũng như quyền con người của người dân quốc gia đó vì vậy quyền công dân
không tách rời nghĩa vụ công dân.
Như vậy, để giành quyền công dân, trước hết phải giành quyền tự do của mỗi công
dân. Có được điều đó, phải giành quyền tự do cho cả dân tộc, nhất là chủ quyền Quốc
gia. Chủ quyền Quốc gia chính là nhân quyền tập thể của nhân dân, vì vậy, chủ quyền
Quốc gia phải được tôn trọng và bảo vệ bằng pháp lý quốc tế. Hành vi xâm phạm đến chủ
quyền quốc gia chính là hành vi chà đạp lên quyền công dân. Nghĩa là nhân quyền không
thể cao hơn chủ quyền; công dân người bị xâm hại khi chủ quyền quốc gia bị xâm hại,
nền độc lập dân tộc bị ảnh hưởng.
 Thứ ba, bảo đảm quyền công dân gắn với trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của
quốc gia, dân tộc
Trên thực tế, công dân là giá trị chung, là sản phẩm của nhân loại sáng tạo nên trong
lịch sử chinh phục, cải tạo thế giới. Tuy nhiên, quyền công dân chỉ được thực hiện và bảo
đảm trong hoàn cảnh lịch sử - xã hội rất cụ thể, gắn với  điều kiện về kinh tế, chính trị,
văn hóa,… của mỗi quốc gia. Điều đó đặt ra, khi tiếp cận và xử lý vấn đề quyền công dân
đòi hỏi phải kết hợp hài hòa các chuẩn mực, nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế với
điều kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội, các giá trị văn hóa, tôn giáo, tín
ngưỡng, phong tục, tập quán của mỗi quốc gia và khu vực. Nhằm đảm bảo quyền con
người được thực hiện đi liền với trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của quốc gia, dân tộc,
Đảng ta đã kịp thời chỉ đạo nhà nước từng bước cụ thể hoá những giá trị về quyền con người,
nhất là quyền làm chủ xã hội của mọi công dân Việt Nam thành các đạo luật cơ bản để thực
hiện nghĩa vụ công dân. Bởi vì, các quyền và lợi ích cơ bản của con người nếu không được
pháp luật ghi nhận và bảo vệ thì không thể có bất cứ một quyền con người nào.
Thứ tư, quyền con người phải được bảo đảm bằng pháp luật, phải đủ cơ sở pháp lý
thực hiện
 Nhận thức rõ quyền con người là sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ công dân;
lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng. Nhưng phải có đủ cơ sở pháp lý, phải được quy
định rõ ràng bằng pháp luật một cách đồng bộ và minh bạch. Vì thế, ở nước ta các quyền
21
và lợi ích công dân, lợi ích cá nhân, lợi ích cộng đồng đã được Đảng và Nhà nước quy
định rất rõ ràng trong các bản Hiến pháp và văn bản pháp luật. Cương lĩnh bổ sung, phát
triển năm 2011 xác định: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền
công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công
dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ
công dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả
hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
Để thực hiện các quyền con người, không thể tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công
dân với nhà nước, cá nhân với xã hội trên nguyên tắc kỷ cương, bằng pháp luật. Thực
hiện quyền con người của mình, mọi công dân Việt Nam có quyền thực hiện quyền tự do
cá nhân khi pháp luật không cấm, nhưng không được xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác, của cộng đồng; nghiêm cấm mọi hành vi nguy hại đến an ninh quốc
gia và trật tự xã hội. Đây chính là cách giải quyết và thực hành vấn đề nhân quyền trong
thực tiễn. Nên, Hiến pháp (năm 2013) một lần nữa đã quy định rõ : “1) Quyền công dân
không tách rời nghĩa vụ công dân. 2) Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người
khác. 3) Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. 4) Việc
thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân
tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. 
Mặt khác, để quyền con người và nghĩa vụ công dân được bảo đảm và thực hiện
trên thực tế, không chỉ Hiến định, Nhà nước ta còn ban hành nhiều văn bản pháp luật
khác quy định rất cụ thể; đề ra và thực thi nhiều chính sách; luôn tích cực tham gia các
điều ước quốc tế về quyền con người. Vì vậy, ở nước ta những năm qua, thực tế thực hiện
vấn đề quyền con và nghĩa vụ công gắn liền nhiệm vụ xây dựng nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa -  “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Đồng thời còn
đóng góp vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại tiến bộ vì mục tiêu quyền con người.
