You are on page 1of 54

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ II TẠI TP.

HCM
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

-----🙞🙜🕮🙞🙜----

TIỂU LUẬN:
PHÂN TÍCH NỀN DÂN CHỦ XHCN VÀ VẬN
DỤNG VÀO ĐIỀU KIỆN CỦA VIỆT NAM

Môn học: Chủ nghĩa xã hội khoa học – ML: 177


Giảng viên hướng dẫn: Giang Thị Trúc Mai
Nhóm Minalism

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2022


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM MINALISM

STT HỌ VÀ TÊN MSSV

1 Nguyễn My Na 2115113169

2 Đặng Thị Khánh Ly 2115113150

3 Dương Huỳnh Huyền Vi 2115113307

4 Trịnh Đức Minh 2114113078

5 Lê Ngọc Thiên Minh 2115113159

6 Lê Thị Khả Tương 2111113258

7 Lê Thị Mỹ Lợi 2111113148

8 Phan Đình Bảo Anh 2114113005

9 Hoàng Việt Quỳnh 2111113233

10 Lê Xuân Bảo Trung 2115113299

11 Lê Văn Hoàng Long 1911115252


i

MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................... i

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT................................................................................... iv

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ........................................................................ 2

1.1. Khái niệm dân chủ và nền dân chủ .............................................................. 2

1.1.1. Quan niệm về dân chủ............................................................................ 2

1.1.2. Quan niệm về nền dân chủ .................................................................... 2

1.1.3. Sự ra đời, phát triển của dân chủ và các nền dân chủ ........................ 3

1.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa .............................................................................. 4

1.2.1. Quá trình ra đời và phát triển của xã hội chủ nghĩa .......................... 4

1.2.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ......................................... 5

1.2.2.1. Về chính trị........................................................................................ 5

1.2.2.2. Về kinh tế .......................................................................................... 6

1.2.2.3. Về văn hóa – xã hội .......................................................................... 7

1.2.3. Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
chủ xã hội chủ nghĩa ......................................................................................... 7

1.2.3.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là hệ thống chuyên chính vô sản, nhà
nước chuyên chính vô sản kiểu dân chủ cộng hòa ......................................... 7

1.2.3.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện sâu sắc bản chất giai cấp công
nhân và tính nhân dân rộng rãi ....................................................................... 9

1.2.3.3. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là thành quả đấu tranh cách mạng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản................................................................................................................10

1.2.3.4. Dân chủ xã hội chủ nghĩa sử dụng tập trung dân chủ hay dân chủ
tập trung làm nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt cơ bản của các cộng đồng và
các tổ chức chính trị, xã hội ......................................................................... 12
ii

1.2.3.5. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự kết tinh các giá trị xã hội, giá trị văn
minh, văn minh phản ánh trạng thái, mức độ giải phóng con người một cách
toàn diện và triệt để trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ............... 14

1.3. Nhà nước xã hội chủ nghĩa ......................................................................... 14

1.3.1. Khái niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa ................................................ 14

1.3.2. Bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước dân chủ xã hội chủ
nghĩa .......................................................................................................................... 15

1.3.2.1. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa ........................................ 15

1.3.2.2. Chức năng của nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa........................ 16

1.3.3. Mối quan hệ giữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội
chủ nghĩa ......................................................................................................... 17

CHƯƠNG 2: VIỆT NAM VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN
NAY .................................................................................................................................... 19

2.1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ................................ 19

2.2. Những yếu tố thời đại tác động tới nhận thức về dân chủ xã hội chủ
nghĩa ..................................................................................................................... 22

2.2.1. Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức ............. 22

2.2.2. Quá trình toàn cầu hóa ........................................................................ 25

2.3. Những yếu tố trong nước tác động tới nhận thức về dân chủ xã hội
chủ nghĩa .............................................................................................................. 27

2.3.1. Yếu tố kinh tế ........................................................................................ 27

2.3.2. Yếu tố chính trị - xã hội ....................................................................... 28

2.3.3. Yếu tố văn hóa ...................................................................................... 30

2.4. Nội dung đổi mới đất nước ở Việt Nam hiện nay ..................................... 31

2.4.1. Xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đổi
mới, dân chủ hóa tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị dưới sự lãnh
iii

đạo của Đảng - thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực chính
trị ..............................................................................................................31

2.4.2. Xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa - thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế ........... 33

2.4.3. Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học - thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa trong lĩnh vực văn hóa ......................................................................... 35

2.4.4. Xây dựng, phát triển xã hội đoàn kết, đồng thuận công bằng, an
sinh, văn minh - thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực xã hội
ở Việt Nam....................................................................................................... 37

2.5. Thực trạng nền dân chủ hiện nay tại Việt Nam........................................ 39

2.5.1. Những thành tựu đạt được .................................................................. 39

2.5.2. Những hạn chế còn tồn tại ................................................................... 41

CHƯƠNG 3: TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC GÓP PHẦN
XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM .............. 43

KẾT LUẬN ................................................................................................................ v

TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... vi


iv

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Từ đầy đủ


CCVS Chuyên chính vô sản

CMCN Cách mạng công nghiệp


CMKHCN Cách mạng khoa học - công nghệ

CNXH Chủ nghĩa xã hội


KTNN Kinh tế nhà nước

KTTN Kinh tế tư nhân

KTTT Kinh tế thị trường

TLSX Tư liệu sản xuất

XHCN Xã hội chủ nghĩa

LLSX Lực lượng sản xuất


1

LỜI MỞ ĐẦU
Theo tiến trình lịch sử, xã hội loài người đã trải qua nhiều hình thái kinh tế xã
hội khác nhau, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, từ chưa tiến bộ đến tiến bộ. Theo
Chủ nghĩa Mác - Lênin, “hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa
duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu
quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của
lực lượng sản xuất, và với một kiến thức thượng tầng tương ứng được xây dựng trên
những quan hệ sản xuất đó”.
Tính đến nay, lịch sử loài người trải qua năm hình thái kinh tế xã hội từ thấp
đến cao: hình thái công xã nguyên thủy, hình thái chiếm hữu nô lệ, hình thái phong
kiến, hình thái tư bản chủ nghĩa, hình thái cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là
chủ nghĩa xã hội. Đây là chế độ xã hội cao nhất tính đến thời điểm hiện tại với dân
chủ là bản chất.
Bài tiểu luận này trình bày nội dung về dân chủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
và vận dụng vào điều kiện của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua cơ sở lý thuyết và phân tích các yếu tố bên trong và bên ngoài nước ta.
Hơn hết, hơn 35 năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI
tháng 12/1986, nhận thức về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam từng bước
được nâng cao và thực tiễn chứng minh nước ta đã đạt được những thành tựu đáng
kể. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề còn tồn đọng cần quan tâm. Thấu hiểu điều đó,
nhóm thực hiện bài tiểu luận nhằm tìm hiểu các nội dung trong đường lối đổi mới ở
Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở đó, bài tiểu luận được chia thành 03 phần như sau:
 Chương 1: Cơ sở lý thuyết
 Chương 2: Việt Nam và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hiện nay
 Chương 3: Trách nhiệm của sinh viên trong việc góp phần xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, bài tiểu luận của nhóm không tránh
khỏi những thiếu sót, nhóm mong nhận được sự nhận xét, góp ý của cô để rút kinh
nghiệm trong tương lai.
2

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Khái niệm dân chủ và nền dân chủ
1.1.1. Quan niệm về dân chủ
Ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII - VI trước Công nguyên, bởi các nhà tư
tưởng Hy Lạp cổ đại, thuật ngữ để nói đến dân chủ là cụm từ “demoskratos”. Theo
đó, dân chủ được hiểu là nhân dân cai trị và sau này các nhà chính trị gọi đơn giản
là quyền lực của nhân dân hay quyền lực thuộc về nhân dân. Nội dung của khái
niệm trên về dân chủ cơ bản được giữ nguyên đến ngày nay. Tuy nhiên, giữa hai
cách hiểu ở cổ đại và hiện nay có sự khác biệt cơ bản, đó là ở tính chất trực tiếp của
mối quan hệ sở hữu quyền lực công cộng và cách hiểu về nội hàm của khái niệm
nhân dân.
Theo các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ là thành quả của quá
trình đấu tranh giai cấp cho những giá trị tiến bộ của nhân loại, là một hình thức tổ
chức nhà nước của giai cấp cầm quyền và là một trong những nguyên tắc hoạt động
của các tổ chức chính trị - xã hội. Cụ thể hơn, theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, dân chủ có những nội dung chính sau: thứ nhất, trên phương diện quyền lực,
dân chủ có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân và nhân dân là chủ nhân của nhà
nước; thứ hai, trên phương diện chế độ xã hội và chính trị, dân chủ là một hình thức
hay hình thái nhà nước, là chính thể dân chủ hay chế độ dân chủ; thứ ba, trên
phương diện tổ chức và quản lý xã hội, dân chủ là một nguyên tắc hoạt động -
nguyên tắc dân chủ.
1.1.2. Quan niệm về nền dân chủ
Nền dân chủ (hay chế độ dân chủ) là khái niệm phản ánh dân chủ trong tính
được cấu thành bởi nhiều yếu tố: yếu tố vật chất và tinh thần; yếu tố kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hóa, pháp luật dân chủ; yếu tố thể chế và thiết chế dân chủ; cơ chế,
nguyên tắc và các giá trị, chuẩn mực dân chủ…
Nói cách khác, nền dân chủ là khái niệm phản ánh chỉnh thể xã hội được tổ
chức, vận hành theo các nguyên tắc, yêu cầu và chuẩn mực dân chủ nhằm thực thi
quyền lực và bảo đảm lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Trong xã hội có giai cấp và nhà nước, nền dân chủ ở mỗi quốc gia, dân tộc
được thiết lập với mức độ, tính chất như thế nào, đều phụ thuộc vào tính chất, trạng
3

thái của thể chế chính trị, trình độ phát triển kinh tế; năng lực, phẩm chất của giới
cầm quyền; trình độ học vấn, ý thức, năng lực thực hành dân chủ của nhân dân;
truyền thống văn hóa - chính trị của quốc gia, dân tộc đó và những nhân tố khách
quan của thời đại.
1.1.3. Sự ra đời, phát triển của dân chủ và các nền dân chủ
Nhu cầu về dân chủ xuất hiện từ rất sớm trong chế độ cộng sản nguyên thủy.
Lúc này xã hội đã xuất hiện hình thức manh nha của dân chủ là “dân chủ nguyên
thủy” hay “dân chủ quân sự” (Ph.Ăngghen). Đặc trưng cơ bản của hình thức dân
chủ này là nhân dân bầu ra thủ lĩnh quân sự thông qua “Đại hội nhân dân”: mọi
người đều có quyền phát biểu, tham gia quyết định bằng cách giơ tay hoặc hoan hô.
Mặc dù thời kỳ này, trình độ sản xuất còn kém phát triển, nhưng nhân dân có quyền
lực thật sự.
Khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển, chế độ tư hữu xuất hiện, giai
cấp mới làm cho nền dân chủ chủ nô ra đời. Đặc trưng của hình thức này là dân
tham gia bầu ra nhà nước, tuy nhiên, dân ở đây chỉ gồm giai cấp chủ nô và thành
phần công dân tự do (thương gia, tăng lữ, một số trí thức). Các thành phần còn lại là
nô lệ và họ không được tham gia vào công việc nhà nước. Như vậy, dân chủ chủ nô
chỉ thực hiện dân chủ cho thiểu số.
Khi chế độ chiếm hữu nô lệ tan rã, lịch sử xã hội loài người bước sang chế độ
độc tài chuyên chế phong kiến. Giai cấp thống trị của thời kì này được cho là đấng
tối cao và việc tuân theo ý chí của giai cấp thống trị là bổn phận. Do đó, ý thức về
dân chủ và đấu tranh để thực hiện quyền làm chủ không có bước tiến đáng kể nào.
Vào cuối thế kỉ XIV - đầu thế kỉ XV, giai cấp tư sản với tư tưởng tiến bộ về tự
do, công bằng và dân chủ, đã mở đường cho sự ra đời của nền dân chủ tư sản. Theo
Chủ nghĩa Mác - Lênin: dân chủ tư sản là một bước tiến lớn của nhân loại với
những giá trị nổi bật về quyền tự do, bình đẳng, dân chủ. Tuy nhiên, do được xây
dựng trên nền tảng kinh tế là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nên trên thực tế, nền
dân chủ tư sản vẫn là nền dân chủ của thiểu số những tư sản - người nắm tư liệu sản
xuất.
Khi Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi (1917), nhân dân
lao động nhiều quốc gia đã giành được quyền làm chủ nhà nước và xã hội, thiết lập
4

