You are on page 1of 46

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH


----------------------

NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

GIẢNG VIÊN: TS. NGUYỄN THANH HẢI

NHÓM 6
Stt Họ tên MSSV
1 Đỗ Nguyễn Thuý An 2253801015002
2 Nguyễn Vũ Thảo Anh 2253801015034
3 Võ Tuyết Anh 2253801015039
4 Nguyễn Ngọc Mỹ Duyên 2253801015077
5 Quách Khánh Trân 2253801015336

NĂM HỌC 2022 - 2023


MỤC LỤC
Chương 1. Tính tất yếu của việc xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam........................................................................................................................1
1.1. Quan niệm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam............................1
1.2. Những thuận lợi trong việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam....................................................................................................................2
1.2.1. Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc...............................................................2
1.2.2. Tính dân chủ ngày càng được mở rộng................................................................3
1.2.3. Những đổi mới quan trọng của Quốc hội tập trung vào thực hiện chức năng lập
pháp. 3
1.2.4. Cơ cấu và hoạt động của bộ máy tư pháp, hành pháp có nhiều chuyển biến tích
cực 3
1.2.5. Hoạt động của mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị...................4
1.2.6. Xã hội ngày càng có hiệu quả và thu hút được nhiều tầng lớp nhân dân tham gia
4
1.3. Những khó khăn, thách thức trong việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam...................................................................................................4
1.3.1. Những khó khăn, thách thức.................................................................................4
1.3.2. Nguyên nhân.........................................................................................................5
1.4. Cơ sở xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam............................5
1.5. Mục tiêu của Đảng trong việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam....................................................................................................................5
1.5.1. Mục tiêu cụ thể......................................................................................................6
1.5.2. Mục tiêu trọng tâm................................................................................................7
1.6. Một số giải pháp đưa ra để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.......................................................................................................................7
Chương 2. Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.........................8
2.1. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam..8
2.2. Bản chất xã hội của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.........................9
Chương 3. Những chức năng của Nhà nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam...........11
3.1. Chức năng đối nội của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam..................11
3.1.1. Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế.................................................................11
3.1.2. Chức năng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.............................12
3.1.3. Chức năng tổ chức quản lý văn hoá giáo dục, khoa học và công nghệ..............13
3.1.4. Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích
cơ bản của công dân..........................................................................................................14
3.2. Chức năng đối ngoại..................................................................................................15
3.2.1. Chức năng bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.......................................................15
3.2.2. Chức năng mở rộng hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên
cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi; ủng hộ và góp phần tích cực vào phong trào đấu
tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.....................17
Chương 4. So sánh đặc trưng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam với đặc trưng trong mô
hình nhà nước pháp quyền khác trên thế giới..........................................................................19
4.1. Đặc trưng đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam:...........19
4.2. Đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam so với đặc trưng mô
hình nhà nước pháp quyền khác trên thế giới.......................................................................22
4.2.1. Điểm tương đồng................................................................................................22
4.2.2. Điểm khác biệt....................................................................................................23
Chương 5. Xây dựng và phát huy nền dân chủ ở việt nam hiện nay....................................27
5.1. Khái niệm dân chủ......................................................................................................27
5.2. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, vai trò của dân chủ đối với nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay....................................................................................28
Chương 6. Liên hệ với Nhà nước pháp quyền......................................................................28
6.1. Vai trò chung của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa........................................28
6.2. Vai trò của nhà nước pháp quyền đối với các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội.......31
6.2.1. Đối với lĩnh vực chính trị....................................................................................31
6.2.2. Đối với lĩnh vực kinh tế......................................................................................31
6.2.3. Đối với lĩnh vực xã hội.......................................................................................33
6.2.4. Sự đặc thù của nhà nước pháp quyền ở mỗi quốc gia.........................................33
Chương 7. Liên hệ với việc phát huy vai trò của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt
nam đối với các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội...................................................................35
7.1. Đối với lĩnh vực kinh tế.............................................................................................35
7.2. Đối với lĩnh vực chính trị...........................................................................................37
7.3. Đối với lĩnh vực xã hội...............................................................................................39
Chương 1. Tính tất yếu của việc xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Trong bối cảnh quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, tính tất yếu
của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Chủ nghĩa xã hội Việt Nam được quy
định bởi đặc điểm của thời đại. Quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam
không phải từ một nước tư bản phát triển mà từ một nước thuộc địa, nửa phong
kiến, bỏ qua chế độ tư bản, xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân rồi tiến đến nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn thể hiện ở chỗ Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa là hình thức tối ưu để thực hiện quyền lực nhà nước
thuộc nhân dân. Vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là phương thức tổ
chức dân chủ, quyền lực nhà nước và pháp luật là cơ sở cho việc thực hiện quyền
của các chủ thể trong xã hội. Chính vì vậy, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống chính trị. Thể
chế hoá đầy đủ và thực hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế Nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở
cơ sở.
1.1. Quan niệm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nhà nước pháp quyền được hiểu là nhà nước thượng tôn pháp luật, vấn đề
phúc lợi luôn đặt lên hàng đầu. Từ đó, tạo điều kiện cho cá nhân được tự do bình
đẳng, phát huy được thế mạnh và tài năng của chính mình. Trong hoạt động của
nhà nước pháp quyền có sự phân quyền và dựa trên nguyên tắc bình đẳng của các
thế lực, giai cấp và tầng lớp trong xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay,“nhà nước pháp quyền được hiểu là một kiểu nhà
nước mà ở đó, tất cả mọi công dân đều được giáo dục pháp luật và phải hiểu
biết pháp luật, tuân thủ pháp luật, pháp luật phải đảm bảo tính nghiêm minh;
trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, phải có sự phân công, phối hợp,
kiểm soát lẫn nhau, tất cả vì mục tiêu phục vụ nhân dân.1”
Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân;
“lấy con người là trung tâm”, “thượng tôn Hiến pháp và pháp luật”. Nhà nước
công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; tổ
chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp

1
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật (2021), tr.156.
1
và pháp luật; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp và nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; tuân thủ Hiến
chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, là bạn, là
đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Qua đó, tạo
động lực mới phát triển nhanh và bền vững đất nước, vì phồn vinh và hạnh phúc
của Nhân dân, vì tương lai tươi sáng của dân tộc Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã đề ra chủ trương “Xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân”, Đảng đã xác định Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật, và các cá nhân tổ chức trong xã hội phải tuân
thủ theo Hiến pháp và pháp luật. Hơn nữa, để nhấn mạnh chủ trương này thì
trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã làm rõ hơn về Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” 2. Cùng với đó, trong Đại hội XIII
của Đảng cũng đã nhấn mạnh: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà
nước”3. Từ đó, thể hiện vai trò quan trọng của Đảng trong việc xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.2. Những thuận lợi trong việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.2.1. Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc
Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm chủ đạo trong
công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Gìn giữ và phát huy các mối quan hệ lớn giữa Ðảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý và Nhân dân làm chủ; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa thực
hành dân chủ xã hội chủ nghĩa và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã
hội.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng là
nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị; luôn phải đặt trong tổng thể
công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh;

2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia
Sự thật, 2016, tr.171.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, 2021, tr.175.
2
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động sự vào cuộc của cả hệ
thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, kiên trì, hiệu
quả; thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.4
1.2.2. Tính dân chủ ngày càng được mở rộng
Lợi ích của người dân luôn phải được đặt lên hàng đầu. Phát huy quyền làm
chủ của Nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, trong đó có sự thống nhất, phối hợp chặt
chẽ của cơ quan nhà nước trong các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới
sự giám sát của Nhân dân.
1.2.3. Những đổi mới quan trọng của Quốc hội tập trung vào thực hiện chức
năng lập pháp.
Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ
thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội
bằng Hiến pháp và pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã
hội chủ nghĩa; thể chế hóa kịp thời, đầy đủ và tổ chức thực hiện hiệu quả chủ
trương, đường lối của Ðảng; lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và
động lực phát triển đất nước; Nhà nước tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân.
1.2.4. Cơ cấu và hoạt động của bộ máy tư pháp, hành pháp có nhiều chuyển biến
tích cực
Bảo đảm tổng thể, đồng bộ, liên thông giữa đổi mới lập pháp, cải cách hành
chính, cải cách tư pháp; kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát
triển; tiến hành khẩn trương, nghiêm minh, nhất quán, có trọng tâm, trọng điểm
và lộ trình, bước đi vững chắc. Những vấn đề thực tiễn đòi hỏi, đã rõ, được thực
tiễn chứng minh là đúng, có sự thống nhất cao thì kiên quyết thực hiện; những
vấn đề chưa rõ, còn nhiều ý kiến khác nhau thì tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực
tiễn, thực hiện thí điểm khi cơ quan có thẩm quyền cho phép; những chủ trương
đã thực hiện, nhưng không phù hợp thì nghiên cứu điều chỉnh, sửa đổi kịp thời.

4
Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
trong giai đoạn mới, ngày 9/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII
về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn
mới.
3
1.2.5. Hoạt động của mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị.
Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
từng bước được đổi mới. Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam không ngừng được hoàn thiện, vận hành theo cơ chế "Ðảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân làm chủ", góp phần quan trọng vào những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2.6. Xã hội ngày càng có hiệu quả và thu hút được nhiều tầng lớp nhân dân
tham gia
Quyền con người, quyền công dân theo Hiến định tiếp tục được cụ thể hóa
bằng pháp luật và thực hiện tốt hơn trên thực tế; dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện được tăng cường. Bám sát thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời
đại, kế thừa những thành tựu đã đạt được, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc
tế phù hợp với Việt Nam; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức
mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân
tộc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, an
ninh quốc gia, chế độ xã hội chủ nghĩa.
1.3. Những khó khăn, thách thức trong việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.3.1. Những khó khăn, thách thức
Bên cạnh những thuận lợi thì công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn còn những hạn chế, bất cập, có mặt chưa đáp ứng
yêu cầu phát triển, quản lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới.
Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn, chậm
đổi mới trong công tác xây dựng và quản lý đất nước.
Quyền lực nhà nước chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước chưa được hoàn thiện tối ưu. Biểu hiện là Quốc hội còn lúng túng
trong việc thực hiện chức năng giám sát. Bộ máy quản lý nhà nước các cấp, nhất
là ở cơ sở còn yếu kém. Ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ,
công chức, đảng viên và Nhân dân chưa nghiêm. Do vậy, tình trạng nhũng nhiễu,
cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận công chức vẫn còn diễn ra gây ảnh
hưởng đến công tác xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền với tinh thần thượng
tôn pháp luật được đặt lên hàng đầu.
Mô hình tổ chức chính quyền địa phương còn những điểm bất hợp lý, cải
cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng được kì vọng do Đảng đề ra

4
đúng với nhu cầu phát triển đất nước và xã hội. Quyền làm chủ của Nhân dân,
quyền con người, quyền công dân chưa được thực hiện và phát huy đúng với mục
đích vẫn còn tình trạng “không lắng nghe tiếng nói của người dân” xử lý nhiều
vụ việc chưa thỏa đáng.
1.3.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập nêu trên chủ yếu là do: Việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vấn đề lớn, phức tạp,
lâu dài; công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, hoàn thiện lý luận chưa được
quan tâm đúng mức; quyết tâm chính trị, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số
cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền trong thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ về
xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa
tương xứng với yêu cầu đặt ra.5
1.4. Cơ sở xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thứ nhất, cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, cơ sở xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là khối
đại đoàn kết toàn dân tộc
Thứ ba, tính nhất nguyên chính trị và sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất
cầm quyền tạo khả năng đồng thuận xã hội, tăng cường khả năng hợp tác và giúp
đỡ lẫn nhau giữa các giai tầng, các cộng đồng dân cư và các dân tộc.
1.5. Mục tiêu của Đảng trong việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ
thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn
Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người,
quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch,
phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp,
pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực
sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu

5
Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
trong giai đoạn mới, ngày 9/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII
về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn
mới.