Câu 9. Anh (chị) hãy nêu và phân tích ý nghĩa của những điểm mới trong chế định
“Quyền con người , quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” theo Hiến pháp năm
2013 so với chế định “Quyền con người , quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”
theo Hiến pháp năm 1992
Trả lời:
* Phân tích ý nghĩa của những điểm mới trong chế định “Quyền con người ,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” theo Hiến pháp năm 2013 so với chế định
“Quyền con người , quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” theo Hiến pháp năm
1992:
* Chế định “Quyền con người , quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” theo
Hiến pháp năm 2013
Để bảo đảm cho các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân có thể thực hiện được
trong thực tế, yếu tố đầu tiên và quyết định là khi quy định phải bảo đảm tính khả thi của
chúng. Khắc phục những nhược điểm của những bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp
năm 2013 đã gạt bỏ những quy định thiếu tính hiện thực, bổ sung những quy định phù
hợp với tình hình thực tế của xã hội. Để bảo đảm thực hiện các quyền con người và
quyền cơ bản của công dân, Hiến pháp năm 2013 quy định trách nhiệm của Nhà nước là
ban hành các văn bản pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người và mọi công dân
thực hiện tốt các quyền của mình.

22
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, được xây dựng
trên cơ sở cách tiếp cận quyền con người. Đây là cách tiếp cận dựa vào các tiêu chuẩn về
quyền con người để xác định kết quả và lấy các nguyên tắc về quyền con người làm điều
kiện, khuôn khổ cho quá trình đạt được và duy trì kết quả đó một cách bền vững. Theo
đó:
a) Các chủ thể quyền có quyền đòi hỏi được đáp ứng các quyền của họ;
b) Nhà nước và các chủ thể chịu trách nhiệm bảo đảm quyền có nghĩa vụ phải tôn
trọng, bảo vệ và thực hiện một cách công khai, minh bạch các quyền với sự tham gia của
các chủ thể quyền theo nguyên tắc không phân biệt đối xử;
c) Mọi sự xao nhãng hoặc vi phạm các quyền con người đều gắn với những trách
nhiệm như giải trình, bị phê phán hoặc những chế tài khác theo quy định của Hiến pháp
và pháp luật.
Cách tiếp cận này đã thấm khá sâu vào nội dung, hình thức diễn đạt trong Hiến
pháp 2013.
1. Chủ quyền của Nhân dân trong xây dựng và thi hành Hiến pháp 2013
Lời nói đầu của Hiến pháp 2013 đã quy định một điểm mới quan trọng là: "Nhân
dân Việt Nam xây dựng và thi hành Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Như vậy, Hiến pháp 2013 đã trang trọng khẳng định: Quyền
lập hiến là quyền của Nhân dân. Điều 2 khẳng định “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”, Nhân dân là chủ nhân của đất nước, tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân.
Để bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, so với Hiến pháp 1992,
Chương I Hiến pháp 2013 đã có những bổ sung sau:
- Bổ sung từ kiểm soát vào nguyên tắc: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp" (Điều 2). Nguyên tắc “kiểm soát” có ý nghĩa rất
quan trọng đối với việc hoàn thiện cơ chế hiến định để phòng, chống lạm dụng quyền lực
của bộ máy nhà nước trong việc bảo đảm chủ quyền của “Nhân dân”.
 - Bổ sung cụm từ “Ðảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự
giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”,
đồng thời khẳng định không chỉ các tổ chức của Ðảng mà cả các đảng viên cũng phải
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật (Ðiều 4). Những bổ sung này đã làm
rõ hơn bản chất, vai trò và trách nhiệm của Ðảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh
đạo nhà nước và xã hội theo nguyên tắc: Gắn bó mật thiết, phục vụ, chịu sự giám sát và
chịu trách nhiệm trước Nhân dân Việt Nam.
- Hiến pháp 1992 chỉ quy định “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua
Quốc hội và Hội đồng Nhân dân”, tức là chỉ thông qua hình thức dân chủ đại diện. Hiến
pháp năm 2013 bổ sung: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng hình thức dân
chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các
cơ quan khác của Nhà nước” (Ðiều 6).