nhà nước công - nông, thiết lập nền dân chủ vô sản - nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
thực hiện quyền lực của đa số nhân dân - xây dựng nhà nước thực sự, dân làm chủ
nhà nước xã hội, bảo vệ quyền của đại đa số nhân dân.
Với tư cách là một hình thái nhà nước, một chế độ chính trị, trong lịch sử nhân
loại, có ba nền (chế độ) dân chủ: nền dân chủ chủ nô - chế độ chiếm hữu nô lệ; nền
dân chủ tư sản - chế độ tư bản chủ nghĩa; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa - chế độ xã
hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, muốn biết một nhà nước có phải là nhà nước dân chủ thật
sự không thì phải xác định dân là ai và bản chất chế độ xã hội như thế nào.
1.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Quá trình ra đời và phát triển của xã hội chủ nghĩa
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn quá trình hình thành và phát triển của các nền
dân chủ trong lịch sử và trực tiếp nhất là nền dân chủ tư sản, các nhà sáng lập Chủ
nghĩa Mác - Lênin cho rằng, đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu dài, phức
tạp và giá trị của nền dân chủ tư sản chưa phải là hoàn thiện nhất, do đó, tất yếu
xuất hiện một nền dân chủ mới, cao hơn nền dân chủ tư sản và đó chính là nền dân
chủ vô sản hay còn gọi là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được phôi thai từ cuộc đấu tranh giai cấp ở Công
xã Pari năm 1871, tuy nhiên chỉ đến khi Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thành
công với sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, nền dân chủ
XHCN mới chính thức được xác lập.
Quá trình phát triển của nền dân chủ XHCN là từ thấp tới cao, từ chưa hoàn
thiện đến hoàn thiện; có sự kế thừa một cách chọn lọc giá trị của nền dân chủ trước
đó, trước hết là nền dân chủ tư sản. Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ XHCN là
không ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao mức độ giải phóng cho những người lao
động, thu hút họ tham gia tự giác vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Nền dân chủ XHCN càng hoàn thiện bao nhiêu thì lại càng tự tiêu vong bấy
nhiêu. Giải thích cho sự tiêu vong này, theo V.I.Lênin, đó là tính chính trị của dân
chủ sẽ mất đi trên cơ sở không ngừng mở rộng dân chủ đối với nhân dân, xác lập
địa vị là chủ thể quyền lực của nhân dân, tạo điều kiện để họ tham gia ngày càng
đông đảo và có ý nghĩa quyết định vào sự quản lý nhà nước, quản lý xã hội (xã hội
tự quản). Quá trình đó làm cho dân chủ trở thành một thói quen, một tập quán trong
5

sinh hoạt xã hội… để đến lúc nó không còn tồn tại như một thể chế nhà nước, một
chế độ, tức là mất đi tính chính trị của nó. Tuy nhiên, đây là quá trình lâu dài, khi xã
hội đã đạt trình độ phát triển rất cao, không còn sự phân chia giai cấp, đó là xã hội
cộng sản chủ nghĩa đạt tới mức độ hoàn thiện, khi đó dân chủ XHCN với tư cách là
một chế độ nhà nước cũng tiêu vong, không còn nữa.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu dân chủ XHCN là nền dân chủ cao
hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực thuộc
về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm trong sự thống
nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
1.2.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Theo V.I.Lênin, dân chủ trong chủ nghĩa xã hội bao quát tất cả các mặt của
đời sống xã hội. Với tư cách là đỉnh cao trong toàn bộ lịch sử tiến hóa của dân chủ,
dân chủ XHCN có các bản chất cơ bản sau:
1.2.2.1. Về chính trị
Bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị
của giai cấp công nhân thông qua Đảng của nó, thực hiện quyền lực trên mọi lĩnh
vực xã hội, thể hiện qua quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người, được thỏa mãn
ngày càng cao hơn các nhu cầu và lợi ích nhân dân. Tuy nhiên, quyền lực không
phải chỉ để thực hiện lợi ích của công nhân, mà còn để thực hiện lợi ích chung toàn
thể nhân dân, trong đó có giai cấp công nhân. Yếu tố quan trọng đảm bảo quyền lực
thực sự thuộc về nhân dân là Đảng Cộng sản bởi vì đây là Đảng lãnh đạo xã hội về
mọi mặt (“sự thống nhất chính trị” - V.I.Lênin), đại diện cho trí tuệ, lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Dân chủ XHCN mang tính nhất
nguyên về chính trị.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động làm chủ các mối quan
hệ chính trị trong xã hội. Họ có quyền giới thiệu các đại biểu tham gia vào bộ máy
chính quyền từ trung ương đến địa phương, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng
chính sách, pháp luật, xây dựng bộ máy và cán bộ, nhân viên nhà nước. Quyền được
tham gia rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước của nhân dân chính là nội dung
dân chủ trên lĩnh vực chính trị.
6

V.I.Lênin đã diễn đạt một cách khái quát về bản chất và mục tiêu của dân chủ
XHCN rằng: đó là nền dân chủ “gấp triệu lần dân chủ tư sản”. Bàn về dân chủ xã
hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng bày tỏ: “Chế độ
dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa đều thực chất là của dân, do
dân và vì dân. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, khác với cách mạng xã hội trước
đây là ở chỗ nó là cách mạng của số đông, vì lợi ích của số đông.”.
Như vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có
tính chất nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa khác
với nền dân chủ tư sản ở bản chất giai cấp (giai cấp công nhân và giai cấp tư sản);
cơ chế nhất nguyên và cơ chế đa nguyên; một đảng hay nhiều đảng; bản chất nhà
nước (nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản).
1.2.2.2. Về kinh tế
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất
chủ yếu của toàn xã hội, đáp ứng phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất
dựa trên cơ sở khoa học – công nghệ hiện đại, nhằm thỏa mãn ngày càng cao những
nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua quá trình ổn định chính trị,
phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Mác - Lênin và sự quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Dân
chủ với bản chất kinh tế sẽ đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân về các tư liệu sản
xuất chủ yếu; quyền làm chủ trong quá trình sản xuất kinh doanh, quản lý và phân
phối; coi lợi ích kinh tế của người lao động là động lực cơ bản nhất có sức thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa khác với bản chất kinh tế
của các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất công, nhưng nó không hình thành theo
mong muốn của bất kỳ ai. Nó là sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu trong lịch sử
nhân loại, đồng thời lọc bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm… của các chế
độ kinh tế trước đó.
Khác với nền dân chủ tư sản - nền kinh tế dựa trên sự chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất chủ yếu và phân phối theo quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất đó,
bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện chế độ công hữu về
7

tư liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện chế độ phân phối lợi ích theo kết quả lao động
chủ yếu.
1.2.2.3. Về văn hóa – xã hội
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác - Lênin – hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân, làm chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã
hội mới. Đồng thời, nó kế thừa và phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống
dân tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội… mà
nhân loại tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc khác.
Trong nền dân chủ XHCN, nhân dân được làm chủ những giá trị văn hóa tinh
thần; được nâng cao trình độ văn hóa, có điều kiện để phát triển cá nhân. Dưới góc
độ này dân chủ là một thành tựu văn hóa, một quá trình sáng tạo văn hóa, thể hiện
khát vọng tự do được sáng tạo và phát triển của con người. Nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa còn ra sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, kết hợp hài hòa lợi ích giữa cá nhân,
tập thể và lợi ích toàn xã hội.

1.2.3. Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ xã
hội chủ nghĩa
1.2.3.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là hệ thống chuyên chính vô sản, nhà nước
chuyên chính vô sản kiểu dân chủ cộng hòa
Chuyên chính vô sản (CCVS) là một lý thuyết của Chủ nghĩa Mác - Lênin, là
một bộ phận quan trọng của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Theo đó, chuyên chính
vô sản là việc giai cấp công nhân nắm quyền lực nhà nước và sử dụng quyền lực
nhà nước trấn áp giai cấp tư sản để tiến hành xây dựng một xã hội không giai cấp.
Đây là sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân
chủ đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chuyên chính với
những phần tử thù địch, chống lại nhân dân. Chuyên chính vô sản được những
người cộng sản cho là một trong những tư tưởng đặc sắc và trọng yếu nhất của chủ
nghĩa Mác về vấn đề nhà nước.
Thực tiễn lịch sử xã hội loài người đã chứng minh, mọi nhà nước đều phải
thực hiện chức năng chuyên chính để giữ vững quyền lực chính trị của giai cấp
thống trị. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin cho rằng, với tính chất là chế độ chính
8

trị, chế độ nhà nước, dân chủ XHCN có thể có sự đa dạng về hình thức nhưng bản
chất của nó là chuyên chính vô sản. V.I.Lênin viết: “Bước chuyển từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa cộng sản, cố nhiên không thể không đem lại rất nhiều hình thức
chính trị khác nhau, nhưng thực chất của những hình thức ấy tất nhiên sẽ chỉ là một,
tức là: chuyên chính vô sản”. Hệ thống CCVS được V.I.Lênin hình dung như một
hệ thống những bánh xe răng cưa của cỗ máy, phức tạp và có quan hệ chặt chẽ với
nhau bao gồm Đảng Cộng sản, Nhà nước Xô viết (hay Nhà nước CCVS) và công
đoàn “ở giữa Đảng và chính quyền Nhà nước”, trong đó, mỗi “bánh xe răng cưa” có
vị trí và vai trò xác định. Không chỉ vậy, nhà nước phải thực hiện nền dân chủ của
mình, bởi dân chủ không chỉ được nhìn nhận như những khát vọng sâu xa, những
quyền tự nhiên, những giá trị nhân văn mà quan trọng hơn là chế độ chính trị - nhà
nước, nó gắn với lợi ích, đặc điểm của một chế độ chính trị, một giai cấp thống trị
về kinh tế nhất định trong lịch sử. Tuy nhiên, mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, mỗi
giai cấp cầm quyền khác nhau đều có tiêu chí chuyên chính và dân chủ riêng nhằm
phục vụ lợi ích của giai cấp mình. Dân chủ vô sản là CCVS và CCVS chính là nhà
nước của giai cấp vô sản. Từ mô hình lịch sử kiểu dân chủ cộng hòa của Công xã
Pari và Xô viết Nga, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã dùng nhiều thuật ngữ
khác nhau để diễn đạt về CCVS. Đó là dân chủ vô sản, dân chủ Xô viết, nhà nước
Xô viết, nhà nước CCVS, hệ thống CCVS, nhà nước kiểu mới, nhà nước nửa nhà
nước, nhà nước tự tiêu vong… V.I.Lênin còn viết: “Chế độ dân chủ vô sản so với
bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần, chính quyền Xô
viết so với nước cộng hòa tư sản dân chủ nhất thì cũng dân chủ hơn gấp triệu lần”.
Từ những lý luận trên cho thấy, giữa chuyên chính và dân chủ có mối quan hệ biện
chứng với nhau.
Vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Dân chủ và chuyên chính đi đôi với nhau. Muốn
dân chủ thực sự phải chuyên chính thực sự vì không chuyên chính thực sự, bọn thù
địch sẽ làm hại dân chủ của nhân dân. Dân chủ và chuyên chính là quan hệ mật thiết
với nhau”. Đồng thời, Người cũng nhấn mạnh nội dung chính trị của dân chủ: dân
chủ là chế độ chính trị, hình thức nhà nước do nhân dân lập nên và nhân dân kiểm
soát. Dân chủ XHCN ở Việt Nam là nền dân chủ cộng hòa, trong đó, “dân là chủ”,
9

“dân làm chủ”, “tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân". Như vậy, dân chủ
XHCN ở Việt Nam là chế độ chính trị, nhà nước của nhân dân, do nhân dân lập ra
và phục vụ lợi ích của nhân dân.
1.2.3.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện sâu sắc bản chất giai cấp công nhân
và tính nhân dân rộng rãi
Với nghĩa là quyền làm chủ hay bản chất giai cấp thống trị của dân chủ, nền
dân chủ XHCN thể hiện sâu sắc bản chất giai cấp công nhân. Trong Những nguyên
lý của chủ nghĩa cộng sản (1847), để trả lời câu hỏi rằng cuộc cách mạng vô sản sẽ
diễn biến như thế nào, Ph.Ăngghen viết: Trước hết, nó tạo ra một chế độ dân chủ và
nhờ đó mà trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền thống trị chính trị của giai cấp vô
sản. Theo tinh thần đó, dân chủ vô sản, dân chủ XHCN trước hết là sự thống trị,
làm chủ của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, vì là sản phẩm của cách mạng XHCN -
cuộc cách mạng của số đông, vì lợi ích của số đông nhân dân nên nền dân chủ
XHCN là sự thống trị, làm chủ của đông đảo nhân dân lao động vốn là những người
nghèo khổ và bị áp bức trước kia. V.I.Lênin viết: “dân chủ vô sản là sự thống trị của
đa số đối với thiểu số”; “chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên
minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiền phong của những người lao động, với
đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông
dân, tri thức,...)”.
Mặt khác, trong xây dựng XHCN hiện thực cho thấy, dân chủ XHCN cũng
bao hàm dân chủ và chuyên chính. Chỉ có điều, xét về bản chất, đó phải là một nền
dân chủ kiểu mới (dân chủ đối với những người vô sản và nói chung những người
không có của cải) và chuyên chính kiểu mới (chống giai cấp tư sản). Vì vậy, các
quyền tự do, dân chủ cơ bản của công dân như tự do hội họp, tự do đi lại, tự do báo
chí... được thực hiện trong thực tế cho hầu hết nhân dân lao động. Theo đó, nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa mang tính nhân dân rộng rãi. Trong nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, tất cả các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể và mọi công dân đều được
tham gia vào công việc của nhà nước (bằng thảo luận, góp ý kiến xây dựng chính
sách, hiến pháp, pháp luật,...). Mọi công dân đều có quyền bầu cử, ứng cử và đề cử
vào các cơ quan nhà nước các cấp. Sức sống của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
chính là sự tham gia đông đảo của nhân dân lao động vào quản lý nhà nước, quản lý
10