5
cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập
cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045.6
1.5.1. Mục tiêu cụ thể
Hoàn thiện cơ bản các cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, bảo
đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Thượng tôn Hiến pháp và pháp
luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội.
Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống
nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho
đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật
nghiêm minh, nhất quán.
Hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, bảo đảm
quyền lực nhà nước là thống nhất, được kiểm soát hiệu quả.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội;
bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ
theo quy định của Hiến pháp.
Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân
dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công
khai, minh bạch; bảo đảm Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất,
thực hiện quyền hành pháp, cơ quan chấp hành của Quốc hội; phân cấp, phân
quyền hợp lý giữa Trung ương và địa phương; cơ bản hoàn thiện tổ chức bộ máy
chính quyền địa phương.
Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại,
công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo
vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ
chức, cá nhân.
Tổ chức bộ máy nhà nước cơ bản tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, chuyên nghiệp,
liêm chính, chí công, vô tư.

6
Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
trong giai đoạn mới, ngày 9/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII
về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn
mới.

6
1.5.2. Mục tiêu trọng tâm
Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm
minh, nhất quán; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực pháp luật.
Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường phân
cấp, phân quyền, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức, cá
nhân trong bộ máy nhà nước đi đôi với nâng cao năng lực thực thi; xây dựng tổ
chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Ðẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm
quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
1.6. Một số giải pháp đưa ra để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thứ nhất, để bộ máy hành chính nhà nước được thực hiện mọt cách hiệu
quả thì cần tinh giản và gọn nhẹ tổ chức bộ máy nhà nước. Để bảo đảm tính phục
vụ, bộ máy hành chính nhà nước nhất thiết phải thiết kế lại theo hướng tinh giản,
gọn nhẹ nhằm giảm chi tiêu công, năng động, linh hoạt đáp ứng quản trị rủi ro
trong bối cảnh kinh tế - xã hội luôn biến đổi. Đảm bảo cho công tác tổ chức, cán
bộ được tập trung, một đầu mối, dễ kiểm soát, khắc phục những sai phạm, tiêu
cực.
Thứ hai, trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ của cơ quan hành
chính nhà nước luôn phải công khai và minh bạch. Bên cạnh trách nhiệm giải
trình nội bộ, cần tăng cường trách nhiệm giải trình với bên ngoài nhằm bảo đảm
sự kiểm soát từ bên ngoài đối với chất lượng cung ứng các dịch vụ công. Ngoài
ra, phải có cơ chế quy trách nhiệm cá nhân cho cán bộ, công chức, viên chức
trong quá trình thực thi công vụ, đồng thời cá biệt hoá trách nhiệm của người
đứng đầu các cơ quan hành chính.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hành chính nhà
nước chuyên nghiệp, có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự
phát triển đất nước. “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công tác cán bộ là
then chốt của then chốt”, vì thế, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
hành chính nhà nước “vừa hồng, vừa chuyên” là nhiệm vụ thường trực hiện nay.
Qua đó tạo động lực cho đội ngũ cán bộ, công chức thực sự sáng tạo, dám nghĩ,
dám làm, vì dân, vì nước, vì sự phồn vinh của dân tộc.

7
Thứ tư, tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải thiện chế độ, chính
sách, đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo,
phục vụ phát triển. Thực hiện hài hoà giữa khen thưởng, đãi ngộ hấp dẫn, cạnh
tranh và kỷ luật nghiêm minh, kịp thời nhằm thu hút những người có tài, đức vào
làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước, đồng thời sàng lọc, thay thế kịp
thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, kỷ luật, đạo
đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, không còn uy tín với nhân dân.
Thứ năm, quyết liệt đẩy mạnh xây dựng Chính phủ điện tử, từng bước
chuyển sang Chính phủ số đáp ứng kịp thời quá trình chuyển đổi số quốc gia.
Chính phủ chỉ đạo quyết liệt các bộ ngành, các địa phương triển khai các biện
pháp nhằm xây dựng hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông đồng bộ;
hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu ngành, cơ sở dữ liệu địa phương
đồng bộ liên thông; thực hiện phổ biến các dịch công trực tuyến cấp độ 3, 4 và
dịch vụ công quốc gia; giảm tối đa việc giải quyết thủ tục hành chính theo hình
thức thủ công (trừ vùng sâu, vùng xa không đảm bảo về hạ tầng công nghệ thông
tin, viễn thông hoặc những thủ tục hành chính đòi hỏi tính bảo mật cao).
Tóm lại, trong xã hội đương đại, xu hướng chuyển đổi từ mô hình “quản
lý”, “cai trị” sang mô hình “quản trị”, “phục vụ” ngày càng phổ biến trong khu
vực công, phù hợp với yêu cầu dân chủ hoá đời sống kinh tế - xã hội. Vì thế, xây
dựng nền hành chính phục vụ hoàn toàn phù hợp với xu hướng của thời đại để
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân.7
Chương 2. Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức. 8
2.1. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
Bản chất giai cấp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện
bản chất của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, cách
7
PGS. TS. Trương Hồ Hải, Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: 5 yêu cầu cơ
bản để xây dựng nền hành chính phục vụ” https://moha.gov.vn/kstthc/baocao/xay-dung-va-hoan-
thien-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-5-yeu-cau-co-ban-de-xay-dung-nen-hanh-
chinh-phuc-vu-46459.html
8
Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam 2013
8
mạng nhất, phấn đấu vì nhân dân lao động và toàn xã hội khi luôn là “lực lượng đi
đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” 9; “lực lượng nòng cốt trong liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo
của Đảng”.10
Đồng thời bản chất giai cấp công nhân còn thể hiện ở tính tiên phong và sự lãnh
đạo của giai cấp này xuyên suốt tiến trình lịch sử. Giai cấp công nhân luôn là lực
lượng tiên phong của cách mạng Việt Nam, giữ vai trò quan trọng trong công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước, giữ vai trò lãnh đạo và nòng cốt trong liên minh công
nông.
Để có được đất nước Việt Nam độc lập và hoà bình như ngày nay, dân tộc ta đã
phải trải qua biết bao cuộc cách mạng dai dẳng và tàn khốc. Để rồi cuối cùng, cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công mở ra bước ngoặc vĩ đại trong lịch sử dân tộc
Việt Nam, chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, kết
thúc hơn 80 năm Nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít. Từ đây, đất nước,
xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Và thực tế lịch sử đã chứng minh, sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Và đứng sau sự lãnh đạo đúng đắn ấy của Đảng chính là vai trò lịch sử không thể thay
thế của giai cấp công nhân khi “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam”.11 Vì thế có thể khẳng định rằng: trong tiến trình lịch sử Việt Nam, giai cấp công
nhân luôn là lực lượng tiên phong của cách mạng Việt Nam, luôn giữ vai trò, vị trí
trung tâm, quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
2.2. Bản chất xã hội của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Bản chất xã hội của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện qua
tính dân tộc, tính nhân dân và tính thời đại. Trong đó, tính nhân dân chính là yếu tố cốt
lõi xuyên suốt quá trình hình thành và phát triển của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, đồng thời chính là yếu tố trực tiếp làm nên nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.

9
Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2008, tr.44
10
Tlđd (9) tr.44
11
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011), https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-
xi/cuong-linh-xay-dung-dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-bo-sung-phat-trien-nam-
2011-1528
9
Trước hết, chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn nhấn mạnh vai trò làm chủ của Nhân
dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Người đã khẳng định: “Nước ta là
một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ”.12 Với chủ tịch Hồ Chí Minh,
Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân uỷ quyền cho bộ
máy nhà nước thực hiện. Nhà nước là để phục vụ lợi ích của nhân dân chứ không phải
“đè đầu cưỡi cổ” nhân dân. Nói cách khác, Nhà nước ấy phải là Nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn cho rằng nhân dân là nguồn sức mạnh của
Nhà nước, là nguồn trí tuệ của Nhà nước, là nguồn sáng kiến vô tận, nhà nước có chức
năng khơi nguồn, phát hiện, tiếp thu và hoàn thiện các sáng kiến của nhân dân để xây
dựng chính sách và luật pháp. Bởi qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu tình hình các
nước lúc bấy giờ, chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy: “Kinh nghiệm trong nước và các
nước chứng tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn
mấy cũng làm được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải
quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi,
những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”13.
Tóm lại, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là:
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”14
Trên tinh thần kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn thấm nhuần và hết sức coi trọng việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng
Đảng. 15 Trong suốt quá trình phát triển, Đảng ta đã và đang quán triệt sâu sắc quan
điểm “dân là gốc”, “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc
sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ

12
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, NxbCTQG, H,2000, tr.515
13
Sđd (12), tập 6, tr.192
14
Sđd (12), tập 6, tr.232
15
Nguyễn Viết Thông, “Tạp chí cộng sản, phát huy vai trò của nhân dân và dựa vào nhân dân để xây
dựng Đảng”, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/825039/
phat-huy-vai-tro-cua-nhan-dan-va-dua-vao-nhan-dan-de-xay-dung-dang.aspx
10
mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no
của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân
đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”.16
Đồng thời, tính Nhân dân của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được khẳng định rất rõ ràng qua Hiến pháp Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam: Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; tất cả quyền lực Nhà
nước thuộc về Nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước qua quyền bầu cử
Quốc hội và Hội đồng nhân dân, sử dụng quyền lực chủ yếu qua Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp. Ngoài ra Nhân dân còn thực hiện quyền lực Nhà nước bằng các hình
thức giám sát, kiểm tra, khiếu nại hoạt động của các cơ quan nhà nước...
Chương 3. Những chức năng của Nhà nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam
Sự phân chia những chức năng của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
nam chỉ mang tính chất tương đối. Nhưng nhìn chung Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã và đang thực hiện được những chức năng thống trị chính trị, chức
năng xã hội, chức năng đối nội, chức năng đối ngoại. Nhưng ở đây chúng tôi sẽ nhắc
đến hai chức năng đối nội và đối ngoại. Bởi vì việc Nhà nước thực hiện những chức
năng đối nội và chức năng đối ngoại cũng đồng thời với việc thực hiện những chức
năng thống trị chính trị và chức năng xã hội hay ngược lại.
3.1. Chức năng đối nội của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chức năng đối nội của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thực
hiện qua những chức năng khác nhau dưới đây.
3.1.1. Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế
Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước là sự tác động có tổ chức,
bằng pháp luật và thông qua hệ thống các chính sách với các công cụ quản lý kinh tế
lên nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế đất nước, trên cơ sở sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước trong điều kiện mở cửa và hội nhập
kinh tế quốc tế.17
Đây là một chức năng cơ bản và đặc thù của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vì trong
chủ nghĩa xã hội, nhà nước không chỉ là tổ chức của quyền lực chính trị, mà còn là chủ
sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu trực tiếp tổ chức và quản lý nên kinh tế đất nước. 18
16
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,
tr.96-97
17
Chuyên đề 19 quản lý nhà nước về kinh tế, tài chính, Tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên, Bộ nội
vụ, https://dtbd.moha.gov.vn/uploads/resources/admin/files/CD11-20/CS_TLBD_Chuyende19.pdf
18
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật Đại học Luật Hà nội, năm 2009, tr231
11
Do đó chức năng tổ chức và quản lý nền kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt, nhưng
đồng thời rất khó khăn và phức tạp.
Về những thành tựu của Nhà nước ta trên lĩnh vực tổ chức quản lý nền kinh tế
đất nước, báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về các văn kiện
trình Đại hội XIII của Đảng đã nêu rõ:
“ Kinh tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao (khoảng
5,9%). Nhiều khó khăn, vướng mắc, hạn chế, yếu kém từ các năm trước đã được tập
trung giải quyết và đạt những kết quả bước đầu. Chất lượng tăng trưởng được cải
thiện; kinh tế vĩ mô ổn định khá vững chắc; lạm phát được kiểm soát và duy trì ở mức
thấp; các cân đối lớn của nền kinh tế tiếp tục được bảo đảm và có bước được cải
thiện; kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách nhà nước được tăng cường.
Huy động vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh, hiệu quả sử dụng được nâng lên.
Cán cân thương mại được cải thiện; xuất khẩu tăng nhanh. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn
với đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện ba đột phá chiến lược đạt được những kết
quả quan trọng. Môi trường đầu tư, kinh doanh, tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh
của nền kinh tế tiếp tục được nâng lên. Chính trị, xã hội ổn định, đời sống của nhân
dân được cải thiện rõ rệt.”19
Qua đó cũng có thể thấy được những cố gắng của Nhà nước ta trong việc kiểm
soát và đưa nền kinh tế phát triển trong điều kiện xã hội có nhiều biến động và thách
thức.
3.1.2. Chức năng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
Chức năng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội hiện đang được nhà
nước ta tập trung và chú trọng và nỗ lực thực hiện ở bộ máy Nhà nước các cấp từ địa
phương đến trung ương.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII và Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ tỉnh Trà Vinh lần thứ XI đã đề ra nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị quốc gia và
đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Để thực hiện những nhiệm vụ ấy, ông Trần Bình Trọng,
trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Trà Vinh đã đề ra những biện pháp như: đẩy mạnh
công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo vệ an ninh quốc
gia cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tinh; tăng cường sự lãnh đạo
của các cấp ủy Đảng, các cấp ủy Đảng lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt đối với các lực
lượng nòng cốt, chuyên trách vảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; tăng
cường hiệu lực, hiệu quả của chính quyền đối với nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị,
19
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii/dai-
hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-dang-cong-san-viet-nam-3660
12
trật tự an toàn xã hội; phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đẩy mạnh phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; Tập trung xây dựng lực lượng công an từ tỉnh đến cơ
sở trong sạch, vững mạnh, phát huy đồng bộ, toàn diện trên các mặt chính trị, tư
tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.20
Đó là một trong những ví dụ cụ thể cho nỗ lực thực hiện chức năng giữ vững an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
3.1.3. Chức năng tổ chức quản lý văn hoá giáo dục, khoa học và công nghệ
Chức năng tổ chức quản lý văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ thể hiện
vai trò và trách nhiệm của nhà nước trên ba lĩnh vực nhằm:
- Nâng cao đời sống văn hoá và tinh thần của Nhân dân , xây dựng nền văn hoá
mới, lối sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. 21
- Bồi dưỡng nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài phục vụ cho sự nghiệp
xây dựng đất nước. 22
- Khuyến khích sự phát triển của khoa học công nghệ, quản lý và sử dụng có hiệu
quả những thành tựu khoa học, kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội,
thoả mãn những nhu cầu về vật chất và tinh thần của nhân dân.23
Những chính sách về văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ được quy định
trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 cũng đã khẳng
định sự chú trọng của Nhà nước ta vào ba lĩnh vực này:
Điều 60.
1. Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
2. Nhà nước, xã hội phát triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh
thần đa dạng và lành mạnh của Nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin đại
chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của Nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
3. Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ,
hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước,
có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân.
Điều 61.
20
Trần Bình Trọng, “Thực hiện tốt nhiệm vụ giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa
bàn tỉnh”, https://www.baotravinh.vn/chinh-tri/thuc-hien-tot-nhiem-vu-giu-gin-an-ninh-chinh-tri-trat-
tu-an-toan-xa-hoi-tren-dia-ban-tinh-11325.html
21
Sđd (18), tr 239
22
Sđd (18), tr 239
23
Sđd (18), tr 239
13
1. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
2. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm
lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học
phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục
nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý.
3. Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng,
phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn
hóa và học nghề.
Điều 62.
1. Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2. Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu,
phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ; bảo
đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
3. Nhà nước tạo điều kiện để mọi người tham gia và được thụ hưởng lợi ích từ
các hoạt động khoa học và công nghệ.
3.1.4. Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và
lợi ích cơ bản của công dân
Chức năng này nhằm đảm bảo cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm
chỉnh và thống nhất, thiết lập, củng cố và điều chỉnh hệ thống các quan hệ xã hội bảo
đảm sự phát triển đúng hướng, phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động.24
Trên con đường hướng tới Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà
nước ta luôn đề cao việc bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và
lợi ích cơ bản của công dân. Ta có thể thấy điển hình cho mối quan tâm về chức năng
này của Nhà nước được thể hiện ở một nhiệm vụ trọng tâm được đề ra trong nhiệm kì
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là: “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống
pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa,
quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo
đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, thực hành dân

Sđd (18), tr244


24

14
chủ xã hội chủ nghĩa của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại
đoàn kết toàn dân tộc.” 25 Thêm vào đó, Đảng ta cũng đã chính thức thừa nhận và
khẳng định các nguyên tắc pháp quyền trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta vào Đại hội XII của Đảng, đồng thời nêu rõ vai trò quan trọng của
việc tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền trên trong công cuộc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.26
3.2. Chức năng đối ngoại
3.2.1. Chức năng bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Trong lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã lần luợt đánh thắng hai
đế quốc Mỹ và Pháp, giành độc lập tự do cho dân tộc, tạo điều kiện hoà bình ổn định
cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng nhiêm vụ bảo vệ tổ quốc vẫn luôn là
nhiệm vụ hàng đầu của mỗi dân tộc. Vì vậy, chức năng bảo vệ tổ quốc xã hội chủ
nghĩa vẫn luôn là chức năng được đề cao hàng đầu của Nhà nước nói riêng và toàn dân
tộc nói chung.
Chương 4 Hiến pháp 2013 đã quy định về những nhiệm vụ của Nhà nước trong
công cuộc bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa như sau:
Điều 64
Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân
mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất
nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế
giới.
Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an
ninh.
Điều 65.
Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với
Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng,

25
Toàn văn Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, https://baochinhphu.vn/toan-
van-nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-dang-102288263.htm
26
Trần Ngọc Đường, “Tạp chí cộng sản: Các nguyên tắc pháp quyền và việc tuân thủ các nguyên tắc
pháp quyền trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta”,
https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/cac-
nguyen-tac-phap-quyen-va-viec-tuan-thu-cac-nguyen-tac-phap-quyen-trong-xay-dung-nha-nuoc-phap-
quyen-xa-hoi-chu-nghia-o-nuoc-ta

15
Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện
nghĩa vụ quốc tế.
Điều 66.
Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu,
lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện
nhiệm vụ quốc phòng.
Điều 67.
Nhà nước xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Điều 68.
Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của
Nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; xây dựng công nghiệp quốc
phòng, an ninh; bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân, kết hợp quốc
phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh; thực hiện chính sách hậu
phương quân đội; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sỹ, công
nhân, viên chức phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng
cường khả năng bảo vệ Tổ quốc.
Thông qua Hiến pháp hiện hành của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, ta thấy được tầm quan trọng của chức năng bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa mà
Nhà nước phải thực hiện.
Trong bối cảnh xã hội phát triển, quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,
bên cạnh những biện pháp quốc phòng truyền thống, Nhà nước ta cũng càng chú trọng
những biện pháp hợp tác quốc phòng với các nước trong khu vực để duy trì hoà bình.
Quân uỷ Trung Ương đã quyết định đưa hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng trở
thành trụ cột quan trọng trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, là một trong những kế sách
bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình. Hợp tác quốc phòng là một
trong những yếu tố quan trọng để duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế
giới, đồng thời là yếu tố để thực hiện các mục tiêu quốc phòng của Việt Nam.27

27
Nguyễn Chí Vịnh, “Tạp chí quốc phòng toàn dân: Đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc
phòng trong tình hình mới”, http://tapchiqptd.vn/vi/nhung-chu-truong-cong-tac-lon/day-manh-hoi-
nhap-quoc-te-va-doi-ngoai-ve-quoc-phong-trong-tinh-hinh-moi/5055.html
16
3.2.2. Chức năng mở rộng hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực
trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi; ủng hộ và góp
phần tích cực vào phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình,
độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội
Đây là chức năng rất quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nó xuất phát từ
bản chất Nhà nước xã hội chủ nghĩa và phù hợp với những xu hướng phát triển chung
của nhân loại. Trong xu hướng hội nhập hoá, toàn cầu hoá của thế giới ngày nay, việc
thực hiện chức năng này có vai trò rất lớn đến việc phát triển nền kinh tế, văn hoá, xã
hội của cả quốc gia và là điều kiện tác động đến khả năng thực hiện những chính sách
đối nội.
Để thực hiện chức năng này, Đảng và Nhà nước ta đang có rất nhiều những hành
động cụ thể và đem lại nhiều thành tựu trong lĩnh vực giao lưu với các nước trên thế
giới và trong khu vực. Sau đây là một số những hình ảnh và hoạt động tiêu biểu:

Sáng 13/11, nhân dịp Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 40, 41 và các Hội nghị
liên quan, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tham dự và phát biểu tại Đối
thoại Toàn cầu ASEAN lần thứ hai có chủ đề “Phục hồi toàn diện sau COVID-19”.
Đối thoại có sự tham dự của lãnh đạo các nước ASEAN, các nước đối tác và các tổ
chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB), Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), Viện Nghiên cứu Kinh tế
về ASEAN và Đông Á (ERIA)…28

28
“Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam: Đối thoại Toàn cầu ASEAN lần thứ hai: Phục hồi toàn diện
sau COVID-19”, https://dangcongsan.vn/thoi-su/doi-thoai-toan-cau-asean-lan-thu-hai-phuc-hoi-toan-
dien-sau-covid-19-624363.html
17
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hoan nghênh chuyến thăm chính thức Việt Nam
của Thủ tướng Đức Ô-láp Sôn, nhấn mạnh chuyến thăm là dấu mốc quan trọng của
quan hệ hai nước, diễn ra sau hơn 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược vào năm
2011, khi hai nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới trong bối cảnh tình hình
quốc tế có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp.29

Sáng 25/10, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã
hội kiến Chủ tịch Thượng viện Vương quốc Campuchia Samdech Say Chhum đang có
chuyến thăm chính thức Việt Nam theo lời mời của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình
Huệ, nhất trí tiếp tục phối hợp triển khai hiệu quả các thỏa thuận, cơ chế hợp tác hiện
có về quốc phòng, an ninh; tiếp tục phối hợp chặt chẽ, ủng hộ lẫn nhau tại các diễn
đàn...30

29
“Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, Hệ thống tư liệu – văn kiện đảng: Nhà nước và cách mạng”,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/v-i-lenin/nghien-cuu-hoc-tap-
tu-tuong/nha-nuoc-va-cach-mang-3143
30
Mạnh Hùng, “Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam: Củng cố quan hệ láng giềng hữu nghị, đoàn kết
gắn bó Việt Nam – Campuchia”, https://dangcongsan.vn/doi-ngoai/cung-co-quan-he-lang-gieng-huu-
nghi-doan-ket-gan-bo-viet-nam-campuchia-622761.html
18
Chương 4. So sánh đặc trưng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam với đặc trưng
trong mô hình nhà nước pháp quyền khác trên thế giới
4.1. Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Hiến pháp nước ta, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời gian qua, xu thế phát triển
tất yếu của nó thời gian tới và tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, có thể khái quát
hóa các đặc trưng cơ bản vừa thể hiện tính phổ biến vừa thể hiện tính đặc trưng của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau:
Thứ nhất, Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Đây là đặc trưng thể hiện tính phổ biến của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, nói về chủ quyền nhân dân, được thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, khẳng định trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.
Đặc trưng này đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện thể chế bảo đảm chủ quyền nhân
dân, vai trò chủ thể, trung tâm của nhân dân; thực hiện phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; mở rộng các hình thức thực
hành dân chủ trực tiếp; phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân; có cơ chế phát
huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội
trong việc bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ hai, quyền con người, quyền công dân là giá trị cao cả của xã hội, được công
nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật.
Đặc trưng này thể hiện tính phổ biến của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp và pháp luật Việt
Nam.
Để đáp ứng đặc trưng này đòi hỏi tiếp tục nâng cao nhận thức về quyền con
người, quyền công dân; hoàn thiện thể chế, thiết chế về quyền con người, quyền công
dân; lấy việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân làm tiêu chí
đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước; đưa nguyên tắc dựa trên quyền
con người thành yêu cầu trong xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật.
Thứ ba, Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản
lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật.