- Bổ sung quy định “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp
luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”
(Điều 8). Quy định bổ sung này làm rõ hơn và củng cố các nguyên tắc của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
23
- Bổ sung quy định về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
(MTTQVN) (Ðiều 9). Quy định này thể chế tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ XI, trong đó khẳng định vai trò giám sát và phản biện xã hội của MTTQVN, tạo cơ
sở hiến định để bảo đảm thực hiện vai trò quan trọng này của hệ thống MTTQ.
2. Chủ thể và nội dung quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Một là, đã khắc phục được sự nhầm lẫn giữa quyền con người với quyền công dân
Hiến pháp 2013 không còn đồng nhất quyền con người và quyền công dân (như ở
Điều 50 Hiến pháp 1992), mà đã phân biệt và sử dụng hai thuật ngữ mọi người và công
dân cho việc chế định các quyền con người và quyền công dân.
Hai là, mở rộng nội hàm chủ thể quyền
Trong các bản Hiến pháp trước đây, đặc biệt là Hiến pháp 1992, nội hàm của quyền
con người chỉ chủ yếu được dừng lại ở khái niệm chủ thể là “công dân”, mà không phải
là “mọi người”. Trong Hiến pháp 2013, các chủ thể quyền được mở rộng, từ việc chỉ
thuộc về “công dân” đến “mọi người”, “tổ chức” hay nhóm xã hội và cộng đồng, đặc biệt
những nhóm dễ bị tổn thương (trẻ em, thanh niên, người cao tuổi).
Ba là, mở rộng nội dung quyền
Hiến pháp năm 2013 đã chính thức nâng tầm chế định quyền con người, quyền công
dân thành một chương. So với hiến pháp của nhiều quốc gia, Hiến pháp 2013 thuộc vào
những hiến pháp ghi nhận một số lượng cao về quyền con người. Hiến pháp mới giành
36/120 điều ở chương II cho việc chế định trực tiếp các quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân. Ngoài ra còn dành một số điều chế định sự bảo hộ hay bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản hợp pháp, sử dụng đất, lao động và việc làm (các
điều 51, 54, 57). Việc sắp xếp quyền con người phù hợp với việc sắp xếp các nhóm
quyền của luật nhân quyền quốc tế là quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.
Hiến pháp 2013 quy định rõ hơn và tách thành điều riêng hầu hết các quyền đã
được ghi nhận trong Hiến pháp 1992, bao gồm: bình đẳng trước pháp luật (Điều 16); cấm
tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục (Điều 20 khoản 1); bảo vệ đời tư (Điều
21, 22); tiếp cận thông tin (Điều 25); tham gia quản lý nhà nước và xã hội (Điều 28); bình
đẳng giới (Điều 26); bỏ phiếu trong trưng cầu dân ý (Điều 29); xét xử công bằng (Điều
31); tư hữu tài sản (Điều 32); an sinh xã hội (Điều 34); việc làm (Điều 35).
Đặc biệt, Điều 20 và 21 của Hiến pháp 2013 quy định rõ đời sống riêng tư, bí mật
cá nhân, bí mật gia đình, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân và các hình
thức trao đổi thông tin riêng tư khác; do đó đã mở rộng chủ thể và nội dung quyền được
bảo vệ về đời tư so với Điều 73 của Hiến pháp 1992 chỉ quy định về quyền bí mật thư tín,
điện thoại, điện tín. Nếu Hiến pháp 1992, Điều 63 chỉ quy định nghiêm cấm mọi hành vi
phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ, thì Hiến pháp 2013 quy định
“nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” (Điều 26). Tức là đã thay đổi quan niệm và cách
tiếp cận về bình đẳng giới, từ chỉ bình đẳng với giới nữ sang bình đẳng với cả giới nam
và giới nữ. Chủ thể và nội dung quyền bình đẳng về giới, do vậy, được mở rộng và làm
sâu sắc hơn.
Không chỉ củng cố các quyền đã được hiến định trong Hiến pháp 1992, Hiến pháp
2013 còn chế định một số quyền mới, như: quyền sống (Điều 19); Các quyền về khoa
học, văn hóa (Điều 40 và 41); quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn

24
ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42); quyền sống trong môi trường trong lành (Điều 43); quyền
của công dân không bị trục xuất, giao nộp cho nước khác (Điều 17 khoản 2).