xã hội. Nhân dân có quyền làm chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, từ kinh tế
- chính trị cho đến văn hóa - xã hội: “Toàn bộ quyền lực tối cao trong nước phải
thuộc về các đại biểu của nhân dân, do nhân dân bầu ra, có thể bị nhân dân bãi chức
bất cứ lúc nào.”.
Từ phân tích trên cho thấy, trong nền dân chủ XHCN, tính nhân dân rộng rãi
không tách rời bản chất giai cấp công nhân; việc thực hiện dân chủ đối với giai cấp
công nhân và đông đảo nhân dân lao động không tách rời việc hạn chế dân chủ,
thậm chí tước đoạt dân chủ đối với bọn bóc lột. Trong các xã hội có giai cấp và nhà
nước, dân chủ là công cụ, phương tiện được giai cấp thống trị dùng để củng cố, bảo
vệ địa vị thống trị của mình thông qua việc luật hóa các quyền công dân, quyền con
người; nhưng đồng thời, dân chủ cũng là ngọn cờ để giai cấp bị thống trị đấu tranh
giành và bảo vệ các quyền của mình. Dưới chế độ tư bản và phong kiến, chuyên
chính là số ít người chuyên chính với đại đa số nhân dân. Dưới chế độ dân chủ nhân
dân, chuyên chính là đại đa số nhân dân chuyên chính với thiểu số phản động chống
lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ dân chủ nhân dân.
Trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta là
nước dân chủ, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Nhân dân ở đây bao
gồm cả cộng đồng người, đồng bào, quần chúng nhân dân, công nhân, nông dân, trí
thức, phụ nữ, thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên, các bậc phụ lão, đồng bào các
dân tộc, tôn giáo, kiều bào ta ở nước ngoài, trong đó trước hết là công nhân, nông
dân, tri thức, những người lao động. Bọn tay sai cho đế quốc, thực dân, bọn phản
bội lợi ích của Tổ quốc thì không thuộc nhân dân, đó là bọn phản nhân dân. Do đó,
trong nền dân chủ XHCN ở Việt Nam, “Đảng lãnh đạo, công nông liên minh, nhân
dân lao động làm chủ nước nhà, xây dựng nhân dân dân chủ chuyên chính, nghĩa là
dân chủ với nhân dân, chuyên chính (trừng trị) bọn phản động”. Đó là sự thống nhất
biện chứng giữa bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân rộng rãi của nền
dân chủ XHCN trong điều kiện hoàn cảnh của dân tộc Việt Nam.
1.2.3.3. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là thành quả đấu tranh cách mạng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Dân chủ XHCN là thành quả đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nhưng cuộc đấu tranh này
11

khác hẳn những cuộc đấu tranh giai cấp trước kia: không phải do thiểu số thực hiện,
hoặc mưu cầu lợi ích cho thiểu số, phong trào vô sản là của khối đại đa số, mưu cầu
lợi ích cho khối đại đa số. C.Mác, Ph.Ăngghen khẳng định, cuộc đấu tranh này
trước hết nó tạo ra một chế độ dân chủ, tạo ra quyền thống trị chính trị của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động nhưng đó mới là mục tiêu trước mắt, là điều kiện
bước đầu của tiến trình cách mạng. Tiếp đó, để chế độ dân chủ không trở nên hoàn
toàn vô ích, giai cấp vô sản và nhân dân lao động phải sử dụng chế độ dân chủ ấy
tiến hành hàng loạt các biện pháp cách mạng nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới trên mọi phương diện, lĩnh vực đời sống để thiết lập một liên hợp, trong đó
sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người.
Từ thực tiễn xây dựng CNXH ở Liên Xô, V.I.Lênin cho rằng, để xây dựng
hoàn thiện nền dân chủ XHCN - một nền dân chủ đầy đủ, thực chất và rộng rãi cho
đại đa số nhân dân lao động, trong điều kiện mới (đã có chính quyền), giai cấp công
nhân và nhân dân lao động vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung,
hình thức mới và với tính chất, mức độ phức tạp, gay go, dai dẳng, quyết liệt hơn
nhiều so với những cuộc đấu tranh giai cấp trước đây. Đối tượng đấu tranh không
chỉ là sự phản kháng, chống đối điên cuồng của giai cấp tư sản và đồng minh của
chúng hòng đòi lại “thiên đường” đã mất, không chỉ là thói ba hoa, quan liêu, hối lộ
trong bộ máy Đảng, Nhà nước mà còn là những tâm lý, thói quen lạc hậu của chính
giai cấp công nhân và nhân dân lao động. V.I.Lênin cũng nhấn mạnh, thực chất của
CCVS không phải chỉ là bạo lực và không phải chủ yếu là bạo lực, nội dung chủ
yếu của đấu tranh giai cấp trong điều kiện CCVS là giai cấp công nhân và nhân dân
lao động phải “đưa ra và thực hiện được một kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn
so với chủ nghĩa tư bản” vì “xét đến cùng, năng suất lao động là cái quan trọng
nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ mới”. Trong điều kiện đó, tính giai cấp,
tính chính trị của dân chủ sẽ dần tiêu vong và nhân dân mới thực sự trở thành người
chủ xã hội, toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân tự quản lý và tự quyết
định mọi vấn đề của bản thân mình. Dân chủ XHCN chính là thành quả đấu tranh
lâu dài với trình độ tự giác và sức sáng tạo cao độ của giai cấp công nhân và đông
đảo nhân dân lao động.
12

Hồ Chí Minh cho rằng, dân chủ XHCN ở Việt Nam không chỉ là thành quả
của đấu tranh giai cấp mà còn là thành quả của đấu tranh giải phóng dân tộc, từ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng XHCN dưới sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân và Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam, cuộc đấu
tranh giai cấp có những đặc thù cả về nội dung và hình thức. Về nội dung, đó là
cuộc đấu tranh chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ,
tốt tươi; đó là cuộc đấu tranh chống bần cùng và lạc hậu để đi đến dân chủ, giàu
mạnh và văn minh. Thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ nhưng thắng bần
cùng, lạc hậu thì khó khăn, phức tạp hơn nhiều. Theo đó, để giải quyết mọi khó
khăn, từ việc chỉnh đốn Đảng, xây dựng chính quyền nhân dân, chuyên chính với
bọn phản động, thù địch; từ việc chống chủ nghĩa cá nhân, trừng trị những kẻ bất
liêm đến việc phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm hay xây dựng đời sống văn
hóa mới… tất cả phải được giải quyết và chỉ có thể giải quyết triệt để bằng cách
“động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của
toàn dân” (Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh). Về hình thức, quá trình đấu tranh
giai cấp phải sử dụng và kết hợp đa dạng hình thức khác nhau, trên cơ sở tập hợp
đông đảo quần chúng nhân dân lao động nhằm chống lại các thế lực thù địch.
1.2.3.4. Dân chủ xã hội chủ nghĩa sử dụng tập trung dân chủ hay dân chủ tập
trung làm nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt cơ bản của các cộng đồng và các tổ chức
chính trị, xã hội
C.Mác và Ph.Ăngghen nhận định rằng, để giai cấp vô sản có thể giành lấy dân
chủ và phát triển nhanh số lượng LLSX, trước hết bộ tham mưu chiến đấu của giai
cấp vô sản (Đảng cộng sản) phải được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc
nhất định, trong đó có nguyên tắc và cơ chế dân chủ. Nguyên tắc này đã được
C.Mác và Ph.Ăngghen bước đầu xác định trong Điều lệ của Liên đoàn những người
cộng sản (1847) và Hội liên hiệp công nhân quốc tế (1864). Sau đó, trong điều kiện
mới của thời đại và từ thực tiễn cách mạng Nga, V.I.Lênin đã xây dựng thành
nguyên tắc tập trung dân chủ. Tại Đại hội IV (còn gọi là Đại hội thống nhất) của
Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga, V.I.Lênin trình bày nguyên tắc tập trung dân
chủ với những nội dung cơ bản của nó và xem đây là nguyên tắc cơ bản có ý nghĩa
sống còn đối với một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Khi Đảng Cộng sản
13

cầm quyền, theo tinh thần “phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của
sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn”, các nguyên
tắc và cơ chế dân chủ trong đó có nguyên tắc tập trung dân chủ được vận dụng vào
trong tổ chức và cơ chế vận hành của nhà nước CCVS, của hệ thống CCVS và trong
quản lý các quá trình kinh tế - xã hội.
Về định nghĩa, tập trung dân chủ nghĩa là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ và khoa
học giữa hai mặt tập trung và dân chủ. Trong đó, dân chủ là điều kiện và là tiền đề
của tập trung; tập trung là cơ sở bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Trong nền
dân chủ XHCN, nội dung của tập trung dân chủ được xây dựng thành hệ thống các
thiết chế, thể chế, chế độ cụ thể (điều lệ, quy định, pháp luật) và được áp dụng trong
tổ chức, lãnh đạo, quản lý xã hội nhằm giải quyết những vấn đề phức tạp giữa cá
nhân và tập thể, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa trung ương và địa phương, giữa bộ
phận với hệ thống,... Theo đó, nội dung của tập trung dân chủ không chỉ là thiểu số
phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức; không chỉ
là chế độ liên bang, chế độ tự trị, tự quản; không chỉ là chế độ báo cáo, công khai,
giám sát, kiểm kê, kiểm soát, tự phê bình và phê bình; mà còn là tự do thảo luận,
thống nhất hành động; thỏa thuận thì chung, trách nhiệm thì riêng… Tuy nhiên,
V.I.Lênin lưu ý, từ trong bản chất, chế độ tập trung dân chủ, vừa khác xa chế độ tập
trung quan liêu vừa khác xa chủ nghĩa vô chính phủ.
Nhất quán với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh cho rằng, trong nền dân
chủ XHCN ở Việt Nam, dân chủ tập trung là cơ chế và là nguyên tắc cơ bản trong
tổ chức, sinh hoạt của Đảng, Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể nhân dân, của cả hệ
thống chính trị, kể cả các hợp tác xã, các đơn vị kinh tế, văn hóa, giáo dục... với nội
dung phong phú. Trong cơ chế, nguyên tắc dân chủ tập trung, ngoài các nội dung
như thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ
chức, tập thể lãnh đạo - cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, Người còn nhấn
mạnh những nội dung khác như: đoàn kết, khoan dung, thương lượng dân chủ,
thống nhất hành động.
14

1.2.3.5. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự kết tinh các giá trị xã hội, giá trị văn
minh, văn minh phản ánh trạng thái, mức độ giải phóng con người một cách
toàn diện và triệt để trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa
C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo rằng, trong tiến trình cách mạng XHCN, dân
chủ XHCN không những sẽ kết tinh trong bản thân nó toàn bộ những giá trị dân chủ
đạt được trong lịch sử mà còn tạo ra những giá trị dân chủ mới về chất. Dân chủ trở
thành giá trị phổ biến của xã hội, thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống để tạo ra
đầy đủ các điều kiện cho sự giải phóng mọi năng lực sáng tạo của con người.
Từ kinh nghiệm thực tiễn của Cách mạng Nga, V.I.Lênin đã nói về tính toàn
diện và triệt để của dân chủ XHCN như là đỉnh cao của sự tiến hóa trong lịch sử
loài người. Về chính trị, dân chủ XHCN đưa đông đảo nhân dân lao động từ địa vị
bị áp bức bóc lột lên vị thế làm chủ xã hội, tham gia thường xuyên và quyết định
vào việc quản lý nhà nước. Về kinh tế, trên cơ sở thiết lập và hoàn thiện quan hệ sản
xuất XHCN, nhân dân lao động làm chủ TLSX, chủ quá trình quản lý và chủ quá
trình phân phối sản phẩm. Về văn hóa và tư tưởng, CNXH khoa học là cơ sở, nền
tảng cho các hình thái ý thức xã hội. Con người được giải phóng khỏi sự bần cùng,
dốt nát, dã man, nô dịch về tư tưởng, tinh thần. Trong xã hội xuất hiện nền văn hóa
mới trên cơ sở kết tinh giá trị tiến bộ của văn hóa, văn minh trong lịch sử nhân loại.
Về xã hội, CNXH từng bước xóa bỏ sự áp bức, bóc lột, hình thành công hữu hóa
TLSX chủ yếu; xóa bỏ sự khác nhau giữa thành thị và nông thôn, lao động chân tay
và trí óc, sự bất bình đẳng, thù hằn dân tộc. Khi đó, nhân dân lao động có thể thực
sự hưởng được tất cả những phúc lợi của nền văn hóa, văn minh và dân chủ. Với ý
nghĩa đó, cho dù có thể có nhiều hạn chế, thiếu sót nhất định trong giai đoạn đầu thì
dân chủ XHCN vẫn thực sự rộng rãi, đầy đủ, thực chất, toàn diện.
Vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt
Nam, Hồ Chí Minh cũng cho rằng dân chủ XHCN Việt Nam là dân chủ mới, mới cả
về nội dung và hình thức, toàn diện; dân chủ thật sự, đến nơi; dân là chủ và làm chủ
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.3. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
1.3.1. Khái niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước mà ở đó, sự thống trị chính trị thuộc
15

về giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra và có sứ mệnh
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ
trên tất cả các mặt của đời sống xã hội trong một xã hội phát triển cao - xã hội xã
hội chủ nghĩa.
1.3.2. Bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.3.2.1. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước mới, có bản chất khác, ưu việt
hơn so với bản chất của các kiểu nhà nước bóc lột trong lịch sử.
Về chính trị, nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân
- giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quần chúng nhân dân lao động.
Chính giai cấp vô sản này là lực lượng thống trị về chính trị. Tuy nhiên, sự thống trị
này hoàn toàn khác biệt về chất so với sự thống trị giai cấp bóc lột trước đây. Sự
thống trị của giai cấp bóc lột cũ là sự thống trị của thiểu số đối với đa số là tất cả
các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội nhằm bảo vệ và duy trì địa vị
của mình. Còn sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản là sự thống trị của đa số
đối với thiểu số là giai cấp bóc lột nhằm giải phóng giai cấp mình và giải phóng tất
cả các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội. Do đó, nhà nước xã hội chủ
nghĩa là đại biểu cho ý chí chung của nhân dân lao động.
Về kinh tế, bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu sự quy định của cơ sở
kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa, đó là quan hệ công hữu về tư liệu sản xuất. Do
đó, không còn tồn tại quan hệ sản xuất bóc lột. Nếu như tất cả các nhà nước bóc lột
khác trong lịch sử đều là bộ máy của thiểu số trấn áp đa số thì nhà nước xã hội chủ
nghĩa vừa là một bộ máy chính trị - hành chính, một cơ quan cưỡng chế, vừa là một
tổ chức quản lý kinh tế - xã hội của nhân dân lao động. Việc chăm lo cho lợi ích của
đại đa số nhân dân lao động trở thành mục tiêu hàng đầu.
Về văn hóa - xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng
tinh thần là lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với những giá trị văn hóa
tiến bộ của nhân loại, đồng thời vẫn giữ những bản sắc riêng của dân tộc. Sự phân
hóa giữa các giai cấp, tầng lớp từng bước được thu hẹp, bình đẳng trong việc tiếp
cận các nguồn lực và cơ hội để phát triển.
16