19
Đây là đặc trưng mang tính phổ biến, xuyên suốt bảo đảm tính hợp hiến, hợp
pháp trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Đặc trưng này đòi hỏi phải xây dựng ý thức và lối sống thượng tôn Hiến pháp và
pháp luật trong hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội; bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh
Hiến pháp và pháp luật và hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp.
Thứ tư, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp
chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Đặc trưng này thể hiện tính đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, gắn với hệ thống chính trị Việt Nam, là sự thể hiện sinh động việc vận dụng
sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta.
Đặc trưng này đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
theo hướng xác định rõ ràng, rành mạch chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách
nhiệm của các thiết chế quyền lực; tiếp tục xác định rõ, đầy đủ, đúng đắn về sự phối
hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lực nhà nước; hoàn thiện cơ chế kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp.
Thứ năm, hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, hiện đại, đầy đủ, kịp
thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được
thực hiện nghiêm minh, nhất quán và hiệu quả.
Đặc trưng này thể hiện tính phổ biến của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp và pháp luật Việt
Nam. Đây là điều kiện cần và đủ để bảo đảm xã hội có trật tự, kỷ cương, an toàn pháp
lý cho con người, xác lập được vị trí tối thượng của pháp luật trong điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Xây dựng và thực hiện pháp luật để khẳng định, hiện thực hóa các giá
trị, đặc trưng, nguyên tắc, nội dung của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong đời sống xã hội và Nhà nước.
Để đáp ứng đặc trưng này cần phải đẩy nhanh việc xây dựng hệ thống pháp luật
dân chủ, công bằng, nhân đạo, hiện đại, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi,
công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội,
có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích chính đáng của người dân, doanh
nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo; chú trọng xây dựng pháp luật theo
chiều sâu và nâng cao chất lượng pháp luật; hoàn thiện cơ chế gắn kết chặt chẽ giữa

20
xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật; tiếp tục hoàn thiện cơ chế tổ chức thực hiện
pháp luật, tăng cường các nguồn lực thích đáng cho thực hiện pháp luật, bảo đảm thực
hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán và hiệu quả; phát triển nguồn nhân lực pháp
luật, nhất là nguồn nhân lực pháp luật chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ sáu, bảo đảm độc lập tư pháp.
Đây là đặc trưng phổ biến, cốt lõi, được cộng đồng quốc tế thừa nhận như một
giá trị không thể thiếu được của Nhà nước pháp quyền. Đây cũng là điều kiện tiên
quyết để Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chức năng quan
trọng của mình: thực hiện pháp luật công bằng, khách quan, nghiêm minh, nhất quán,
bảo vệ hiệu quả các quyền con người, quyền công dân, duy trì và bảo vệ công lý.
Độc lập tư pháp được thể hiện ở ba mức độ: 1) vị trí độc lập của quyền tư pháp
trong tương quan với quyền lập pháp và quyền hành pháp; 2) sự độc lập giữa các tòa
án bên trong hệ thống của mình; 3) sự độc lập của các thẩm phán, hội thẩm khi xét xử.
Theo đặc trưng này, đòi hỏi phải tăng cường bảo đảm tính độc lập của quyền tư
pháp trong cơ chế quyền lực nhà nước; tiếp tục hoàn thiện tổ chức tòa án theo thẩm
quyền xét xử, không phụ thuộc vào các đơn vị hành chính; đổi mới quản trị tòa án; mở
rộng thẩm quyền của tòa án; xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung
tâm; hoàn thiện thủ tục tố tụng tranh tụng; phát triển và nâng cao chất lượng nhân lực
của tòa án, nhất là đội ngũ thẩm phán.
Thứ bảy, tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, tuân thủ pháp luật quốc tế và
thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc
gia, dân tộc.
Đặc trưng này thể hiện tính phổ biến của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp và pháp luật Việt
Nam.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng Hiến chương Liên
hợp quốc, tuân thủ pháp luật quốc tế và thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế của Việt
Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
Đặc trưng này đặt ra nhiệm vụ chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực pháp luật theo hướng tiếp tục hoàn thiện cơ chế để tăng cường sự chủ động hội
nhập quốc tế của Việt Nam; đổi mới mạnh mẽ, tạo ra sự thay đổi về chất trong hợp tác
quốc tế về pháp luật; thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, áp dụng pháp luật quốc tế,
đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực cho hợp tác pháp luật quốc tế.

21
Thứ tám, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo.
Đặc trưng này thể hiện tính đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, phù hợp với hệ thống chính trị Việt Nam.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là tất yếu lịch sử, quy luật của xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nhân tố
bảo đảm bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mang tính
chính danh, tính chính đáng, hiến định. Đảng lãnh đạo, cầm quyền nhưng không đứng
trên Hiến pháp và pháp luật mà đặt mình trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật.
Các tổ chức của Đảng và đảng viên vừa phải gương mẫu, tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật vừa phải nêu cao vai trò tiên phong trong thực hiện đường lối, chủ trương, các quy
định của Đảng. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận và khẳng định điều đó.
Đặc trưng này đòi hỏi phải nâng cao năng lực, đổi mới mạnh mẽ nội dung,
phương thức và thể chế lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo đảm các tổ chức của Đảng và đảng viên, nhất là các tổ
chức, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước gương mẫu, đi đầu trong thực
hành dân chủ và tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.31
4.2. Đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam so với đặc
trưng mô hình nhà nước pháp quyền khác trên thế giới
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa) và nhà nước pháp quyền phương Tây (nhà nước pháp quyền tư sản) có
những điểm tương đồng và khác biệt rõ rệt, được thể hiện ở một số đặc trưng tiêu biểu.
4.2.1. Điểm tương đồng
Mọi nhà nước pháp quyền đều có phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ
máy nhà nước do pháp luật quy định. Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức
nhà nước đặc biệt mà ở đó pháp luật có giá trị thực thi cao nhất với nội dung thực hiện
quyền lực của nhân dân. Trong đất nước mang chế độ nhà nước pháp quyền, Nhà nước
và mọi công dân đều phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật. Pháp luật không những
được coi là công cụ chủ yếu để quản lý mọi hoạt động của xã hội công dân, mà còn
xác định ở vị trí cao nhất, tuyệt đối vượt qua mọi quyền lực của tổ chức chính trị, xã
hội. Mỗi công dân trong xã hội đó đều được giáo dục pháp luật và phải hiểu biết pháp
luật, tuân thủ pháp luật.32
31
Võ Khánh Vinh, “Về quan niệm, bản chất, giá trị, đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”, https://nhandan.vn/ve-quan-niem-ban-chat-gia-tri-dac-trung-cua-nha-nuoc-phap-
quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-post705766.html
32
Sđd (1) tr.156.
22
Quyền lực nhà nước bao gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư
pháp.
Có hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí, nguyện vọng
của nhân dân, từ đó nắm bắt và điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã
hội. Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó quyền lực nhà
nước thể hiện được lợi ích và ý chí của đại đa số nhân dân, thực hiện chế độ dân chủ
trong việc thiết lập quyền lực nhà nước, thực hiện chế độ trưng cầu ý dân. Mỗi cá nhân
phải có nghĩa vụ, trách nhiệm quyền lợi theo quy định của pháp luật.
4.2.2. Điểm khác biệt
Trên cơ sở các tiêu chí chung về nhà nước pháp quyền, chúng ta có thể nhận thấy
tương đối rõ ràng sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với Nhà
nước pháp quyền tư sản:
Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư
sản đều phải thừa nhận phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước
do pháp luật quy định. Tuy nhiên, bản chất và nội dung pháp luật về tổ chức, xây dựng
và vận hành bộ máy của hai nhà nước đó có nhiều điểm khác nhau rất cơ bản. Rõ nhất
là, sự khác nhau trong các quy phạm của hiến pháp và pháp luật về tổ chức, cơ cấu
nhân sự và việc xây dựng, vận hành của bộ máy quyền lực như: Quốc hội và Nghị
viện; Tổng thống và Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án, Tòa án Hiến pháp,
v.v.. Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thừa nhận tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân bầu ra các cơ quan quyền lực (Quốc hội, Hội
đồng nhân dân...) và chỉ có nhân dân trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu của mình là
chủ thể duy nhất có quyền tuyên bố chấm dứt hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân
dân hoặc tổ chức ra Quốc hội và Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ mới. Trong khi đó, Hiến
pháp và pháp luật tư sản lại thừa nhận quyền lực của cá nhân Tổng thống hoặc cá nhân
Thủ tướng có quyền giải tán Nghị viện (Quốc hội) hoặc giải tán Chính phủ... . Quyền
làm chủ của nhân dân chỉ trên lý thuyết. Ví dụ Hiến pháp và pháp luật Hoa kỳ thừa
nhận quyền lực của cá nhân Tổng thống: “Tổng thống có những quyền hạn rộng lớn để
điều hành công việc quốc gia và các hoạt động của chính quyền liên bang. Tổng thống
có thể ban hành các quy định, quy chế và chỉ thị, được gọi là những chế tài hành pháp,
có hiệu lực bắt buộc đối với các cơ quan liên bang mà không cần có sự tán thành của
Nghị viện. Tổng thống có thể phủ quyết bất kỳ một dự luật nào đã được Nghị viện
thông qua và dự luật đó sẽ không trở thành luật trừ khi có hai phần ba thành viên trong
mỗi viện phủ quyết để gạt bỏ sự phủ quyết của Tổng thống. Tổng thống là tổng chỉ

23
huy các lực lượng vũ trang Hợp chúng quốc Hoa Kỳ; có thể huy động các đơn vị cận
vệ quốc gia của bang phục vụ cho liên bang”33.
Từ đó, ta nhận thấy rằng Hiến pháp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thừa nhận,
“ban” cho chức danh tổng thống rất nhiều quyền lực, trải dài trong ba quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp của nhà nước.
Thứ hai, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước và công dân đều
phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, v.v.. pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý
chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân. Trong Nhà nước pháp quyền tư sản, nhà
nước và công dân cũng phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, nhưng pháp luật tư
sản không phải là pháp luật của toàn dân, không thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng
của toàn dân mà chỉ phản ánh ý chí, nguyện vọng của một bộ phận nhân dân, đó là
những người giàu, là giai cấp tư sản. Nói cách khác, luật pháp của Nhà nước pháp
quyền tư sản chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và gạt ra ngoài lề quyền lợi của
người lao động - những người bị áp bức bóc lột. Đây là nội dung khác biệt cơ bản nhất
giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản.
Luật pháp của Nhà nước Hoa kỳ là minh chứng tiêu biểu cho việc nhà nước pháp
quyền tư sản chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và gạt ra ngoài lề quyền lợi của
người lao động - những người bị áp bức bóc lột. Theo đó, phát biểu bên lề cuộc họp
của Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc đã diễn ra tại Geneva, Thụy Sĩ, ông Philip
Alston - Báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc - cho biết Hoa Kỳ là quốc gia tồn
tại tình trạng bất bình đẳng sâu sắc nhất trong số các nước phát triển. Ông Philip
Alston cho rằng các chính sách hiện hành của nước này mang lại lợi ích cho người
giàu và làm gia tăng hoàn cảnh khó khăn của người nghèo. Ông cũng phê phán chương
trình cải cách thuế và phúc lợi xã hội của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, cho rằng
các chính sách này sẽ gây bất lợi cho 20% số người nghèo nhất và làm rộng hơn
khoảng cách giàu nghèo ở Hoa Kỳ 34.