Bốn là, quy định về hạn chế quyền
Hiến pháp 2013, Khoản 2 Điều 14 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ
có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng,
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.” Việc
quy định về hạn chế quyền là cần thiết để đảm bảo quyền con người, quyền công dân một
cách minh bạch theo luật định, nhất là phòng ngừa sự cắt xén hay hạn chế các quyền này
một cách tùy tiện từ phía các cơ quan nhà nước.
Năm là, quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người, mỗi công dân
Hiến pháp 2013 khẳng định: “Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác.
Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia,
dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” (Điều 15).
3. Thể chế Hiến pháp và pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền công dân
Một là, công dân và mọi người được hưởng các quyền con người một cách mặc
nhiên và nhà nước có nghĩa vụ công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện các
quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp và pháp luật
Trong Hiến pháp 1992, chẳng hạn, Điều 51 Hiến pháp 1992: "Quyền và nghĩa vụ
của công dân do Hiến pháp và luật quy định". Đúng là để được bảo vệ và thúc đẩy, các
quyền con người cần phải được ghi nhận trong hiến pháp và pháp luật; nhưng quy định
kể trên đã gây hiểu nhầm là: Hiến pháp và pháp luật (hay nhà nước) là những chủ thể sản
sinh ra các quyền con người. Quyền con người phải do và chỉ có thể do Hiến pháp và
pháp luật (hay nhà nước) xác định thì mới có ý nghĩa thực chất, nếu không sẽ không được
thừa nhận và áp dụng. Cách hiểu như thế không phù hợp với nhận thức chung về quyền
con người trên thế giới. Theo quan điểm của cộng đồng quốc tế, mọi thành viên của nhân
loại khi sinh ra đã mặc nhiên có tư cách chủ thể của các quyền con người. Các nhà nước
chỉ có thể thừa nhận (bằng Hiến pháp và pháp luật) các quyền đó là những giá trị vốn có
của mọi cá nhân mà Nhà nước có nghĩa vụ công nhân, tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy.
Kế thừa Hiến pháp 1946 và tinh hoa tư tưởng nhân loại, trong Hiến pháp 2013,
khoản 1 Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền con
người, quyền công dân ... được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
pháp luật”. Quy định này đánh dấu bước phát triển mới về địa vị pháp lý của con người,
của công dân trong tiến trình lập hiến ở Việt Nam.
Hai là, việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân gắn bó mật thiết với việc
bảo đảm chế độ chính trị
Trong Hiến pháp 2013, chương chế định về quyền con người, quyền công dân được
đưa lên chương II, ngay sau chương chế định về chế độ chính trị (so với vị trí thứ 5 trong
Hiến pháp 1992). Đây không chỉ đơn thuần là kỹ thuật lập hiến, mà phản ánh sự thay đổi
trong nhận thức lý luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bằng cách
đó đã khẳng định: nhà nước được lập ra để bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người,
quyền công dân. Và việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân gắn bó mật thiết với
việc bảo đảm chế độ chính trị (ở chương I).
Ba là, thể chế kinh tế, xã hội và văn hóa để bảo đảm quyền con người, quyền công
dân
25
Về thể chế kinh tế, xã hội và văn hóa, Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định trách
nhiệm của nhà nước và xã hội trong lĩnh vực lao động, việc làm, an sinh xã hội, y tế, bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa, phát triển con người (các Điều từ 57- 60); đồng thời
bổ sung quy định về trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động
tiến bộ, hài hòa và ổn định (Điều 57).
- Về giáo dục và khoa học, công nghệ, cùng với việc chế định quyền trong lĩnh vực
này, Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu, đồng thời xác định những mục tiêu và định hướng chính
trong việc phát triển giáo dục và khoa học, công nghệ (các Điều 61,62).
- Về môi trường, cùng với việc chế định quyền trong lĩnh vực này, Hiến pháp 2013
nêu rõ nhà nước có chính sách để bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền
vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên
tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Bốn là, thể chế tư pháp để bảo đảm quyền con người, quyền công dân
Hiến pháp 1992, Điều 71 chỉ quy định về cấm truy bức, nhục hình, xúc phạm danh
dự, nhân phẩm của công dân. Đến Hiến pháp 2013, ở Điều 20, lần đầu tiên trong lịch sử
hiến pháp nước ta, đã chế định về cấm chống tra tấn nói riêng và cấm bất kỳ hình thức
bạo lực, đối xử, xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của tất cả
mọi người. Quy định này cụ thể, rõ ràng và rộng hơn so với quy định cũ, cả về hành vi bị
cấm, cả về chủ thế được bảo vệ.