1.3.2.2. Chức năng của nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa
Tùy theo góc độ tiếp cận, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia
thành các chức năng khác nhau. Chẳng hạn, căn cứ vào phạm vi tác động, chức
năng của nhà nước được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Căn
cứ vào lĩnh vực tác động, chức năng của nhà nước được chia thành chức năng chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,...
Trong đó, cách phân loại tiêu biểu nhất chính là căn cứ vào tính chất của
quyền lực nhà nước. Khi đó, chức năng của nhà nước được chia thành: chức năng
giai cấp (trấn áp) và chức năng xã hội (tổ chức và xây dựng). Xuất phát từ bản chất
của nhà nước xã hội chủ nghĩa, việc thực hiện các chức năng của nhà nước cũng có
sự khác biệt so với các nhà nước trước đó:
Đối với nhà nước bóc lột, việc thực hiện chức năng trấn áp đóng vai trò quyết
định trong việc duy trì địa vị của giai cấp nắm quyền, chiếm hữu tư liệu sản xuất
chủ yếu của xã hội. Ngược lại, nhà nước xã hội xã hội chủ nghĩa, mặc dù vẫn còn
chức năng trấn áp, nhưng đó chỉ là bộ máy do giai cấp công nhân và nhân dân lao
động tổ chức ra để trấn áp giai cấp bóc lột đã bị lật đổ và những phần tử chống đối,
nhằm bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững an ninh chính trị, tạo điều kiện thuận
lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù trong thời kỳ quá độ, chức năng trấn áp
này vẫn còn tồn tại như một tất yếu, không thể loại bỏ được hoàn toàn, đơn giản bởi
vì một xã hội bao giờ cũng sẽ tồn tại những thế lực chống phá, thù địch nên luôn
cần có một giải pháp, công cụ để quản lý. Như V.I.Lênin cũng đã từng khẳng định,
“bất cứ một nhà nước nào cũng đều có nghĩa là dùng bạo lực; nhưng toàn bộ sự
khác nhau là ở chỗ dùng bạo lực đối với những người bị bóc lột hay đối với kẻ đi
bóc lột.”.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam, giữa trấn áp và xã hội, chức
năng xã hội vẫn là chức năng quan trọng hơn do khi đã có được Nhà nước mới
trong thời bình thì công việc xây dựng và tổ chức phải được đặt lên hàng đầu. Chính
quyền mới phải tạo ra được năng suất cao hơn chính quyền cũ, nhờ đó mang lại
cuộc sống tốt đẹp hơn cho đại đa số các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động. Vì
vậy, vấn đề quản lý và xây dựng kinh tế mới là vấn đề then chốt, mang tính quyết
định.
17

Cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới là nội dung chủ yếu và mục
đích cuối cùng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là một sự nghiệp vĩ đại nhưng
đồng thời cũng là một công việc cực kỳ khó khăn và phức tạp. Nó đòi hỏi nhà nước
xã hội chủ nghĩa phải là một bộ máy có đầy đủ sức mạnh để trấn áp kẻ thù và những
phần tử chống đối cách mạng, đồng thời phải là một tổ chức có đủ năng lực để quản
lý và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, trong đó việc tổ chức quản lý kinh tế là
quan trọng, khó khăn và phức tạp nhất.
1.3.3. Mối quan hệ giữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ
nghĩa
Một là: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ sở, nền tảng cho việc xây dựng và
hoạt động của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Chỉ trong xã hội dân chủ xã hội chủ nghĩa, người dân mới có đầy đủ các điều
kiện để thể hiện ý chí của mình, thông qua việc được lựa chọn một cách công bằng,
bình đẳng những người đại diện cho quyền lợi chính đáng của mình vào bộ máy nhà
nước, tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc quản lý. Với những tính
ưu việt của nó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ kiểm soát một cách có hiệu quả
quyền lực của nhà nước, ngăn chặn được sự tha hóa, có thể dễ dàng đưa ra khỏi cơ
quan nhà nước những người thực thi công vụ không còn đáp ứng yêu cầu về phẩm
chất, năng lực, đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu hướng đến lợi ích của người dân.
Ngược lại, nếu các nguyên tắc của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bị vi phạm, thì việc
xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng sẽ không thực hiện được. Khi đó, quyền
lực của nhân dân sẽ bị biến thành quyền lực của một nhóm người, phục vụ cho lợi
ích của một nhóm người.
Hai là: Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ quan trọng cho việc thực thi
quyền làm chủ của người dân.
Công cụ này phát huy tác dụng thông qua việc thể chế hóa ý chí của nhân dân
thành các hành lang pháp lý, phân định một cách rõ ràng quyền và trách nhiệm của
mỗi công dân, là cơ sở để người dân thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời
còn là công cụ bạo lực để ngăn chặn có hiệu quả các hành vi xâm phạm đến quyền
và lợi ích chính đáng của người dân, bảo vệ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo
V.I.Lênin, con đường vận động và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa là ngày
18

càng hoàn thiện các hình thức đại diện nhân dân, thực hiện và mở rộng dân chủ,
nhằm lôi cuốn ngày càng đông đảo nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã
hội. Thông qua hoạt động quản lý của nhà nước, các nguồn lực xã hội được tập hợp,
tổ chức và phát huy hướng đến lợi ích của nhân dân. Ngược lại, nếu nhà nước xã
hội chủ nghĩa đánh mất bản chất của mình sẽ tác động tiêu cực đến nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, sẽ dễ dẫn tới việc xâm phạm quyền làm chủ của người dân, dẫn tới
chuyên chế, độc tài, thủ tiêu nền dân chủ hoặc dân chủ chỉ còn là hình thức.
Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước là thiết chế có chức năng
trực tiếp nhất trong việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện những yêu cầu dân chủ
chân chính của nhân dân. Nó cũng là công cụ sắc bén nhất trong cuộc đấu tranh với
mọi mưu đồ đi ngược lại lợi ích của nhân dân; là thiết chế tổ chức có hiệu quả việc
xây dựng xã hội mới; là công cụ hữu hiệu để vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội được thực hiện… Chính vì vậy, trong hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa, Đảng ta xem nhà nước là “trụ cột”, “một công cụ chủ
yếu, vững mạnh” của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
19

CHƯƠNG 2: VIỆT NAM VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN
NAY
2.1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền từ lâu đã được nhen nhóm và phát triển
trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước cùng với quyền hành lập pháp
phải đi đôi với sự nghiệp xây dựng, củng cố một thể chế hiện đại của dân, do dân và
vì dân. Tất cả các hoạt động, biện pháp của nhà nước đó phải được thực hiện trong
khuôn khổ pháp luật, dựa trên cơ sở một hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng và
các nguyên tắc chủ quyền nhân dân, phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước
nhằm bảo đảm quyền con người, tự do cá nhân, công bằng, bình đẳng trong xã hội.
Nhà nước pháp quyền về cơ bản là thành tựu của nền văn minh nhân loại,
phản ánh trình độ phát triển cao về tổ chức, hoạt động nhà nước, về pháp luật và
thực hiện pháp luật. Khái niệm "nhà nước pháp quyền" được chính thức du nhập
vào xã hội Việt Nam từ cuối năm 1991.
Khác với nhà nước pháp quyền tư sản, pháp luật tư sản không phản ánh đầy đủ
ý chí, nguyện vọng của toàn dân mà chỉ là phản ánh ý chí, nguyện vọng của một bộ
phận nhân dân là giai cấp tư sản. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa biểu hiện
bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là tập trung thể hiện và thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua
thực thi pháp luật, nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của
quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của
Tổ quốc và nhân dân.
Tất cả những điều đó được phản ánh rõ rệt qua các đặc trưng sau của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị
cao nhất là dân vì dân là chủ”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là
chủ”. Với Bác, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực Nhà nước.
Toàn bộ quyền lực Nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân uỷ quyền cho
bộ máy Nhà nước thực hiện, nhằm phụng sự lợi ích của nhân dân. Bộ máy Nhà
20

nước được thiết lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đội ngũ
cán bộ, công chức Nhà nước không thể là các ông quan cách mạng mà là công bộc
của nhân dân do chính nhân dân lập qua thông qua chế độ bầu cử dân chủ. Bầu cử
dân chủ là phương thức thành lập bộ máy Nhà nước đã được xác lập trong nền
chính trị hiện đại, đảm bảo tính chính đáng của chính quyền khi tiếp nhận sự uỷ
quyền quyền lực từ nhân dân.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động trên
cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp.
Trong nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị được
xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến pháp. Vì vậy,
Hiến pháp được coi là Đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất,
quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ
quan Nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm
sự ổn định xã hội và sự an toàn của người dân.
Ngoài ra, Hiến pháp cũng chính là nền tảng có tính chất hiến định để xem xét,
đánh giá sự hợp hiến hay không hợp hiến của các đạo luật, cũng như các quyết sách
khác của Nhà nước.
- Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị
trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là kết quả của sự thể chế hóa đường lối, chính sách
của Đảng Cộng sản Việt Nam trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá
giáo dục khoa học, đối nội, đối ngoại. Pháp luật thể hiện ý chí và nguyện vọng của
nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Vì vậy, nói
đến pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là nói đến tính pháp luật khách quan của
các quy định pháp luật, chứ không phải chỉ nói đến nhu cầu đặt ra pháp luật, áp
dụng pháp luật, tuân thủ pháp luật một cách chung chung với mục đích tự thân của
nó.
Pháp luật phải trở thành phương thức quan trọng đối với tính chất và hoạt
động của Nhà nước và là thước đo giá trị phổ biến của xã hội nước: công bằng, dân
21

chủ, bình đẳng - những tố chất cần thiết cho sự phát triển tiến bộ và bền vững của
Nhà nước và xã hội.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa Nhà nước
và công dân, giữa Nhà nước và xã hội.
Xét về bản chất, ngọn cờ bảo vệ quyền con người thuộc về các Nhà nước cách
mạng chân chính, Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh trên bảy mươi năm
đầy gian khổ hy sinh của dân tộc Việt Nam vì độc lập, tự do dưới sự lãnh đạo của
Đảng suy cho cùng, chính là vì quyền con người, quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc của cộng đồng dân tộc và của từng cá nhân, từng con
người trong cộng đồng dân tộc ấy. Do vậy, vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền
công dân, mở rộng quyền dân chủ, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và
công dân, giữa công dân với Nhà nước,… luôn được Đảng dành sự quan tâm đặc
biệt. Điều này thể hiện ở các cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại
diện (là cơ quan dân cử và các đoàn thể), làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân
dân tự quản, bằng việc xây dựng và thực hiện các quy ước, hương ước tại cơ sở.
Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới phong cách, bảo đảm dân chủ trong quá trình
chuẩn bị ra quyết định và thực hiện các quyết định.
- Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực Nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong
việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát
chặt chẽ việc thực hiện quyền lực Nhà nước.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Đối với Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo chính trị, quyết định
phương hướng chính trị của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự là tổ chức
thực hiện quyền lực của nhân dân, thực sự của dân, do dân và vì dân, để thực hiện
thành công công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước triển khai tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng bằng các
hoạt động quản lý Nhà nước, tổ chức tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia
22

quản lý Nhà nước, quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại.
2.2. Những yếu tố thời đại tác động tới nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa
2.2.1. Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức
Ngày nay, CMKHCN đang càng ngày càng phát triển mạnh mẽ, sâu rộng hơn
bao giờ hết trên toàn thế giới, thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống
xã hội. CMKHCN hiện đại là sự hoà nhập thành một quá trình duy nhất các quá
trình cách mạng trong khoa học – kỹ thuật, công nghệ và tác động mạnh mẽ đến
công nghiệp; quyết định các quá trình kỹ thuật, công nghệ, công nghiệp. Nghiên
cứu khoa học được công nghiệp hoá, tri thức khoa học trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, sản xuất trở thành nơi thực hiện thực tiễn các tri thức khoa học. Tri thức
khoa học trở thành cơ sở lý luận cho sản xuất, quản lý và phát triển xã hội ở các cấp
độ vi mô lẫn vĩ mô ở quy mô toàn cầu. Chính nhờ đó tốc độ phát triển của công
nghiệp, của sản xuất và xã hội ngày càng phát triển với quy mô và tốc độ nhanh
hơn. Những sản phẩm mới, công nghệ mới được tạo ra với tốc độ nhanh, mang tính
cách mạng và được áp dụng ngay vào sản xuất, đời sống con người và xã hội, nhanh
chóng tạo nên những thay đổi to lớn trong các lĩnh vực đó. Nền tảng kiến thức của
cách mạng công nghiệp hiện đại chính là cách mạng trong khoa học và công nghệ.
Kinh tế tri thức khoa học và thông tin trở thành nhân tố đặc biệt của nhận thức
và đời sống xã hội chủ nghĩa, ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển
của cả sản xuất, con người và xã hội. CMKHCN đã tạo ra một môi trường đặc biệt,
nơi lao động thể lực được thay thế bằng lao động trí tuệ với những phẩm chất và
năng lực tinh thần, đòi hỏi tính sáng tạo, độc đáo và cá nhân hoá. Thông tin, tri thức
khoa học là nguồn tạo ra của cải vô tận, là nguồn lực đặc biệt của sự phát triển con
người và xã hội trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, làm thay đổi nhận thức của con
người, trở nên hiện đại hơn, đa năng hơn. Thông qua các cải tiến về công nghệ và
các sản phẩm trực tiếp của cách mạng công nghiệp, những phát minh khoa học - kỹ
thuật và công nghệ mới đi vào sản xuất và đời sống con người. Khoa học thực sự
trở thành động lực của sự phát triển sản xuất và xã hội, nó tạo nên các sản phẩm và
công nghệ mới, thúc đẩy sản xuất, con người, xã hội phát triển nhanh chóng.
23