33
Trung tâm Thông tin - Thư viện và Nghiên cứu khoa học, Văn phòng Quốc hội (2012), Tuyển tập
Hiến Pháp một số nước trên thế giới, Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội, tr.11
34
“Bất bình đẳng xã hội leo thang tại Mỹ”, https://vtv.vn/the-gioi/bat-binh-dang-xa-hoi-leo-thang-tai-
my-20180622180007928.htm
24
Nguồn: Reuters
Ngoài ra, “trong báo cáo năm 2016, Trung tâm Stanford về tình trạng nghèo và
bất bình đẳng xếp Hoa Kỳ đứng cuối bảng xếp hạng 10 quốc gia giàu có dựa trên mức
thu nhập và khoảng cách giàu nghèo. Báo cáo cũng cho thấy Hoa Kỳ không được đánh
giá cao về vấn đề hỗ trợ những gia đình khó khăn và giúp những gia đình có thu nhập
thấp thoát khỏi cảnh nghèo, trái ngược với giấc mơ Hoa Kỳ thường được tung hô.”35
Hơn thế, cũng có nhận định về sự bất bình đẳng trong xã hội của Hoa Kỳ như
sau: “Sự bất bình đẳng xã hội bắt đầu phát triển nhanh chóng sau khủng hoảng. Tại
thời điểm đó, chính quyền Hoa Kỳ có thể hỗ trợ người nghèo, song họ quyết định làm
khác đi một chút. Ví dụ, trong thời gian khủng hoảng tài chính, chính phủ Hoa Kỳ đã
chi cho những gia đình có mức thu nhập trên 1 triệu USD/năm mức trợ cấp thất nghiệp
với số tổng số tiền lên tới 80 triệu USD. Các triệu phú nhận trợ cấp xã hội do bản chất
của luật pháp Hoa Kỳ và hệ thống kiểm soát tình hình tài chính làm việc kém.”36
Thứ ba, đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Điều 2,
Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” nên
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” 37 nhằm
bảo đảm cho quyền lực nhà nước thống nhất, được thực hiện với hiệu quả cao nhất.
35
Xuân Mai, “Đói nghèo ở Mỹ”, https://nld.com.vn/thoi-su-quoc-te/doi-ngheo-o-my-
20171206210813428.htm
36
Ngọc Bích, “Nước Mỹ và tình trạng bất bình đẳng xã hội”,
https://nguoibaovequyenloi.com/User/ThongTin_ChiTiet.aspx?
MaTT=20135118057937807&MaMT=25
25
Còn ở nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết "tam quyền phân lập" là học thuyết cơ
bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư
pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Cụ thể là lập pháp giao cho nghị viện, hành pháp giao cho chính phủ, tư pháp
giao cho tòa án. Và các nhánh quyền lực này phải hoạt động theo cơ chế “kiềm chế và
đối trọng” lẫn nhau. Mỗi cơ quan vừa đảm nhận một nhánh quyền lực độc lập, vừa
kiểm soát các nhánh quyền lực còn lại nhằm bảo đảm quyền lực luôn trong trạng thái
cân bằng và không có cơ quan nào có quyền lực tối cao 38. Ví dụ Hoa Kỳ là một nước
cộng hoà liên bang thực hiện chế độ chính trị tam quyền phân lập. Theo Hiến pháp của
Hợp chủng quốc Hoa kỳ, quyền lực nhà nước được phân chia cho ba cơ quan tương
ứng, Nghị viện nắm quyền lập pháp, Tổng thống nắm quyền hành pháp và Tòa án nắm
quyền tư pháp.
Dưới đây là sơ đồ mô tả tam quyền phân lập ở Hoa Kỳ. Các cơ quan này hoạt
động độc lập với nhau song vẫn có sự kiềm chế đối trọng lẫn nhau giữa các cơ quan
nhằm hạn chế sự tha hóa quyền lực, bảo vệ nhân quyền cơ bản.