Hiến pháp 1992, Điều 72 quy định quyền công dân trong hoạt động tố tụng chỉ
gồm: suy đoán vô tội; bồi thường thiệt hại vật chất và phục hồi danh dự cho người bị oan
sai trong tố tụng; xử lý nghiêm minh người thi hành tố tụng gây oan sai. Trong khi Hiến
pháp 2013 bổ sung: xét xử kịp thời, công bằng, công khai; không bị kết án hai lần vì một
tội phạm; quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa (Điều 30, 31). Quy
định mới này đã mở rộng chủ thể và phạm vi quyền đòi bồi thường thiệt hại; đồng thời
buộc các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải công bằng và khách quan trong việc tìm
chứng cứ, và coi trọng cả chứng cử buộc tội, cả chứng cứ gỡ tội.
Trong khi Hiến pháp 1992 chỉ quy định “công dân có quyền được thông tin” (Điều
69), thì Hiến pháp 2013, Điều 25, thay chữ “được” bằng cụm từ “tiếp cận”. Nhờ quyền
tiếp cận thông tin, mọi công dân có thể tiếp cận thông tin, cả về các quyền thực định cũng
như về hoạt động tư pháp, để thụ hưởng đầy đủ và bảo vệ các quyền của mình theo Hiến
pháp và pháp luật.
Năm là, xác định đầy đủ nghĩa vụ của nhà nước trong việc bảo đảm quyền con
người, quyền công dân
Trong khi Điều 50 Hiến pháp 1992 mới chỉ ghi nhận nghĩa vụ tôn trọng thì Hiến
pháp 2013 ghi nhận cả bốn nghĩa vụ của nhà nước về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm (thực hiện) quyền con người (trong các Điều 3 và 14) tương tự như sự xác định ở
Lời mở đầu của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (năm 1948).
Hiến pháp 2013, tiếp tục tái khẳng định quyền tham gia quản lý nhà nước, và bổ
sung: Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công
khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân. Việc bổ
sung này đã ràng buộc nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền

26
tham gia quản lý nhà nước và xã hội của người dân. Qua đó, bảo đảm quyền này của
người dân được thực hiện trong thực tế.
Sáu là, chế định những công cụ hữu hiệu và quy định việc thiết lập cơ chế bảo vệ
Hiến pháp, trong đó có các quyền con người đã được hiến định
Hiến pháp 2013 đã chế định những công cụ hữu hiệu cho việc bảo đảm quyền con
người, quyền công dân. Đó là Hội đồng Bầu cử Quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, và sửa
đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp. Khoản 2 Điều 119 khẳng
định: “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”. Đây là quy định có tính nguyên tắc nhằm
thiết lập cơ chế bảo vệ Hiến pháp, trong đó có các quyền con người, quyền công dân, đã
được hiến định, một cách hiệu quả và ở mức cao nhất .
Yêu cầu đặt ra hiện nay là thể chế hóa các quyền hiến định đồng thời rà soát, sửa
đổi các văn bản pháp luật hiện hành để thống nhất hệ thống pháp luật Việt Nam theo và
trên cơ sở Hiến pháp 2013.
Hiến pháp năm 2013 khắc phục đáng kể cách diễn đạt thể hiện tư tưởng ban phát
quyền cho con người bằng cách thay đổi cách diễn đạt và văn phong pháp lý. Nhiều cụm
từ “nhà nước bảo đảm”, “nhà nước tạo điều kiện”, “nhà nước khuyến khích”… đã được
thay bằng “mọi người có quyền”, “công dân có quyền”…Hiến pháp năm 2013 cũng lược
bỏ một khối lượng đáng kể các cụm từ “theo quy định của pháp luật”, “theo quy định của
luật”…điều này thể hiện tư duy tiến bộ trong việc thừa nhận khả năng áp dụng trực tiếp
các quy phạm Hiến pháp, đồng thời ghi nhận sự ràng buộc trách nhiệm của nhà nước đối
với việc bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền con người, trách nhiệm pháp lý này đã được
xác định rõ ràng trong Luật nhân quyền quốc tế.

27

You might also like