CMKHCN cũng là một trong những đặc điểm nổi bật của xã hội đương đại.
Các biến đổi của đời sống xã hội và con người đều gắn liền với CMKHCN. Tốc độ
phát triển con người và phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia, khu vực và thế
giới chi phối ngày càng mạnh các biến đổi của đời sống xã hội và của con người
(tuổi thọ, bệnh tật, sức khỏe, làm đẹp,…). Nhu cầu về cuộc sống, hưởng thụ của con
người ngày càng được nâng cao so với giai đoạn trước XHCN, không chỉ còn là “ăn
no mặc đủ” mà bây giờ đã trở thành “ăn ngon mặc đẹp”.
Cuộc CMCN lần thứ ba và CMCN lần thứ tư là sản phẩm trực tiếp của
CMKHCN hiện đại. Các lực lượng sản xuất của xã hội có những bước phát triển
nhảy vọt, độ nhận thức được nâng cao, khoảng cách thời gian từ phát minh khoa
học đến ứng dụng vào thực tiễn ngày càng được rút ngắn, vòng đời các công nghệ
và sản phẩm cũng được rút ngắn. Với cuộc CMCN lần thứ ba, con người tiếp tục
được giải phóng khỏi các chức năng thực hiện, gồm vận chuyển, năng lượng, công
nghệ. Việc giải phóng con người khỏi chức năng quản lí có những bước tiến đột
phá, tạo ra các loại rô-bốt, các dây chuyền sản xuất tự động hóa khác nhau. Việc
giải phóng con người khỏi chức năng logic cũng đã được thực hiện khi các hệ thống
máy tính xuất hiện, đặc biệt khi internet (hệ thống thông tin toàn cầu) và các thiết bị
thông minh ra đời. Về cuộc CMCN lần thứ tư, nền tảng công nghệ chủ yếu là sự
tích hợp các công nghệ của CMCN lần thứ ba và trí tuệ nhân tạo, tạo ra những đột
phá mới trong việc giải phóng con người khỏi các chức năng thực hiện, chức năng
quản lí và tạo nên những bước nhảy vọt trong việc giải phóng con người khỏi chức
năng logic khi các công nghệ có trí tuệ nhân tạo được sử dụng rộng rãi. Nó thực sự
biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp. CMKHCN ở giai đoạn phát triển
của CMCN 4.0 hiện nay đang dần loại con người ra khỏi quá trình sản xuất trực
tiếp, biến họ trở thành những chủ thể sáng tạo thực sự, tạo tiền đề vật chất và lực
lượng sản xuất mới cho một nền kinh tế mới, đưa nhân loại đến giai đoạn phát triển
mới cùng với những tên gọi khác nhau như kinh tế tri thức, kinh tế số, xã hội thông
tin, xã hội tri thức,...
Thực tiễn chứng minh, quốc gia nào mạnh về tiềm lực khoa học và công nghệ
thì sẽ có tốc độ phát triển nhanh về mọi mặt, có điều kiện và cơ hội để phát triển
bền vững, đóng góp tích cực cho sự phát triển của nhân loại. Do sự phát triển của
24

CMKHCN, không chỉ các lý luận cụ thể trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ và
kỹ thuật thay đổi, mà hàng loạt lý thuyết và nhận thức về xã hội và con người cũng
buộc phải thay đổi theo hướng hiện đại hơn, tập trung vào phát triển con người hơn.
Vì thế, trong thời đại CMKHCN ngày nay, giáo dục và đào tạo cùng với khoa học
và công nghệ phải là động lực cơ bản, là quốc sách hàng đầu của các quốc gia.
Các cuộc CMCN vì những điều kiện lịch sử, văn hóa và xã hội nên đã không
nảy sinh ở Việt Nam. Vài thập kỷ gần đây, chúng ta đã xem cách mạng khoa học –
kĩ thuật, sau đó là CMKHCN là then chốt, là động lực quan trọng của sự phát triển
kinh tế, xã hội, con người. Nhiều thành tựu và sản phẩm của CMKHCN hiện đại đã
được đưa vào sử dụng ở nước ta, góp phần không nhỏ vào công cuộc bảo vệ xây
dựng và phát triển đất nước, con người. Tiềm lực khoa học, kỹ thuật, công nghệ và
công nghiệp được từng bước nâng lên và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển kinh tế, xã hội và con người.
Ngoài ra, hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng ngày một hiện đại đã
tạo điều kiện để người dân tiếp cận và hiểu pháp luật, từ đó, ảnh hưởng đến trình độ
dân trí, thay đổi cách nghĩ, cách làm trong việc thi hành và tuân theo pháp luật.
Truyền thông và mạng xã hội đã trở thành một kênh quan trọng thể hiện quyền
được đóng góp ý kiến của người dân đối với các vấn đề liên quan tới sự phát triển
kinh tế – xã hội của địa phương.
Tuy nhiên, sự phát triển của khoa học – công nghệ cũng đặt ra hàng loạt thách
thức đối với việc thúc đẩy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển và phổ biến của
internet cũng như các nền tảng truyền thông xã hội là kênh quan trọng thúc đẩy
quyền tiếp cận thông tin, quyền tham vấn, quyền thảo luận và tự do biểu đạt, cải
thiện quyền thụ hưởng của người dân trên nhiều lĩnh vực nhưng cũng đặt ra thách
thức về tình trạng bạo lực trực tuyến, kích động mang tính gây hấn, tin tức giả, lôi
kéo tạo tâm lý hoang mang, dao động trong nhân dân và có thể tạo nên tình trạng
“dân chủ quá trớn”, lợi dụng dân chủ để chống phá hoạt động của cơ quan Nhà
nước.
CMKHCN đang mang cơ hội đến với đất nước và con người Việt Nam, nhưng
nếu không tích cực, chủ động, tận dụng cơ hội và không nắm bắt được cơ hội thì cơ
25

hội sẽ không lặp lại, tàu tốc hành của nhân loại với đầu máy CMKHCN và CMCN
sẽ bỏ qua chúng ta, con người và đất nước ta sẽ tụt hậu xa hơn.
2.2.2. Quá trình toàn cầu hóa
Quá trình toàn cầu hoá thực ra đã bắt đầu từ thế kỷ XV. Đặc điểm nổi bật của
quá trình này là sự liên quan mật thiết với các cuộc chiến tranh xâm lược, với chính
sách thực dân trên mọi lĩnh vực, đồng thời là hệ quả trực tiếp của các cuộc chiến
tranh và chủ nghĩa thực dân đó.
So với quá trình toàn cầu hóa trước đây, toàn cầu hoá hiện nay đang diễn ra
với những nét khác biệt hết sức to lớn. Tính khách quan của quá trình toàn cầu hoá
hiện nay phản ánh xu thế tiến lên của lịch sử nhân loại, phản ánh xu thế hợp tác để
cùng phát triển giữa các quốc gia dân tộc. Sự đòi hỏi được phát triển của các quốc
gia dân tộc đã trở thành nhu cầu của thời đại. Để phát triển một cách bền vững, các
quốc gia dân tộc đều không thể thoát ly, đóng cửa, đứng ngoài hay tách khỏi cộng
đồng thế giới. Trong thời đại hiện nay, một đất nước nào đó tự tách mình ra khỏi
tiến trình kinh tế toàn cầu, hoặc bị cộng đồng quốc tế phong tỏa, cấm vận thì chắc
chắn là đất nước đó sẽ gặp rất nhiều khó khăn để tồn tại bình thường, chưa nói đến
để phát triển và tất nhiên, Việt Nam cũng không thể thoát khỏi xu hướng này.
Toàn cầu hoá diễn ra trên tất cả các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội hiện
đại, từ lĩnh vực kinh tế, văn hoá cho đến chính trị. Nó là kết quả của sự phát triển
mang tính chất đột biến của khoa học và công nghệ cao, trước hết là công nghệ
thông tin; đồng thời, nó cũng là sản phẩm của kinh tế thị trường hiện đại. Thế giới
dường như đang thu nhỏ lại, khoảng cách về địa lý được rút ngắn lại đáng kể nhờ
các phương tiện hiện đại của công nghệ thông tin, vệ tinh, mạng viễn thông toàn
cầu,… Bởi vậy, có đầy đủ cơ sở để khẳng định rằng, toàn cầu hoá hiện nay là thành
quả mới của nền văn minh nhân loại.
Toàn cầu hoá hiện nay không chỉ diễn ra trên nhiều lĩnh vực khác nhau, mà
với tư cách là thành quả của nền văn minh hiện đại, toàn cầu hoá hiện nay còn tác
động đến nhiều lĩnh vực khác nhau; trong đó, ở một mức độ đáng kể, tác động đến
quá trình dân chủ hoá nhiều mặt của đời sống xã hội, thế giới. Điều đặc biệt là trước
đây, khi nói đến dân chủ hoá đời sống xã hội, thường người ta nghĩ ngay đến khía
cạnh chính trị của vấn đề và thường chỉ chú ý đến khía cạnh này. Dĩ nhiên, đây vẫn
26

là một mặt hết sức quan trọng không thể bỏ qua. Song, tác động của toàn cầu hoá
hiện nay đến quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội thế giới còn thể hiện trên nhiều
mặt khác nữa. Bởi vậy, người ta có thể xuất phát từ các góc độ khác nhau, theo các
quan điểm chính trị khác nhau, để đánh giá mặt tích cực cũng như những mặt hạn
chế và thậm chí là cả những khiếm khuyết hoặc ảnh hưởng tiêu cực có thể có của
quá trình này đối với một nước nào đó hay một khu vực nào đó.
Toàn cầu hoá hiện nay cũng mở ra khả năng thực tế cho quá trình dân chủ hoá
trong việc tiếp cận và tiếp nhận các công nghệ mới, thậm chí là cả công nghệ hiện
đại nhất. Dân chủ hoá trong lĩnh vực công nghệ là một trong những nét nổi bật của
toàn cầu hoá hiện nay, điều mà cách đây nửa thế kỷ không thể có. Ví dụ, nhờ kỹ
thuật số hoá mà dung lượng thông tin chứa được trong máy tính và trong các thiết bị
lưu trữ tăng lên gấp bội nhưng lại gọn nhẹ hơn rất nhiều, giá thành các thiết bị này
cũng do vậy mà giảm xuống hết sức nhanh chóng tạo điều kiện thuận lợi cho việc
sử dụng rộng rãi chúng. Chính những thành tựu của khoa học và công nghệ đã tạo
điều kiện cho quá trình dân chủ hoá trong lĩnh vực này, nhờ đó mà các nước chưa
đủ khả năng phát minh có cơ hội nhận được công nghệ hiện đại. Việc một số lĩnh
vực công nghệ thông tin hiện đại đã có mặt khá sớm và phát huy hiệu quả tại Việt
Nam thời gian vừa qua và hiện nay là một bằng chứng.
Dân chủ hoá trong lĩnh vực công nghệ đã giúp cho các quốc gia chậm phát
triển có điều kiện tiếp thu công nghệ mới, thậm chí là cả công nghệ hiện đại nhất,
nhờ nhiều cách thức và con đường khác nhau, như chuyển giao miễn phí, mua bán
hoặc hợp tác sản xuất để rút ngắn con đường phát triển của đất nước mình. Thông
qua đó, các nước chậm phát triển có thể giảm bớt hoặc ngừng xuất khẩu nguyên liệu
thô, tiến hành chế biến tại chỗ số nguyên liệu đó, nhờ vậy giá trị hàng hoá đã qua
chế biến tăng thêm và chi phí sản xuất thấp hơn.
Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, quá trình dân chủ hoá trong lĩnh vực
công nghệ này đã làm cho các nước xích lại gần nhau hơn, gắn kết với nhau nhiều
hơn, các bên liên quan đến công nghệ (bán - mua, giao - nhận) đều cùng có lợi, do
vậy khả năng làm giàu của mỗi bên cũng tăng lên theo. Tuy nhiên, phải thừa nhận
rằng toàn cầu hoá hiện nay dù mang tính khách quan, nhưng bản chất là toàn cầu
27