Nguồn: Trung tâm tư vấn pháp luật Đại học Luật TP.HCM
Thứ tư, về hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà
nước pháp quyền tư sản cũng có nhiều điểm khác nhau. Bên cạnh sự khác nhau về tính
37
Hoàng Chí Bảo, ““Tam quyền phân lập” không phải là sự lựa chọn mô hình tổ chức nhà nước của
Việt Nam” http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/tam-quyen-phan-
lap-khong-phai-la-su-lua-chon-mo-hinh-to-chuc-nha-nuoc-cua-viet-nam/10566.html
38
Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Tập bài giảng Lý luận về nhà nước, Nhà xuất bản Hồng
Đức, tr. 170.
26
giai cấp, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ công nhận các quy phạm pháp
luật khi nó được xác lập và thông qua theo một trình tự và thủ tục nhất định; trong khi
đó, Nhà nước pháp quyền tư sản thường coi "án lệ" hoặc "tập quán" như một loại quy
phạm pháp luật "bất thành văn". Ví dụ về Pháp luật Hoa Kỳ thừa nhận án lệ là một
nguồn luật chính thống bên cạnh luật thành văn. Ở Hoa Kỳ, án lệ được tạo ra bởi hoạt
động giải thích luật thành văn, vì vậy, án lệ giải thích ở Hoa Kỳ có giá trị ràng buộc
cao.39
Chương 5. Xây dựng và phát huy nền dân chủ ở việt nam hiện nay
5.1. Khái niệm dân chủ
Dân chủ chính là một phạm trù lịch sử. Theo C. Mác và Ph.Ăng-ghen, dân chủ là
phương tiện tất yếu để con người đạt tới tự do, giải phóng toàn diện những năng lực
vốn có của mỗi cá nhân, tức quyền con người được bảo đảm và thực hiện đầy đủ. Đặc
trưng cơ bản của dân chủ là tất cả các công dân đều có quyền tham dự đời sống chính
trị, quyền lực cao nhất của đất nước thuộc về đại diện của nhân dân; mọi công dân đều
có quyền bình đẳng trước pháp luật40.
Phải nói rằng, giữa Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân luôn có mối quan
hệ gắn bó, chặt chẽ với nhau. Trong quá trình xây dựng một Nhà nước pháp quyền thì
song song đó một xã hội công dân cũng được dựng thành. Trong chính xã hội đó, mọi
cá nhân đều được tự do, bình đẳng, bác ái, có thể phát huy được đầy đủ năng lực của
chính bản thân mình.
Trên thực tế, Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân là mối quan hệ biện
chứng với nhau. Trong Nhà nước pháp quyền, mỗi công dân đều phải hiểu rõ và nắm
kĩ những quyền mà mình có được: quyền công dân, quyền sở hữu, quyền được bảo
vệ,... Chính việc ý thức được các quyền này sẽ giúp mỗi một người có bổn phận và
trách nhiệm đối với quốc gia.
5.2. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, vai trò của dân chủ đối với nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là
dân vì dân là chủ”41. “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ”42. Đối với
39
Trần Thị Diệu Hương, “Xây dựng án lệ trong thông luật Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam”, https://tapchitoaan.vn/xay-dung-an-le-trong-thong-luat-hoa-ky-va-bai-hoc-kinh-nghiem-cho-
viet-nam
40
Mai Hải Oanh (2020): “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/817155/phat-huy-dan-chu-xa-hoi-chu-
nghia-o-viet-nam-hien-nay.aspx, truy cập ngày 3/3/2023.
41
Sđd (12), tập 6, tr.515.
42
Sđd (12), tập 7, tr.499.
27
Hồ Chí Minh, “dân chủ” chính là yếu tố quan trọng nhất, là yếu tố quyết định giúp cho
một đất nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như nước ta có thể phát triển bền vững và
giàu mạnh. Việt Nam là một đất nước “của dân, do dân, vì dân”, vì vậy nên nhân dân
chính là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực Nhà nước. “Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức”43. Chính vì vậy mà trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân
chủ nhân dân là yêu cầu nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà nước luôn coi
trọng giá trị “dân chủ”, coi đây là điều kiện tiên quyết, cơ sở thiết yếu để xây dựng xã
hội công bằng, văn minh. Dân chủ không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của sự
phát triển đất nước, là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của tất cả các lĩnh vực như kinh
tế, văn hóa, xã hội. Thực hiện tốt dân chủ sẽ phát huy được sức mạnh của quần chúng
nhân dân với vai trò là thể chế quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Chương 6. Liên hệ với Nhà nước pháp quyền.
6.1. Vai trò chung của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ nhất, nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ.
Dân chủ vừa là bản chất của nhà nước pháp quyền, vừa là điều kiện, tiền đề của
chế độ nhà nước. 44
Tập trung dân chủ bao gồm hai thành tố là tập trung và dân chủ, hai thành tố này
không hề đối lập nhau mà có mối quan hệ biện chứng với nhau, cùng nhau phát triển
theo tỉ lệ thuận. Mức tập trung càng cao thì dân chủ càng được mở rộng và ngược lại,
tập trung ở đây không phải là tập trung quan liêu, tập trung độc đoán. Dân chủ ở đây là
dân chủ thực sự, không phải là dân chủ cực đoan, muốn làm gì thì làm. Tập trung trên
cơ sở dân chủ thì tập trung sẽ thúc đẩy dân chủ rộng rãi và có chất lượng cao hơn. Tập
trung là đòi hỏi của chính bản thân dân chủ. Ngược lại, dân chủ trên cơ sở tập trung sẽ
dễ dàng đạt tới sự thống nhất cao. Lúc đó, dân chủ trở thành đòi hỏi của chính bản
thân tập trung. Dân chủ mà không tập trung, về thực chất là xoá bỏ dân chủ. Tập trung
mà không dân chủ, về thực chất cũng là xóa bỏ tập trung.
Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ, đảm
bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của
mình thông qua dân chủ trực tiếp; dân chủ đại diện.
Thứ hai, nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật.
43
Khoản 2 Điều 2 Hiến pháp 2013.
44
Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Hồng Đoan -
https://hagiang.gov.vn/pages/propagandanews.aspx?ItemID=747
28
Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh những mối quan hệ cơ bản đối
với toàn bộ hoạt động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tích hợp hiến và hợp
pháp của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên không phải mọi
chế độ lập Hiến, mọi hệ thống pháp luật đều có thể đưa ra khả năng xây dựng nhà
nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng mới
có thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền trong nhà nước xã hội.
Thứ ba, nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con
người trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nước. Mọi
hoạt động của Nhà nước đều xuất phát từ sự tôn trọng và đảm bảo quyền con người,
tạo mọi điều kiện cho công thực hiện quyền của mình theo đúng các quy định của luật
pháp.
Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước được xác định chặt chẽ về phương diện
luật pháp và mang tính bình đẳng. Mô hình quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân được
xác định theo nguyên tắc: Đối với cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì luật cho
phép; đối với công dân được làm tất cả trừ những điều luật cấm.
Thứ tư, quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức và
thực hiện theo các nguyên tắc dân chủ: phân công quyền lực và kiểm soát quyền
lực.
Tính chất và cách thức phân công, kiểm soát quyền lực nhà nước rất đa dạng, tuỳ
thuộc vào chính thể nhà nước ở các nước khác nhau, nhưng đều có điểm chung là
quyền lực nhà nước không thể tập trung vào một người, vào một cơ quan, mà phải
được phân công (phân chia) giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Đồng thời, việc tổ chức và thực thi quyền
lực phải được kiểm soát chặt chẽ với các cơ chế kiểm soát quyền lực cụ thể kể cả bên
trong bộ máy nhà nước và bên ngoài bộ máy nhà nước.
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp
và pháp luật phù hợp.
Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp luật dân
chủ và công bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là một yêu
cầu, một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật luôn được tôn
trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh.
Hình thức và phương thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia có thể
đa dạng và khác nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao, bất khả
xâm phạm của Hiến pháp, loại bỏ hành vi trái với tinh thần và quy định của Hiến pháp,
29
không phụ thuộc và chủ thể của các hành vi này. Đồng thời với bảo vệ Hiến pháp, nhà
nước pháp quyền luôn đòi hỏi phải xây dựng và thực thi một chế độ tư pháp thật sự
dân chủ, minh bạch và trong sạch để duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực
hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Thứ sáu, trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới
hạn trong các mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội.
Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước được xác định bởi tính chất, trình độ của các mô hình kinh tế thị trường,
theo hướng Nhà nước tôn trọng, phát huy các quy luật khách quan của thị trường,
thông qua thị trường để điều tiết các quan hệ kinh tế, đồng thời khắc phục, hạn chế các
mặt tiêu cực của thị trường.
Trong mối quan hệ với xã hội, Nhà nước thông qua luật pháp để quản lý xã hội,
tôn trọng đề cao vị trí, vai trò và quyền tự chủ (tự quản) của các cấu trúc xã hội (các tổ
chức xã hội, các cộng đồng xã hội).
Mối quan hệ giữa Nhà nước, kinh tế, xã hội là mối quan hệ tương tác, quy định
và chi phối lẫn nhau. Nhà nước không đứng trên kinh tế và xã hội. Nhà nước pháp
quyền gắn liền với kinh tế và xã hội, phục vụ kinh tế và xã hội trong phạm vi Hiến
pháp và pháp luật Việt Nam thể hiện những tư tưởng quan điểm tích cực, tiến bộ, phản
ánh được ước mơ và khát vọng của nhân dân đối với công lý, tự do, bình đẳng trong
một xã hội còn giai cấp.
Với những đặc trưng nêu trên, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thể hiện
những tư tưởng quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh được ước mơ và khát vọng của
nhân dân đối với công lý, tự do, bình đẳng trong một xã hội còn giai cấp.
6.2. Vai trò của nhà nước pháp quyền đối với các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã
hội.45
6.2.1. Đối với lĩnh vực chính trị
Nhà nước pháp quyền chính là nhà nước biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ.
Dân chủ vừa là bản chất của nhà nước pháp quyền vừa là điều kiện, tiền đề của chế độ
nhà nước. Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ,
đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân.
Một nhà nước phát triển là một nhà nước phát triển cả về bên trong lẫn bên
ngoài. Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ có thể tồn tại và phát triển trong hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Nhà nước. Để đảm bảo
45
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân
http://www.xaydungdang.org.vn/uploads/thuhuyen/3-chuyendenhanuocphapquyen.pdf
30
vai trò và khả năng lãnh đạo, Nhà nước phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng; thường
xuyên tự đổi mới, nâng cao trình độ trí tuệ, phẩm chất đạo đức và năng lực sáng tạo.
Quyền lực chính trị là do Nhà nước nắm giữ, nhưng quyền lực ấy là của nhân dân
giao cho. Chính nhân dân là người tổ chức ra nhà nước và trao quyền lực cho Nhà
nước. Nhà nước là công cụ của nhân dân, thay mặt nhân dân để thực thi quyền lực
chính trị mà nhân dân giao cho. Muốn quản lý và điều hành tốt xã hội, Nhà nước phải
thông qua nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội,
kiểm tra, kiểm soát và giám sát hoạt động của Nhà nước. Chính nhân dân là người
quản lý nhà nước và xã hội, đồng thời, là người tổ chức và thực thi quyền lực chính trị
- quyền lực nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền phải
đấu tranh, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ và lợi ích hợp pháp của nhân dân, giải
quyết hài hòa, kịp thời những yêu cầu, kiến nghị hợp pháp, chính đáng của nhân dân
theo đúng quy định của pháp luật.
6.2.2. Đối với lĩnh vực kinh tế.
Dân chủ về kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác động tích cực đến việc giải
phóng sức sản xuất, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân
dân.
Trong thời đại ngày nay, con người, thể chế và khoa học - công nghệ có vai trò
quan trọng hàng đầu của nguồn lực phát triển. Bởi lẽ, các nguồn lực tự nhiên đang
ngày càng cạn kiệt, khan hiếm, các nguồn lực con người gắn với khoa học - công
nghệ, đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển, sức cạnh tranh và thực hiện tự chủ chiến
lược của mỗi quốc gia. Bản thân các nguồn lực tự nhiên, như vị trí địa lý, đất đai,
nước, khoáng sản,... sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, bền vững hay không đều tùy thuộc
vào chất lượng nguồn nhân lực, thể chế và ứng dụng khoa học - công nghệ; các nguồn
lực vốn, lao động sử dụng như thế nào đều do thể chế và con người quyết định. Nhiều
nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh vật trong tự nhiên chỉ trở thành nguồn lực đóng
góp cho sản xuất và đời sống khi có sự tham gia của khoa học - công nghệ, nhờ đó, tạo
ra những năng lượng mới, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo (như năng lượng mặt
trời, năng lượng gió, năng lượng hydro, năng lượng sóng biển, năng lượng sinh khối)
hay vật liệu mới. Kể cả kinh tế tuần hoàn cũng chỉ phát huy tác dụng khi có sự phát
triển tương xứng của khoa học - công nghệ. Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều
quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên, nhưng tạo được bứt phá phát triển, đều nhờ vào
các nguồn lực phi tự nhiên, trước hết là chất lượng con người, chất lượng thể chế và
trình độ, khả năng ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ, còn các quốc gia thất bại
thường rơi vào “lời nguyền tài nguyên”.