hoá tư bản chủ nghĩa, do vậy cũng mang trong mình không ít những khiếm khuyết
và hạn chế.
Nói tóm lại, toàn cầu hoá hiện nay là một quá trình khách quan, là một đòi hỏi
của sự phát triển lịch sử. Tuy nhiên, do được khởi đầu và đang bị chi phối bởi các
nước giàu, mà chủ yếu hiện nay bởi một siêu cường, cho nên bên cạnh những mặt
tích cực nhất định đối với quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội nói chung, toàn cầu
hoá hiện nay cũng có không ít những hạn chế, vừa tạo cơ hội cho sự phát triển, sự
tiến bộ nhưng cũng vừa làm nảy sinh không ít những thách thức mà nhân loại phải
đối mặt. Nhân loại phải sớm tìm cách giải quyết chúng để thúc đẩy lịch sử tiến lên
phía trước, nâng cao nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa.
2.3. Những yếu tố trong nước tác động tới nhận thức về dân chủ xã hội chủ
nghĩa
2.3.1. Yếu tố kinh tế
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đang phát triển, còn phụ thuộc nhiều vào sản xuất nông nghiệp, xuất
khẩu nguồn nguyên, nhiên liệu và các sản phẩm thô và đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài. So với các nước phát triển trên thế giới, nền kinh tế Việt Nam còn nhiều
điểm hạn chế, gây khó khăn trong quá trình thực hiện dân chủ hóa. Đặc điểm của
nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta là nền kinh tế hội nhập với thế giới
và hiện đại. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII tháng 06/1991 đã nêu rõ những
nội dung về hai tiêu chí này được thể hiện qua sự hiện đại trong thể chế, pháp luật,
chính sách; sự hiện đại trong quản lý Nhà nước, mối quan hệ quốc tế với các quốc
gia trong khu vực hoặc thế giới được củng cố, đồng bộ và tăng cường.
Một đặc điểm nổi bật khác của nền KTTT ở nước ta là nền kinh tế nhiều thành
phần. Trong đó, KTNN giữ vai trò chủ đạo còn KTTN là động lực quan trọng trong
thúc đẩy kinh tế. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng khẳng định: “Công tư
đều lợi - Chủ thợ đều lợi - Công nông giúp nhau - Lưu thông trong ngoài”, đồng
nghĩa với việc nước ta chú trọng việc đảm bảo sự công bằng, hợp tác cùng có lợi
giữa các thành phần trong nền kinh tế và tạo ra sự hài hòa lợi ích kinh tế giữa các
chủ thể. Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII
(5/2017), ba nghị quyết về kinh tế được ban hành, trong đó có nghị quyết chỉ ra
28

rằng “phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN".
Tuy nhiên, thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa Xã hội
chủ nghĩa Đảng và Nhà nước ta gặp phải nhiều vấn đề bất cập, đặc biệt là trong lĩnh
vực kinh tế. Dễ thấy, các doanh nghiệp nhà nước đang gặp khó khăn trong việc
chuyển đổi hệ thống quản lý và cơ cấu tổ chức, hoặc thực hiện chuyển đổi không
đồng đều, các doanh nghiệp tư nhân hầu hết là doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng
quản trị và điều hành thấp, nguồn lao động có trình độ chuyên môn cao còn ít, sức
cạnh tranh trên trường quốc tế còn yếu kém. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng chất lượng
chưa đồng nhất,... Đặt trong bối cảnh nền kinh tế tri thức và toàn cầu hóa hiện nay,
đặc điểm nền kinh tế nước ta hiện nay mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng phải đối
mặt nhiều thách thức đối với quá trình thực hiện dân chủ hóa ở nước ta.
2.3.2. Yếu tố chính trị - xã hội
Không thể phủ nhận rằng khi lật lại những trang sử hào hùng của dân tộc ta
giai đoạn trước khi Đảng ra đời, có nhiều phong trào đấu tranh chống Pháp thấm
đượm tinh thần yêu nước, bất khuất, nhưng cuối cùng đều bị bế tắc hoặc thất bại mà
nguyên nhân chính là thiếu đường lối chiến lược đúng đắn. Kể từ lúc Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời năm 1930, nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng về đường
lối chiến lược, từ đó ngọn cờ độc lập dân tộc ngày càng được giương cao và CNXH
đưa sự nghiệp Cách mạng Việt Nam không ngừng phát triển đi lên. Tuy nhiên, thực
tế, trong những ngày đầu mới thành lập, trong nội bộ Đảng cũng xuất hiện nhiều
mâu thuẫn và lục đục, liên tục bị chống phá bởi các thế lực thù địch. Khi Nhà nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa vừa mới ra đời năm 1945, nước ta cũng vấp phải sự
phản đối, không chấp nhận nền độc lập tự chủ của Việt Nam. Dù phải đương đầu
với nhiều khó khăn, thử thách liên tục nhưng Đảng ta nói riêng và cả nước ta nói
chung vẫn luôn đồng lòng và giữ vững tinh thần cách mạng, vượt qua gian nan và
kháng chiến giành độc lập thành công. Theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh
đạo Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng, của
công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Trong buổi đầu thực hiện công cuộc đổi mới, nước ta đã đạt được sự ổn định
tương đối về chính trị. Đây là điều kiện thuận lợi cho công cuộc thực hiện dân chủ
29

hóa ở nước ta. Ngày nay trên thế giới, hệ thống chính trị thường được cấu thành từ
các chủ thể: Đảng chính trị, Nhà nước và nhân dân. Tùy thuộc vào đặc điểm và bản
chất chính trị của từng quốc gia mà vai trò, chức năng và sự tương quan giữa các
chủ thể này được xác định cụ thể. Ở nước ta, ngay từ khi Nhà nước Việt Nam Dân
chủ cộng hòa được xác lập năm 1945, Đảng ta đã khẳng định vị trí và mối quan hệ
giữa ba chủ thể như sau: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhưng người chủ của
đất nước là nhân dân.
Trong những năm gần đây, với chủ trương lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền
tảng tư tưởng, vai trò lãnh đạo của Đảng được nhận thức rõ trong đại bộ phận người
dân và nâng cao đáng kể. Tuy nhiên, tình trạng quan liêu đã và đang xuất hiện nhiều
trong tổ chức Đảng, các đoàn thể Nhà nước và bộ máy Nhà nước. Nhiều đảng viên
và cán bộ bị biến chất, tha hóa, suy thoái về tư tưởng, đạo đức, chính trị, không giữ
được ý thức trách nhiệm của người đầy tớ trung thành của nhân dân. Thực trạng
tham nhũng, hối lộ, chạy theo những giá trị tầm thường như danh lợi, địa vị, tiền tài
là vấn nạn nhức nhối trong hệ thống quản lý nhà nước hiện nay. Đây chỉ là một số
trong các nguy cơ, thách thức sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (01/2011), Đảng ta đã khẳng định trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội rằng “Đi
lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta”. Cụ thể, nội dung cơ bản nhất
của nhà nước xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng đó là “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị xã hội lý tưởng và
là mong ước ngàn đời của nhân loại, không chỉ riêng người dân Việt Nam. Đây là
đặc trưng mang tính tổng quát nhất, mang bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, và
là nét khác biệt cơ bản, thể hiện sự tiên tiến vượt bậc so với các loại chế độ xã hội
trước đó.
Trình độ dân trí nhìn chung được nâng cao đáng kể nhờ nhiều nhân tố khách
quan và chủ quan. Về khách quan, cơ chế mở cửa thị trường cho phép người dân có
cơ hội tiếp cận với nhiều nguồn thông tin từ nước ngoài, các tiến bộ khoa học - kỹ
thuật, những làn sóng văn hóa mới,... giúp cho con người trở nên cởi mở và tiếp thu
30

được nhiều kiến thức có giá trị hơn. Về chủ quan, con người Việt Nam vốn có
truyền thống ham học hỏi, sẵn sàng tìm hiểu và tiếp thu những tiến bộ và thành tựu
tri thức của nhân loại. Những yếu tố này là điều kiện thuận lợi cho quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
2.3.3. Yếu tố văn hóa
Nằm ở vị trí đắc địa thuộc khu vực Đông Nam Á, nhìn chung, văn hóa Việt
Nam chịu ảnh hưởng lớn từ nhiều nền văn hóa phương Đông, đặc biệt là Trung
Quốc, Ấn Độ,... Tuy nhiên, văn hóa Việt Nam cũng mang những đặc điểm riêng
biệt, đặc trưng riêng. Có được những tinh hoa văn hóa dân tộc ấy là một quá trình
trải qua đấu tranh và phát triển từ điều kiện tự nhiên, lịch sử, chính trị, tư tưởng,...
và quá trình đúc kết, không ngừng học hỏi có chọn lọc nền văn hóa các nước trên
thế giới và giữ gìn bản sắc văn hóa của nhân dân ta.
Nhắc đến người dân Việt Nam là nhắc đến những phẩm chất như lòng yêu
nước, tinh thần tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách. Minh chứng cụ thể cho
những phẩm chất đáng quý này là tình người trong đại dịch COVID-19 vừa qua,
đồng bào cả nước cùng chung tay chống lại cơn bão COVID-19, kiên quyết không
một ai bị bỏ lại phía sau và đặc biệt là toàn thể người dân Việt Nam đồng lòng tuân
thủ nghiêm ngặt chỉ thị phòng, chống dịch của Đảng và Nhà nước ta. Tinh thần dân
tộc, ý thức đoàn kết của nhân dân ta trở thành tiền đề quan trọng để tạo sự thống
nhất đi lên của chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức rõ vai trò của văn hóa đối với quá trình xây dựng nền dân chủ và
chủ nghĩa xã hội của nước ta, Đảng đã khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được
đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.”
Từ rất lâu về trước, trong tư tưởng của người dân Việt Nam đã xuất hiện các
cụm từ như “dân vi quý” (nhân dân là quý giá nhất), “dân vi bang bản” (dân là gốc
nước). Tuy vậy, khái niệm “dân chủ” chưa được định nghĩa rõ ràng và không được
duy trì lâu dài và phát huy đúng đắn. Hơn nữa, trong thời kỳ phong kiến, Nho giáo
là nền tảng của chế độ quân chủ chuyên chế phương Đông và Việt Nam cũng không
31

phải là ngoại lệ. Đặc biệt, trong thời kỳ phong kiến kéo dài hơn 10 thế kỷ ở nước ta,
chế độ quân chủ chuyên chế phương Đông lấy Nho giáo làm nền tảng tư tưởng đã
làm cho tư tưởng không dân chủ in sâu vào cách nghĩ, cách sống, tâm lý, thói quen
của người Việt. Trong chế độ này, mọi quyền lực đều tập trung vào tay vua, vua là
“con trời”. Trật tự trong xã hội đều đường xây dựng trên tam cương (quân thần
cương - mối quan hệ vua - tôi, phụ tử cương - mối quan hệ cha - con, phu phụ
cương - mối quan hệ vợ - chồng). Dù thời kỳ phong kiến đã qua đi rất lâu, song một
bộ phận lớn người dân chưa có ý thức rõ ràng và đúng đắn đối với quyền dân chủ
của bản thân. Đối với họ, thực hiện dân chủ chỉ là điều tất yếu khách quan trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những tư tưởng cổ hủ, lạc hậu vẫn còn được duy trì trong xã hội như tư tưởng
“trọng nam khinh nữ”, tin tưởng vào mê tín dị đoan,... và gây ra những hậu quả
đáng tiếc.
Không dừng lại ở đó, như đã trình bày ở phần trước, Việt Nam nằm trong sự
vận động chung của cả thế giới nên chịu ảnh hưởng lớn từ những yếu tố bên ngoài
như Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, xu hướng toàn cầu hóa,... đã làm cho nền văn
hóa Việt Nam ngày nay luôn luôn biến đổi không ngừng. Song song với những cơ
hội, các yếu tố bên ngoài này cũng đem đến những tác động tiêu cực trong ý thức,
tư tưởng và hành động của người dân, và gián tiếp ảnh hưởng đến nền dân chủ nước
ta. Hiện tượng bình thường hóa những lệch lạc về giá trị đạo đức, sự thờ ơ, vô cảm
với những vấn đề xã hội trong bộ phận lớn giới trẻ ngày nay và vấn đề suy giảm
niềm tin đối với chế độ xã hội chủ nghĩa, với chính sách, đường lối của Đảng và
Nhà nước,... đã gây nên áp lực và trở ngại lớn đối với quá trình xây dựng, thực hiện,
kiểm tra và kiểm soát các kế hoạch phát triển văn hóa - xã hội trong nước, mà khái
quát hơn là quá trình tạo giá trị tích cực trong xây dựng nền dân chủ ở nước ta.
2.4. Nội dung đổi mới đất nước ở Việt Nam hiện nay
2.4.1. Xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đổi mới,
dân chủ hóa tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của
Đảng - thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực chính trị
Trước giai đoạn đổi mới năm 1986, Đại hội lần thứ VI đã chỉ ra một vấn đề
quan trọng, đó là: “ Xuất phát từ lý do buông lỏng chuyên chính vô sản và chưa sử
32

dụng đầy đủ sức mạnh tổng hợp của chuyên chính vô sản đã dẫn đến tình trạng
pháp luật và kỷ cương của Nhà nước bị vi phạm ngày càng phổ biến”. Do đó, để
tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chuyên chính vô sản, đảm bảo quyền làm chủ
của nhân dân thì đổi mới tư duy lý luận về hệ thống chuyên chính vô sản và nhà
nước chuyên chính vô sản là vấn đề quan trọng. Có thể thấy, xuyên suốt tiến trình
đổi mới đất nước, tư duy và nhận thức lý luận của Đảng về điều kiện chính trị và
nội dung thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa về mặt chính trị đã không ngừng được
bổ sung và phát triển. Đảng ta đã thay khái niệm hệ thống chuyên chính vô sản bằng
hệ thống chính trị, thay khái niệm nhà nước chuyên chính vô sản bằng khái niệm
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy mạnh mẽ việc đổi mới và dân chủ
hóa hệ thống chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cả hai
khía cạnh lý luận và thực tiễn.
Trải qua 30 năm đổi mới, từ những mục tiêu đầu tiên được Đại hội VI (1989)
đề ra là phải “phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trên cơ sở đó, đổi mới phương
thức và phương hướng hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể Nhân dân”
trong định hướng xây dựng hệ thống chính trị mới, cho đến các quyết định điều
chỉnh phương hướng hoạt động cho phù hợp với điều kiện thay đổi của Nhà nước
trong Đại hội VII “Đổi mới hệ thống chính trị là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội và thực hiện dân chủ, nhưng vì là vấn đề phức tạp và nhạy cảm nên
công việc này cần phải được tiến hành trên cơ sở nghiên cứu, chuẩn bị nghiêm túc,
được lãnh đạo tốt, có bước đi vững chắc, phù hợp với tình hình chính trị, xã hội nói
chung”. Đặc biệt nhất, một trong những bước đột phá tư duy về xây dựng điều kiện
và nội dung chính trị của dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đó chính là việc
Đảng ta thừa nhận giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền và chủ trương xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Với những chính sách đổi mới liên tục qua các giai đoạn, thời kỳ khác nhau,
nhận thức lý luận của Đảng về điều kiện chính trị và nội dung thực hiện dân chủ xã
hội chủ nghĩa về chính trị ở nước ta bao gồm:
Thứ nhất, việc đổi mới, dân chủ hóa tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị
phải tuân thủ theo các nguyên tắc và cơ chế nhất định. Đó là đảm bảo sự ổn định
chính trị và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa cho tiến trình đổi mới đất nước.
33