31
Vì vậy, cơ chế bảo đảm cho nguồn lực hữu hình từ tiềm năng biến thành động
năng, rồi chuyển hóa thành các yếu tố đầu vào cho phát triển, chính là thông qua con
người, thể chế, khoa học - công nghệ. Thông qua đó, nhân lực, thể chế, khoa học -
công nghệ không chỉ hiện diện với tư cách chuyển tải các nguồn lực vật chất khác, mà
bản thân nó cũng trở thành nguồn lực quan trọng nhất cho phát triển. Vì vậy, đột phá
vào thể chế phát triển, vào nguồn nhân lực và khoa học - công nghệ luôn phải được
xem là đột phá chiến lược. Đặc biệt, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa
các quốc gia về tốc độ và chất lượng phát triển thì cạnh tranh nhân tài và cạnh tranh
khoa học - công nghệ đang nổi lên trở thành tâm điểm của cạnh tranh chiến lược.
Các hình thức kích thích lợi ích vật chất - kinh tế, như tăng lương, thưởng hiện
vật, phân phối theo kết quả lao động, theo vốn đóng góp, theo hiệu quả kinh tế,... tạo
động lực có hiệu ứng tức thì cho phát triển. Trong những năm đầu đổi mới, chỉ bằng
cách áp dụng một số kích thích lợi ích vật chất đã tạo ra động lực mạnh mẽ giải phóng
sức sản xuất, như khoán trong các xí nghiệp quốc doanh, phân phối theo kết quả lao
động, giao quyền tự chủ cho hộ gia đình sản xuất nông nghiệp. Nhưng sau hơn 35 năm
đổi mới, nhiều chính sách đã gặp giới hạn, không còn tạo động lực cho phát triển, cần
phải tiếp tục đổi mới, nhất là chính sách tiền lương, chính sách phân bổ nguồn lực.
Động lực vật chất - kinh tế cũng chỉ phát huy trong thời gian nhất định, khi người lao
động nhận thấy muốn giành được lợi ích nhất định thì phải nỗ lực phấn đấu. Còn khi
người lao động cảm thấy việc hưởng các lợi ích vật chất - kinh tế như là sự đương
nhiên, giảm sút ý chí nỗ lực vươn lên, thì ý nghĩa động lực không còn. Điều đó cho
thấy, động lực vật chất - kinh tế phải được kết nối, liên thông, phối hợp đồng bộ với
động lực tinh thần thì mới tạo được hệ động lực cho phát triển.
Các hình thức kích thích năng lượng tinh thần của con người lại gần như không
có giới hạn, như phát huy tinh thần dân tộc, lương tâm nghề nghiệp, nhu cầu khẳng
định mình, khát vọng cống hiến, định hướng giá trị, sử dụng hiệu ứng lan tỏa để cổ vũ,
động viên, khích lệ,... thông qua giáo dục, tuyên truyền, vận động, thi đua - khen
thưởng. Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, chính tinh thần yêu nước - động
lực tinh thần đã tạo nên sức mạnh to lớn giúp chúng ta chuyển hóa thành sức mạnh vật
chất để chiến thắng các thế lực đế quốc, thực dân. Hệ động lực tinh thần lúc đó được
khơi dậy thông qua nhiều cơ chế, như hình thành phong trào yêu nước sâu rộng; Chủ
tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo tiền bối trở thành biểu tượng truyền cảm hứng,
khát vọng cho toàn dân tộc; lựa chọn, tôn vinh các nhân tố anh hùng xả thân vì nước
tiêu biểu tạo ra hiệu ứng lan tỏa sâu rộng, lấy giá trị cao nhất là giải phóng dân tộc,
thống nhất Tổ quốc. Hệ động lực trong thời kỳ mới, bên cạnh những cách làm truyền
thống, cần chú ý đến nhu cầu khẳng định cá nhân con người trên từng lĩnh vực, ngành,
32
nghề; lương tâm nghề nghiệp, khát vọng cống hiến dựa trên tôn trọng, phát huy năng
khiếu, sở trường từng cá nhân; tuyên truyền, cổ vũ, tạo nên các phong trào thi đua -
yêu nước kích hoạt trúng các giá trị của con người Việt Nam để nhân lên sức mạnh
gấp bội; xây dựng biểu tượng, nhân tố mới có sức ảnh hưởng lan tỏa trong từng ngành,
nghề, giới, lớp tuổi, thế hệ. Tuy nhiên, động lực tinh thần nếu không đi kèm với động
lực vật chất - kinh tế dễ dẫn tới duy ý chí, khó duy trì lâu bền các tính năng của động
lực, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường. Vì vậy, phối hợp linh hoạt giữa phát huy
các động lực vật chất - kinh tế mà bản chất là kích thích lợi ích vật chất, với phát huy
các động lực văn hóa - tinh thần mà bản chất là định hướng giá trị sống, lao động,
cống hiến - đây là yêu cầu đặt ra khi xây dựng hệ động lực cho phát triển.
6.2.3. Đối với lĩnh vực xã hội.
Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu thế
chủ yếu mà hầu như các nước trên thế giới đều đang theo đuổi.
Phương hướng vừa cơ bản vừa cấp bách hàng đầu lúc này là giữ vững và phát
huy bản chất tốt đẹp của mỗi quốc gia, ngăn chặn và đẩy lùi suy thoái đạo đức, tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, sách nhiễu nhân dân trong bộ máy nhà nước.
6.2.4. Sự đặc thù của nhà nước pháp quyền ở mỗi quốc gia46
Nhà nước pháp quyền ngoài các giá trị phổ biến còn bao hàm các giá trị đặc thù
của mỗi quốc gia hay các dân tộc.
Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được xác định bởi các yếu tố, các yếu tố
này về thực chất là rất đa dạng, phong phú và phức tạp, được xác định bởi các điều
kiện lịch sử, truyền thống - văn hoá, tâm lý xã hội của mỗi một dân, các chế độ kinh tế,
chế độ chính trị, văn hoá và môi trường địa lý. Các yếu tố này không chỉ tạo ra các đặc
sắc, tính riêng biệt của mỗi dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước mà còn
quyết định mức độ tiếp thu và dung nạp các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền.
Việc thừa nhận tính đặc thù của nhà nước pháp quyền có ý nghĩa nhận thức luận
quan trọng. Với ý nghĩa này nhà nước pháp quyền là một phạm trù vừa mang tính phổ
biến vừa mang tính đặc thù, nhà nước pháp quyền vừa là một giá trị chung của nhân
loại, vừa là một giá trị riêng của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia.
Không thể có một nhà nước pháp quyền chung chung như một mô hình chung
thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Mỗi một quốc gia hay dân tuỳ thuộc vào các đặc
điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển riêng biệt mà lựa chọn
xây dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp.
46
Xây dựng Đảng-Nhà nước Pháp quyền http://www.xaydungdang.org.vn/uploads/thuhuyen/3-
chuyendenhanuocphapquyen.pdf
33
Thực tiễn xây dựng và vận hành của nhà nước pháp quyền tại các nước cho thấy,
mỗi một nước đều có cách thức xây dựng, tổ chức nhà nước pháp quyền theo cách
riêng của mình. Các khảo sát kinh nghiệm xây dựng nhà nước pháp quyền tại các nước
Cộng hoà Liên bang Đức, Cộng hoà Pháp, Vương quốc Anh, Cộng hoà Ý đã cho thấy
ở các nước này, mô hình tổ chức nhà nước pháp quyền được tổ chức vừa thống nhất
vừa đa dạng, phản ánh các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, đồng thời các giá
trị đặc thù của từng quốc gia. Thực tiễn này cũng đã được xác nhận tại Trung Quốc,
Nhật Bản, Mỹ và nhiều nước khác.
Thừa nhận tính đa dạng của mô hình nhà nước pháp quyền, đòi hỏi việc xây
dựng nhà nước pháp quyền tại mỗi một quốc gia phải đồng thời quán triệt các phương
diện:
Thứ nhất, phải xuất phát từ đòi hỏi, yêu cầu và trình độ phát triển kinh tế - văn
hoá, chính trị và truyền thống dân chủ của dân tộc mình mà lựa chọn cách thức xây
dựng và vận hành mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp. Nhà nước pháp quyền phải
mang bản chất của chế độ chính trị, thể hiện được các đặc sắc của quốc gia, dân tộc.
Thứ hai, phải quán triệt các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, tiếp thu
các giá trị phổ biến này trong sự tương hợp với các đặc điểm lịch sử, văn hoá, chính trị
của quốc gia. Sự quán triệt các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền trong ý nghĩa
là các giá trị chung của nhân loại mới có thể đảm bảo được tính pháp quyền của nhà
nước theo các chuẩn mực đã được thừa nhận, khắc phục tính dân tộc cực đoan hay các
dị biệt làm cho các giá trị dân chủ không được phát huy, tạo nguy cơ rơi vào tình trạng
biệt lập trong một thế giới hiện đại ngày nay.
Thứ ba, sự thống nhất hữu cơ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của nhà nước
pháp quyền là cơ sở lý luận cần quán triệt trong cuộc đấu tranh lý luận chống lại mọi
sự áp đặt từ bên ngoài đối với mô hình nhà nước pháp quyền hay áp dụng một cách
máy móc, giáo điều, dập khuôn mô hình nhà nước pháp quyền ở một nước này vào
một nước khác. Điều này có nghĩa là không thể lấy các tiêu chuẩn của nhà nước pháp
quyền tư sản để áp đặt cho các việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Thứ tư, khi quán triệt các đặc điểm, đặc thù của mỗi nước cần phải đặt các điều
kiện đặc thù ấy trong sự tương quan với các giá trị phổ biến và phải biến các giá trị
phổ biến ấy thành các giá trị nội tại, chuyển hoá chúng thành các giá trị quốc gia.

34
Chương 7. Liên hệ với việc phát huy vai trò của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa việt nam đối với các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói rằng: “Chúng ta cần một xã hội mà trong
đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà
đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và
công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng
xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các
giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi
ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững,
hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại
và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô
hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực
thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không
phải chỉ cho một thiểu số giàu có” 47. Quả đúng như vậy, đây không những là mục tiêu
của Nhà nước Pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nói riêng mà còn chính là mục
tiêu chung của các nước Xã hội Chủ nghĩa trên thế giới nói chung. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng như Đảng ta và Nhân dân ta luôn cố gắng theo đuổi con đường này để xây
dựng một đất nước phát triển, hùng mạnh, sánh vai với các bạn bè năm châu quốc tế.
7.1. Đối với lĩnh vực kinh tế
Việc xây dựng và phát huy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay là quá trình vận động và phát triển nền kinh tế dưới sự lãnh đạo của
Đảng thông qua vai trò quản lý và điều hành của Nhà nước nhờ nắm vững những nhận
thức và áp dụng các nguyên lý cơ bản của nền kinh tế thị trường. Để rồi từ đó hoàn
thiện những đặc trưng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Thế nên có thể thấy rõ
rằng trong lĩnh vực kinh tế, vai trò của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là vô
cùng quan trọng.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chính là nhân tố quyết định bảo đảm vai
trò lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng và phát triển định hướng nền kinh tế thị
trường. Chính việc xây dựng và hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là nền tảng kinh tế vững chắc để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

47
Nguyễn Phú Trọng (2021):“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”,
https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/mot-so-van-
de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam, truy
vập ngày 1/3/2023.
35
Hiện nay, thể chế nền kinh tế thị trường ở nước ta tuy đã được hình thành nhưng
vẫn còn rất chậm, chưa thực sự đồng bộ, có nhiều thành phần trong thể chế chưa phù
hợp đã gây nên sự cản trở quá trình vận hành cơ chế thị trường.
Vì thế nên đầu tiên, cần thể chế hóa quan điểm của Đảng về đa dạng hoá các hình
thức sở hữu, đa dạng hoá các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản dưới mọi hình thức sở hữu và kinh
doanh trong nền kinh tế. Mục đích là tạo điều kiện giải phóng sức sản xuất, khai thác
mọi khả năng, phát huy tính sáng tạo trong lao động, sản xuất và kinh doanh cho mọi
bộ phận dân cư.
Thứ hai, dân chủ hóa đời sống xã hội, nhất là dân chủ trong kinh tế là cách tốt
nhất để hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, đảm bảo công bằng xã hội.
Không chỉ vậy, khi dân chủ được phát huy, nó lại trở thành động lực thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Quá trình mở rộng dân chủ sẽ thúc đẩy sự phân công lao động xã
hội, phát triển lực lượng sản xuất theo hướng có lợi nhất cho số đông, cho cộng đồng,
phù hợp với quy luật khách quan.
Vai trò điều tiết nền kinh tế vẫn còn mang nặng tính hành chính nên hiệu quả
quản lý Nhà nước còn rất hạn chế. Môi trường pháp lý cũng như môi trường kinh
doanh phát triển và cải thiện rất chậm, vẫn chưa thể nào đáp ứng được những yêu cầu
hội nhập cao ở các lĩnh vực trong thời đại 4.0 như hiện nay. Chuyển dịch cơ cấu nền
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm. Việc cải cách thể chế
kinh tế diễn ra chưa đáp ứng nhu cầu phát triển, trong đó phải kể đến cả các thủ tục
hành chính và sự hình thành các loại thị trường như thị trường bất động sản, thị trường
khoa học - công nghệ, thị trường sức lao động còn quá chậm, thậm chí có nhiều điểm
bất lợi nên đã tạo ra một thị trường cạnh tranh không bình đẳng, gây ra nhiều bất lợi
cho một số doanh nghiệp và người lao động.
Chính vì vậy mà tiếp theo Đảng và Nhà nước ta cần nhận thức đúng đắn về vai
trò quan trọng của thể chế, xây dựng và hoàn thiện thể chế phải được tiến hành đồng
bộ trên cả ba khâu: Ban hành văn bản, quy định của thể chế; xây dựng cơ chế vận
hành, thực thi thể chế trong hoạt động kinh doanh cụ thể; hoàn thiện tổ chức bộ máy
theo dõi, giám sát việc thi hành thể chế, xử lý vi phạm và tranh chấp trong thực thi thể
chế.
Trong khi triển khai đồng bộ thể chế môi trường kinh doanh, phải tập trung cải
cách hành chính, từ bộ máy hành chính đến thủ tục hành chính. Thắng lợi của cải cách
hành chính sẽ nhanh chóng thúc đẩy cải thiện nhiều về môi trường kinh doanh.