Đổi mới căn bản, đồng bộ, dân chủ hóa toàn diện tổ chức, hoạt động của hệ thống
chính trị chủ nghĩa xã hội với hình thức, bước đi phù hợp, kết hợp hài hòa giữa đổi
mới từ cơ sở, từ dưới lên trên, từ trung ương đến địa phương,... Nhận thức rõ và giải
quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;
giải quyết hài hòa quan hệ giữa dân chủ với tập trung, tập trung dân chủ với hiệp
thương dân chủ, dân chủ đại diện với dân chủ trực tiếp, quyền và nghĩa vụ trách
nhiệm, dân chủ với kỷ luật, kỷ cương, pháp luật.
Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện các thể chế dân chủ để cụ thể hóa, chi tiết hóa
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Do đó, cần tập trung xây
dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân
dân… thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức dân chủ trực tiếp và dân
chủ đại diện…” Các quy định, thể chế đó phải đảm bảo chi tiết, chặt chẽ, cụ thể và
khả thi.
Thứ ba, bảo đảm sự thống nhất, tinh gọn, trong sạch, vững mạnh, hiệu lực,
hiệu quả của cả hệ thống chính trị và mỗi tổ chức thành viên.
Thực tiễn đổi mới, dân chủ hóa đời sống xã hội và những thành tựu đạt được
về dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực chính trị cho thấy đường lối, chủ trương
của Đảng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đổi mới,
dân chủ hóa tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị là đúng đắn. Xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đổi mới, hoạt động của hệ thống
chính trị vừa là điều kiện chính trị, vừa là nội dung cơ bản trong thực hiện dân chủ
xã hội chủ nghĩa về chính trị ở nước ta.
2.4.2. Xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế
Với kinh nghiệm từ trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước Nga của V.I.Lênin, trong điều kiện của Việt Nam, những năm đầu xây dựng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Hồ Chí Minh và Đảng ta cũng từng phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần. Tuy nhiên, những tư tưởng và quan điểm đúng đắn đó đã
không được áp dụng một cách triệt để kể từ sau Hội nghị Trung ương 14 (11-1958).
Nền kinh tế nhiều thành phần đã chuyển sang nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thuần
nhất dựa trên hai hình thức sở hữu: sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Kết quả là,
34

trong những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, đất nước chúng ta
rơi vào tình trạng khó khăn, khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội xuất phát từ
tư duy, cách làm nóng vội, chủ quan duy ý chí của Đảng ta trong việc xem việc đảm
bảo thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân và nhanh chóng đưa đất nước
tiến lên xã hội chủ nghĩa là cơ sở và điều kiện trọng yếu nhất.
Bước ngoặt của việc đổi mới tư duy về xây dựng điều kiện kinh tế và thực
hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta được bắt đầu từ Đại
hội VI của Đảng (12-1986). Đại hội đã đặt ra vấn đề giải phóng sức sản xuất; bố trí
lại lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh cơ cấu đầu tư và chủ trương đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế trên cơ sở đổi mới cơ cấu kinh tế, thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần
và chuyển sang nền kinh tế hàng hóa kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý có kế hoạch theo phương thức hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa…
Kết quả, trải qua 30 năm trong quá trình đổi mới, thông qua các sửa đổi và bổ
sung của Đại hội Trung ương khóa VI và Đại hội VII, Đại hội X, Đảng ta đã hình
thành về cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận mới về xây dựng điều kiện và nội
dung kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Cụ thể:
Thứ nhất, phát triển lực lượng sản xuất hiện đại là một trong những cơ sở, điều
kiện và nội dung kinh tế cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Phát
triển lực lượng sản xuất, xét đến cùng là nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển
xã hội. Giải phóng sức sản xuất là cơ sở, nền tảng để thực hiện và phát triển dân chủ
vì đây là giải phóng khả năng, năng lực của người lao động - nhân tố cơ bản, hàng
đầu của lực lượng sản xuất. Đảng ta đã khẳng định, đối với nước ta hiện nay, đổi
mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước là nhiệm vụ, phương thức, con đường cơ bản để xây dựng, phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại.
Thứ hai, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là một trong những cơ sở, điều kiện và nội dung kinh tế cơ bản của nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Con đường chiến lược tất yếu để xây dựng, phát
triển quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế
35

“có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó Nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế…” Nhà nước
đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường
cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và
các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản
xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong
từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong
phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể hóa, thể chế hóa và hiện thực hóa những nhận
thức có tính định hướng trên đây phù hợp với từng giai đoạn phát triển là cơ sở,
điều kiện và là nội dung, nhiệm vụ, con đường tất yếu để thực hiện dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại thông qua việc đổi mới mô
hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, thiết lập quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất bằng cách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là cơ sở, điều kiện, nền tảng kinh tế, là cơ chế, nội dung, phương thức cơ bản
và là con đường tất yếu để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa về mặt kinh tế.
Những thành tựu của quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội của đất nước trong hơn
30 năm qua, nhất là thành tựu về thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực
kinh tế đều bắt nguồn sâu xa, trực tiếp từ sự soi sáng, dẫn đường bởi hệ thống quan
điểm lý luận về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của
Đảng.
2.4.3. Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học - thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa
trong lĩnh vực văn hóa
Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của con người và
xã hội loài người. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, định hướng cho sự phát
triển bền vững của xã hội. Văn hóa thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội
và mọi hành vi của con người, điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của con người. Trong
suốt chặng đường hơn 83 năm lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng
chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc,
36

thống nhất đất nước, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN hiện nay, Đảng ta luôn nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của văn
hóa và thường xuyên quan tâm lãnh đạo, phát huy sức mạnh văn hóa đối với sự phát
triển bền vững của đất nước.
Xây dựng điều kiện văn hóa và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh
vực văn hóa là quá trình làm cho văn hóa mang nội dung dân chủ, hướng tới phát
triển dân chủ và dân chủ đi vào văn hóa, thấm sâu vào văn hóa nhằm đảm bảo
quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực văn hóa. Trong điều kiện đổi mới, Đảng
ta nhận thức rằng, điều kiện và nội dung thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong
lĩnh vực văn hóa ở Việt Nam bao gồm:
Thứ nhất, bảo vệ và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng, làm cho hệ thống tư tưởng của giai cấp công nhân,
những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa dân tộc, những tinh hoa văn hóa thế
giới giữ vai trò nền tảng và chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.
Phải làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng
người, từng gia đình, từng tập thể và từng cộng đồng, từng địa bàn dân cư.
Thứ hai, Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo theo Hiến pháp
và pháp luật các quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tự do tư
tưởng, tự do ngôn luận, tự do sáng tạo, thông tin, báo chí, quyền hưởng thụ, tiếp cận
các giá trị văn hóa, tham gia đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa,... các
hoạt động văn hóa chú trọng chăm lo, bồi dưỡng hình thành con người mới có ý
thức, năng lực làm chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật; có tri thức, sức
khỏe và lao động sáng tạo; sống có văn hóa và tình nghĩa; kết hợp hài hòa tính tích
cực cá nhân và tính tích cực xã hội, đề cao trách nhiệm bản thân đối với cá nhân, gia
đình và xã hội; giàu lòng yêu nước, tự hào dân tộc và tinh thần quốc tế chân chính.
Thứ ba, văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Phát
triển văn hóa phải gắn kết chặt chẽ, đồng bộ, hài hòa với phát triển kinh tế, chính trị
và phát triển xã hội. Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh,
phong phú, đa dạng. Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” đi vào chiều sâu, thiết thực hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia
đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, làm cho các giá trị văn hóa thấm
37

sâu vào mọi mặt đời sống. Nâng cao tính chiến đấu của các hoạt động tư tưởng, văn
hóa, văn học, nghệ thuật, báo chí đồng thời phê phán cái sai, cái ác, cái xấu để
hướng con người đến cái lành mạnh, cái tốt đẹp.
Thứ tư, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Quan điểm xác định trách
nhiệm của mọi người dân Việt Nam đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển
văn hóa nước nhà; công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, đồng thời là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ gắn bó với nhân dân, giữ
vai trò quan trọng, là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn
hóa.
Những nội dung trên đây cho thấy, Đảng ta đã có sự đổi mới tư duy, phát triển
nhận thức lý luận về điều kiện văn hóa và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong
lĩnh vực văn hóa ở nước ta. Tuy nhiên cũng cần lưu ý, trong đổi mới, vấn đề xây
dựng nền văn hóa với tư cách là điều kiện và nội dung thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa ngày càng được Đảng ta đặt trong mối tương quan mật thiết với các điều kiện,
nội dung kinh tế, chính trị, xã hội phù hợp với điều kiện phát triển nền kinh tế thị
trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu
rộng.
2.4.4. Xây dựng, phát triển xã hội đoàn kết, đồng thuận công bằng, an sinh,
văn minh - thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực xã hội ở Việt
Nam
Quan điểm của K. Marx, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin và Hồ Chí Minh đối với
việc giải quyết các vấn đề xã hội và thực tiễn dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh
vực xã hội là xây dựng, phát triển xã hội bình đẳng, công bằng và tiến bộ. Với tinh
thần đó, trải qua quá trình hơn 30 năm đổi mới, nhận thức mới của Đảng ta về xây
dựng điều kiện xã hội và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực xã hội
bao gồm:
Thứ nhất, chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và
thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng
nguồn lực trong từng thời kỳ. Bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện tăng trưởng
38

kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Điều
đó thể hiện ở việc phân phối hợp lý tư liệu sản xuất phân phối kết quả sản xuất và
điều kiện phát triển năng lực của mọi thành viên trong cộng đồng,...
Thứ hai, giải quyết có hiệu quả bằng hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật,
những vấn đề xã hội cụ thể đối với giai cấp, tầng lớp, nhóm, thành phần xã hội phù
hợp với sự biến đổi của cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội của đất nước. Nhất là các
vấn đề về việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội, an toàn thực phẩm,
bảo đảm nhà ở, an toàn giao thông, đô thị, vấn đề giáo dục, chăm sóc sức khỏe, bảo
vệ môi trường, phòng chống tệ nạn xã hội, xóa đói, giảm nghèo,... Bảo đảm an toàn
cuộc sống cho mọi thành viên xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương,
vượt qua các khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống,… Đây là đảm bảo về mặt xã
hội từ chiều sâu đạo lý và pháp lý cho sự ổn định và phát triển bền vững của nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thứ ba, xây dựng, thực hiện hệ thống chính sách xã hội đúng đắn, công bằng
vì con người, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, an sinh xã hội và an toàn xã hội
theo tinh thần đề cao trách nhiệm, tính tự lực, tự chủ của mỗi người, mỗi công dân
tự giải quyết các vấn đề của xã hội và của gia đình mình; đồng thời chú trọng xã hội
hoá, tăng cường cộng đồng trách nhiệm của toàn xã hội; thực hiện phương châm ích
nước lợi nhà, Nhà nước và nhân dân cùng làm đối với các vấn đề xã hội. Đây vừa là
nhiệm vụ, nội dung, vừa là phương thức, điều kiện quan trọng để thực hiện dân chủ
xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực xã hội trong tiên trình đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, hoàn thiện cơ chế để nhân dân cùng đóng góp ý kiến, phản biện xã hội
và giám sát công việc của Đảng và Nhà nước, nhất là các chính sách về kinh tế, xã
hội, về quy hoạch, kế hoạch chương trình và dự án phát triển quan trọng. Ban hành
Luật về hội để phát huy tốt vai trò tự chủ, tự quản của các tổ chức chính trị, xã hội,
tổ chức nghề nghiệp và của mỗi người dân trong việc quản lý và tổ chức đời sống
cộng đồng theo quy định của pháp luật. Đây là hệ thống thiết chế xã hội cơ bản có
vai trò quan trọng đối với việc phát triển xã hội dân sự văn minh, một điều kiện
khách quan không thể thiếu đối với việc thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong
điều kiện mới của nước ta hiện nay.
39