36
Bên cạnh đó, phải phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường.
Hình thành việc rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về kinh doanh làm
sao để phù hợp với Việt Nam.
7.2. Đối với lĩnh vực chính trị
Văn kiện Đại hội IX (2001) của Đảng đưa việc xây dựng nhà nước pháp quyền
thành một chủ đề lớn “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh
đạo của Đảng”48. Nghị quyết Đại hội khẳng định nhà nước ta là công cụ chủ yếu để
thực hiện quyền làm chủ của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch,
vững mạnh chính là một trong những điều kiện tiên quyết để xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhà nước là một bộ phận quan trọng, là trung tâm của hệ thống chính trị. Nhà
nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ có thể tồn tại và phát triển trong hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, quá trình
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải được đặt trong tổng
thể quá trình hoàn thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của mình, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, sửa chữa, nâng cao trình độ trí tuệ, bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Đảng phải dân chủ hóa trong
sinh hoạt, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Chỉ có như
vậy, Đảng mới đảm bảo vai trò lãnh đạo trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước là vô cùng cần thiết.
Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội
để đảm bảo đây là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân. Xây dựng nền hành chính
Nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa. Đẩy mạnh cải cách
hành chính, giảm mạnh và bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và
công dân.
Quá trình đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta
cũng chính là quá trình từng bước xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Bởi vì, hệ thống chính trị và dân chủ là hai phạm trù có quan hệ mật thiết với
nhau. Mức độ dân chủ trong xã hội sẽ phản ánh bản chất của hệ thống chính trị và

48
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr. 131-132.
37
ngược lại, một trong những chức năng quan trọng của hệ thống chính trị hiện nay là
chức năng thực hiện dân chủ, vì dân chủ. Do đó, muốn xây dựng hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa vững mạnh thì phải làm cho người dân chủ động, tích cực tham gia xây
dựng hệ thống chính trị. Các tổ chức đó phải là của dân, do dân và vì dân. Nói cách
khác, mức độ hoàn thiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng chính là thước đo
đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống chính trị, của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
Ngoài ra, đấu tranh phòng, chống tham nhũng là một trong những nhiệm vụ cấp
thiết lâu dài để xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trên
thực tế hiện nay, nạn tham nhũng đã và đang gây ra rất nhiều tổn thất trên các lĩnh vực
trong nước lẫn quốc tế. Trong những năm gần đây, mặc dù Việt Nam có nhiều nỗ lực
phòng, chống tham nhũng, nhưng vẫn chưa đủ mạnh và chưa mang lại những bước đột
phá cần thiết. Để cuộc chiến phòng, chống tham nhũng thực sự đem lại hiệu quả,
chúng ta phải khắc phục những yếu kém trên, đặc biệt là tăng cường, mở rộng dân chủ
trong xã hội. Quá trình mở rộng dân chủ cũng chính là quá trình tăng cường khả năng
tiếp cận thông tin của người dân, tăng tính minh bạch trong hoạt động của bộ máy nhà
nước theo hướng “phục vụ nhân dân”, từ đó giảm dần tệ quan liêu, tham nhũng, phiền
hà, sách nhiễu nhân dân. Thực hiện công khai, dân chủ trong hoạt động của bộ máy
nhà nước là cách tốt nhất để khắc phục những tiêu cực trong các cơ quan công quyền,
góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam để
xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả.
Đồng thời, cần nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Các tổ chức chính trị - xã hội nước ta cần phải đổi mới
mạnh mẽ phương thức hoạt động để nâng cao vị trí, vai trò của mình, để tham gia giám
sát, phản biện đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; tạo ra khối
đoàn kết toàn dân, chăm lo đời sống nhân dân, thực hiện dân chủ trong đời sống xã
hội; đồng thời tham gia vào bảo vệ chính quyền, xây dựng Đảng; bảo vệ quyền lợi
chính đáng của nhân dân.
7.3. Đối với lĩnh vực xã hội
Quá trình đổi mới và phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội cùng với việc tăng cường và mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong
những năm qua đã giúp đem lại nhiều thành tựu to lớn cả về thể chất lẫn tinh thần cho
toàn dân. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa là xu thế phát triển tất yếu của xã hội,
đồng thời cũng là động lực chính thúc đẩy tiến trình đổi mới ở nước ta.

38
Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu
hướng chủ yếu mà nước ta theo đuổi. Nhận thức rõ tính tất yếu và khách quan của xu
thế quốc tế trên nhiều lĩnh vực đời sống như: kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học, giáo
dục, Việt Nam đang từng bước một hội nhập sâu, rộng để học hỏi và áp dụng những
giá trị tích cực trong việc xây dựng và hoàn thiện đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, vẫn còn những khuyết điểm, hạn
chế đối với quá trình xây dựng nền dân chủ ở nước ta. Quyền làm chủ của nhân dân
chưa thực sự được tôn trọng và phát huy triệt để. Việc thực hiện các quyền “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở nhiều nơi còn mang tính hình thức cao. Tình trạng
vi phạm quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi còn xảy ra nghiêm trọng. Một trong
những biểu hiện rõ nhất đó là các vụ khiếu kiện tập thể, khiếu kiện vượt cấp, kéo dài
của nhân dân đã xảy ra ở nhiều địa phương trong những năm qua không những không
giảm mà còn có xu hướng tăng lên, làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển chung.
Thế nên, việc xây dựng và từng bước hoàn thiện các hệ thống giám sát, phản biện
xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân là vô cùng cần thiết và quan trọng.
Tăng cường công tác giám sát, phản biện xã hội là yếu tố đảm bảo xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, ảnh hưởng tới đời sống tâm lý của nhân dân khi
nhìn nhận đánh giá các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Do đó, cần công khai hóa minh bạch hóa, dân chủ hóa về thông tin, về chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến lợi ích
chính đáng của nhân dân. Cần cụ thể hóa hơn nữa các quy chế và hình thức thể hiện sự
tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân đối với các vấn đề phát triển của đất nước.
Bên cạnh đó, cần nâng cao dân trí, văn hóa pháp luật cho toàn thể xã hội (cán bộ
giảng viên, công chức, viên chức, nhân dân…), đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo
dục ý thức dân chủ cho người dân, thực sự hướng về cơ sở, đến với dân, nói cho dân
nghe và nghe dân nói. Công tác tư tưởng phải gắn với vấn đề dân sinh, dân trí, dân
quyền để thực hiện được dân chủ.

39
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản quy phạm pháp luật
[1] Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
B. Tài liệu tham khảo
[1] Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, 2008: Nxb
Chính trị quốc gia
[2] Nhiều tác giả (2015) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/
lan-thu-xi/cuong-linh-xay-dung-dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-
bo-sung-phat-trien-nam-2011-1528
[3] Nhiều tác giả (2000) Hồ Chí Minh: Toàn tập: Nxb Chính trị quốc gia
[4] Nguyễn Viết Thông (2022)Tạp chí cộng sản: Phát huy vai trò của nhân dân và
dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/
2018/825039/phat-huy-vai-tro-cua-nhan-dan-va-dua-vao-nhan-dan-de-xay-dung-
dang.aspx
[5] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, 2021: Nxb Chính trị quốc gia
Sự thật
[6] Nhiều tác giả (2018) Tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên, Bộ nội vụ
https://dtbd.moha.gov.vn/uploads/resources/admin/files/CD11-20/CS_TLBD_Chuyen
de19.pdf
[7] Đại học Luật Hà nội (2009) Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật Đại học
Luật Hà nội: Nxb Công an Nhân dân
[8] Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/
lan-thu-xiii/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-dang-cong-san-viet-nam-3660
[9] Trần Bình Trọng (2021) Báo Trà Vinh: Thực hiện tốt nhiệm vụ giữ gìn an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh
https://www.baotravinh.vn/chinh-tri/thuc-hien-tot-nhiem-vu-giu-gin-an-ninh-chinh-tri-
trat-tu-an-toan-xa-hoi-tren-dia-ban-tinh-11325.html
[10] Toàn văn Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, 2021
https://baochinhphu.vn/toan-van-nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-
cua-dang-102288263.htm

40
[11] Trần Ngọc Đường (2020) Tạp chí cộng sản: Các nguyên tắc pháp quyền và việc
tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta
https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/
V8hhp4dK31Gf/content/cac-nguyen-tac-phap-quyen-va-viec-tuan-thu-cac-nguyen-tac-
phap-quyen-trong-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-o-nuoc-ta
[12] Nguyễn Chí Vịnh (2014) Tạp chí quốc phòng toàn dân: Đẩy mạnh hội nhập
quốc tế và đối ngoại về quốc phòng trong tình hình mới
http://tapchiqptd.vn/vi/nhung-chu-truong-cong-tac-lon/day-manh-hoi-nhap-quoc-te-
va-doi-ngoai-ve-quoc-phong-trong-tinh-hinh-moi/5055.html
[13] PV (2022) Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam: Đối thoại Toàn cầu ASEAN
lần thứ hai: Phục hồi toàn diện sau COVID-19
https://dangcongsan.vn/thoi-su/doi-thoai-toan-cau-asean-lan-thu-hai-phuc-hoi-toan-
dien-sau-covid-19-624363.html
[14] Nhiều tác giả (2015) Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, Hệ thống tư liệu –
văn kiện đảng: Nhà nước và cách mạng
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/v-i-lenin/
nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/nha-nuoc-va-cach-mang-3143
[15] Mạnh Hùng (2022) Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam: Củng cố quan hệ
láng giềng hữu nghị, đoàn kết gắn bó Việt Nam – Campuchia
https://dangcongsan.vn/doi-ngoai/cung-co-quan-he-lang-gieng-huu-nghi-doan-ket-
gan-bo-viet-nam-campuchia-622761.html
[16] Bộ giáo dục và đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội:
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
[17] Cương, T. N. (2023). Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trong
dòng chảy lịch sử.
[18] Dương Thị Mai. (2012). Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Hà Nội: Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
[19] Hùng, T. N. (2017). Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam thực sự là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tạp chí Dân vận
số 9.
[20] Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới. (2022). Hà Nội.
[21] Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XII. (2016)., (p. 171). Hà Nội.
[22] Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XIII. (2021), Hà Nội.

41
[23] Võ Khánh Linh, “Về quan niệm, bản chất, giá trị, đặc trưng của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Báo Nhân Dân điện tử.
[24] “Bất bình đẳng xã hội leo thang tại Mỹ”
https://vtv.vn/the-gioi/bat-binh-dang-xa-hoi-leo-thang-tai-my-
20180622180007928.htm
[25] Xuân Mai, “Đói nghèo ở Mỹ”
https://nld.com.vn/thoi-su-quoc-te/doi-ngheo-o-my-20171206210813428.htm
[26] Ngọc Bích, “Nước Mỹ và tình trạng bất bình đẳng xã hội”,
https://nguoibaovequyenloi.com/User/ThongTin_ChiTiet.aspx?
MaTT=20135118057937807&MaMT=25
[27] Hoàng Chí Bảo, ““Tam quyền phân lập” không phải là sự lựa chọn mô hình tổ
chức nhà nước của Việt Nam”
http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/tam-quyen-
phan-lap-khong-phai-la-su-lua-chon-mo-hinh-to-chuc-nha-nuoc-cua-viet-nam/
10566.html
[28] Trần Thị Diệu Hương, “Xây dựng án lệ trong thông luật Hoa Kỳ và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam”
https://tapchitoaan.vn/xay-dung-an-le-trong-thong-luat-hoa-ky-va-bai-hoc-kinh-
nghiem-cho-viet-nam
[29] Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Tập bài giảng Lý luận về nhà nước, Nhà
xuất bản Hồng Đức
[30] Trung tâm Thông tin - Thư viện và Nghiên cứu khoa học, Văn phòng Quốc hội
(2012), Tuyển tập Hiến Pháp một số nước trên thế giới, Nhà xuất bản Thống kê Hà
Nội.
[31] Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Trong Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (trang 159-163). Hà Nội: Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia sự thật.
[32] Lê Thanh Thập. (2010). Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối với việc
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Tạp chí Luật học số
7/2010, 29-36.
[33] Mai Hải Oanh. (2020). Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Được truy lục từ Tạp chí Cộng sản:
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/817155/phat-huy-dan-
chu-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-hien-nay.aspx

42
[34] Nguyễn Phú Trọng. (2021). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Được truy lục từ Tạp chí Cộng
sản:
https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/
content/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-
chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam
[35] Nguyễn Thị Hoa. (2020). Xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay. Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Khoa học Xã hội và Nhân văn -
Tập 129, Số 6D, 2020, 131-140.
[36] Nguyễn Xuân Tế. (2004). Tư tưởng và phương pháp Hồ Chí Minh với việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Tạp san Khoa học Đại học Mở - Bán công
Tháng 1-2004, 34-36.
[37] Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những vấn đề đặt ra với
việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình – GS.TS. Phan Trung
Lý.
[38] Hiền hoà Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân- Hiền Hoà, Phạm Cường
https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-xhcn-cua-
nhan-dan-do-nhan-dan-vi-nhan-dan-626524.html

43

You might also like