2.5. Thực trạng nền dân chủ hiện nay tại Việt Nam
2.5.1. Những thành tựu đạt được
Trong suốt những năm qua, Nhà nước ta luôn trân trọng tiếp thu ý kiến của
nhân dân, không ngừng đổi mới, không ngừng phát triển theo định hướng dân chủ
xã hội chủ nghĩa, đã đạt được không ít những thành tựu lớn lao đóng góp đáng kể
vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong đó, có thể kể đến
những thành tựu nổi bật nhất là:
- Dân chủ trong kinh tế:
Việc thực hiện dân chủ trong kinh tế có ý nghĩa quan trọng, tác động trực tiếp
đến việc thực hiện các hoạt động dân chủ trong các lĩnh vực khác. Trong những
năm qua, nhờ vào việc thực hiện tốt các xây dựng nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, người dân được tự do hơn trong các hoạt động kinh tế, mua
bán hàng hóa nhờ vào sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thông qua việc xây dựng,
phát triển các bộ luật như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đất đai. Không
những vậy, Nhà nước ta ngày càng tiến bộ trong việc thực hiện cải cách, đổi mới
trong kinh tế như mở rộng các thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và
thực hiện công cuộc mở cửa, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, từ đó,
góp phần quan trọng vào việc thực hiện mô hình phát triển toàn diện theo chủ
trương của Đảng. Người dân ngày càng được phát huy quyền làm chủ đất nước của
mình và góp phần vào hoạt động kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế của doanh
nghiệp và của Nhà nước nhờ được Đảng cung cấp kịp thời các thông tin về các
chính sách, chiến lược phát triển. Chính vì thế, trong suốt hơn 35 năm thực hiện
công tác đổi mới, Đảng ta đã gặt hái không ít những thành tựu lớn lao trong các mặt
kinh tế: đưa Việt Nam thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội vào những năm
80 của thế kỷ XX, tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định (khoảng 5,9% trong năm
2021), lạm phát và cán cân thanh toán quốc tế cũng được giữ ở mức ổn định, đời
sống nhân dân ngày càng được cải thiện, chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục ngày
càng được nâng cao, và gần đây nhất, trong thời kỳ đại dịch COVID-19 đầy khó
khăn, thử thách, Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế 2,91%, xuất sắc lọt
vào trong nhóm nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới.
- Dân chủ trong chính trị:
40

Dân chủ trong chính trị được thể hiện qua các mối quan hệ giữa Nhà nước và
nhân dân hay việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Những năm gần đây, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân có thể tiếp cận
gần hơn và được nêu lên ý kiến, quan điểm riêng của mình về các chính sách của
Đảng và Nhà nước, như các kế hoạch quy hoạch hóa đất đai, phương án đền bù để
giải phóng mặt bằng,... Nhà nước dần dần đổi mới các bộ luật, các quy định để phù
hợp hơn với tình hình chuyển đổi cơ cấu kinh tế của nước ta hiện tại. Không những
thế, Nhà nước còn đổi mới cơ cấu tổ chức của bộ máy Nhà nước giúp cắt giảm, đơn
giản hóa các thủ tục hành chính, giúp nhân dân giải quyết các vấn đề một cách hiệu
quả và tiết kiệm thời gian, như từ năm 2018-2021, thực hiện theo chỉ thị của Nhà
nước về việc tinh giản hóa các thủ tục hành chính, Sở Công thương tỉnh Thanh Hóa
đã cắt giảm nhiều thủ tục tới hơn 50% thời gian cần để giải quyết. Để thực hiện
được những điều trên, trong những năm gần đây, Nhà nước đã thực sự quan tâm
đến mối quan hệ với người dân, để nhân dân được làm chủ, đóng góp ý kiến và
giám sát việc thực hiện các hoạt động của Nhà nước để Nhà nước Việt Nam thật sự
trở thành Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
- Dân chủ trong văn hóa - xã hội:
Trong hơn 35 năm thực hiện công tác đổi mới, việc thực hiện dân chủ trong xã
hội ngày càng được cải thiện, người dân ngày càng phát huy được vai trò làm chủ
của mình đối với đất nước. Nhân dân được Đảng và Nhà nước tạo điều kiện thuận
lợi để nêu lên các quan điểm của mình thể hiện qua việc người dân ngày càng tích
cực hơn trong việc phát biểu ý kiến riêng tại các cơ sở, góp phần vào công tác xây
dựng Đảng và chính quyền, cũng như ngày càng làm tốt hơn vai trò giám sát các
cán bộ, Đảng viên trong việc thực hiện các hoạt động của Nhà nước. Đồng thời, các
quyền công dân, quyền tự do ngôn luận hay quyền tự do sáng tạo cũng ngày càng
được Nhà nước đề cao, giúp cho người dân có được tiếng nói riêng và được tự do
hơn trong các quá trình tranh luận, đóng góp ý kiến vào việc xây dựng nền dân chủ
của đất nước ta. Chính những sự đổi mới này đã đóng góp một cách tích cực trong
việc thực hiện dân chủ của nước ta, giúp nước ta ngày càng tiến gần hơn tới các
mục tiêu đã đề ra.
41

2.5.2. Những hạn chế còn tồn tại


Tuy nhiên, Nhà nước Việt Nam cũng đã gặp không ít khó khăn do Nhà nước
pháp quyền vẫn đang trong quá trình hình thành, việc thực hành dân chủ còn khó
khăn, chưa tốt và còn vướng phải sự chống phá của các thế lực thù trong giặc ngoài
đã gây ra không ít hạn chế trong quá trình thực hiện các mục tiêu đã đề ra theo định
hướng dân chủ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Trong đó, những hạn chế lớn nhất
cần được khắc phục kịp thời là:
- Dân chủ trong kinh tế:
Trong những năm gần đây, việc thực hiện dân chủ trong kinh tế ta ngày càng
được cải thiện, tuy nhiên vẫn còn xuất hiện nhiều bất cập chưa thể giải quyết được.
Một số doanh nghiệp vì quá chú trọng vào doanh thu và lợi nhuận doanh nghiệp
mình mà quên đi lợi ích của mọi người, tìm mọi cách để lách qua khe hở của pháp
luật để thực hiện các hành vi tư lợi cho riêng mình. Bản chất của dân chủ hóa xã hội
chủ nghĩa là công hữu hóa tư liệu sản xuất, điều này khi không được hiểu rõ và
tuyên truyền xuyên tạc đã gây ra không ít những hoài nghi trong nhân dân và trong
các doanh nghiệp, không ít người dân cho rằng việc công hữu tư liệu sản xuất là
chuyên quyền, áp đặt, nhiều doanh nghiệp tư nhân cũng hạn chế đóng góp cho Nhà
nước vì sợ sẽ bị thiệt thòi trong tương lai sau này. Chính vì những hạn chế trên cùng
với sự chống phá của các thế lực phản động đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh
tế, và làm chậm tiến trình dân chủ hóa trong kinh tế của nước ta.
- Dân chủ trong chính trị:
Những vấn đề hạn chế trong việc thực hiện dân chủ trong Đảng cũng gây ra
những khó khăn không nhỏ trong việc thực hiện dân chủ trong chính trị. Đầu tiên,
quyền lực của cơ quan Nhà nước là bắt nguồn từ sự tin tưởng của toàn thể nhân dân,
nhân dân tin tưởng các cá nhân, tổ chức cụ thể nên đã giao quyền lại họ để có thể
quản lý đất nước một cách tốt hơn. Tuy nhiên, việc giao quyền lực quá lớn có thể
dẫn đến việc lòng tham của một số cá nhân nổi lên, và lạm dùng chức quyền của
mình, chưa làm đủ, làm đúng những gì được nhân dân giao phó, thậm chí còn có
các thói quan liêu đối với dân, tham nhũng tài sản của Nhà nước như trong những
năm gần đây, Việt Nam xuất hiện nhiều vụ tham nhũng của các quan chức Nhà
nước với quy mô lớn như từ đầu năm 2022 đến nay đã có 27 cán bộ thuộc Bộ Chính
42

Trị, Ban Bí thư quản lý chịu kỷ luật do tham nhũng.. Muốn hạn chế tình trạng này
đòi hỏi việc thực hiện dân chủ phải được phổ biến rộng rãi cho người dân trên cả
nước, tuy nhiên, với một bộ máy quản lý cồng kềnh của Nhà nước ta hiện nay thì
việc phổ biến dân chủ đến toàn dân còn là một điều vô cùng khó khăn. Một vấn đề
khác ảnh hưởng đến việc thực hiện dân chủ trong Nhà nước là việc thể chế hóa chủ
trương của Đảng và Nhà nước còn chậm, thậm chí gặp nhiều trở ngại khi đi vào đời
sống của nhân dân làm mất lòng tin của người dân vào Đảng và chính quyền, cũng
như cản trở sự phát triển về mọi mặt của nước ta.
- Dân chủ trong văn hóa - xã hội:
Chính những sự yếu kém, hạn chế trong quá trình quản lý của Đảng và Nhà
nước đã dẫn đến sự yếu kém trong việc thực hiện dân chủ trong xã hội. Nước ta
chưa có một hệ thống đồng bộ, thống nhất, cũng như những cơ chế đảm bảo cho
nhân dân thực thi quyền làm chủ đất nước của mình. Hơn thế nữa, chính quyền ta
hiện nay vẫn chưa thật sự sát sao với tình hình thực tế của nhân dân, cũng như cung
cấp cho người dân đầy đủ thông tin về các chính sách, chiến lược phát triển của Nhà
nước. Những vấn đề trên đã làm nảy sinh tình trạng thiếu trách nhiệm trong việc
triển khai thực hiện dân chủ trong xã hội. Ở một số địa phương, người dân có xu
hướng coi mọi việc quan trọng của Nhà nước đều là trách nhiệm của chính quyền
địa phương, không quan tâm, hay trực tiếp giám sát các hoạt động của các cán bộ,
Đảng viên tại địa phương mình. Một bộ phận đông đảo người dân hiện nay do chưa
hoàn toàn hiểu được quá trình dân chủ hóa của nước ta, nên còn ngại nói lên ý kiến
đóng góp của mình đối với địa phương, vì họ sợ nếu nhận xét hay phê bình quá
mạnh mẽ sẽ dẫn đến việc động chạm tới các cơ quan chính quyền. Nhìn chung,
những điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát huy quyền làm chủ của
nhân dân Việt Nam.
43

CHƯƠNG 3: TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC GÓP PHẦN
XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài,
cần sự đóng góp, chung tay của cả Đảng, Nhà nước và thế hệ kề cận trong công
cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì thế, thế hệ thanh thiếu
niên, trong đó có sinh viên với vai trò là lực lượng kế thừa, phát huy nguồn trí tuệ
nước nhà, là nguồn lực chủ yếu trong thời đại kinh tế tri thức, khoa học công nghệ,
đóng vai trò then chốt trong phát triển đất nước được đánh giá rất cao bởi tiềm năng
phát triển cùng với sự tiến bộ về tri thức.
Tuy nhiên, để phát huy tối ưu hiệu quả đó thì bản thân mỗi cá nhân phải ý thức
rõ tầm quan trọng và trách nhiệm của mình trong tiến trình xây dựng, phát triển Nhà
nước xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay thông qua các cách thực thi sau:
Thứ nhất, sinh viên cần trang bị những hiểu biết nhất định và kiến thức cơ bản
về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa, để thấm nhuần tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, mục tiêu lý tưởng, bản chất tốt đẹp mà các cấp
nhà lãnh đạo Nhà nước Việt Nam đã thực hiện để đi lên chủ nghĩa xã hội, củng cố
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch nhằm
vào việc phá rối bộ máy Nhà nước; bên cạnh đó còn là tầm quan trọng của sự học
và nghiên cứu cách vận dụng hiệu quả vào tình hình của nước ta, tiếp tục xây dựng
đất nước theo đà đi lên chủ nghĩa xã hội đảm bảo nền dân chủ thực chất, xây dựng
một Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Thứ hai, mỗi sinh viên cần rèn luyện tính chăm chỉ trong học tập, sáng tạo
trong lao động; có động cơ, mục đích học tập đúng đắn, học tập để góp phần xây
dựng đất nước, nhận thức được học tập tốt chính là tinh thần ái quốc. Bên cạnh đó,
việc xây dựng một hình ảnh sinh viên Việt Nam năng động, nhiệt huyết, có đạo đức
tốt để làm gương, truyền cảm hứng cho các thế hệ tiếp tục cũng như đồng trang lứa
phấn đấu, vượt lên khẳng định bản thân, sáng tạo không ngừng xây dựng đất nước,
thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa cũng được xem là một trong những trách nhiệm
của sinh viên thời đại mới.
44

Thứ ba, tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh,
tránh xa các tệ nạn xã hội; đấu tranh chống các biểu hiện của các hành động phản
động, chống phá, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước
và nhân dân. Sinh viên phải biết phê phán, đấu tranh với những hành vi đi ngược lại
lợi ích quốc gia, dân tộc; đồng thời gương mẫu chấp hành chính sách, pháp luật và
thực hiện nghĩa vụ công dân.
Thứ tư, tích cực tham gia góp phần xây dựng quê hương bằng những việc làm
thực tế, phù hợp khả năng như: tham gia bảo vệ môi trường, phòng chống tệ nạn xã
hội, xóa đói giảm nghèo, chống tiêu cực, tham nhũng, tham gia những hoạt động
mang tính xã hội như hiến máu tình nguyện, làm tình nguyện viên… hoặc đơn cử
như là giữ gìn trật tự, an ninh, an toàn xã hội, quốc phòng quốc gia.
Thứ năm, cần đặc biệt nghiên cứu, chọn lựa cẩn thận khi bầu cử cho những đại
biểu sẽ đại diện cho ý kiến của cộng đồng, nhận thức được những quyền dân chủ
mà mình có, sử dụng những quyền ấy để phát huy xây dựng đất nước, xã hội theo
con đường dân chủ xã hội chủ nghĩa.
v

KẾT LUẬN
Trong suốt hơn 35 năm thực hiện quá trình đổi mới Nhà nước, dân chủ hóa
luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta, nó định hướng cho những
chính sách, chiến lược phát triển của Nhà nước, đồng thời cũng là khát vọng của
toàn thể dân tộc ta khi hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”. Hiểu được tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ hóa cả
nước, nhóm đã tiến hành phân tích các khái niệm về dân chủ, dân chủ xã hội chủ
nghĩa, cũng như các yếu tố bên trong và bên ngoài ảnh hưởng đến sự hình thành
nhận thức về dân chủ ở nước ta. Không dừng lại ở đó, nhóm còn tiến hành phân tích
thêm về những thành tựu nổi bật mà Đảng và Nhà nước ta đã đạt được, cũng như
những hạn chế mà chúng ta còn mắc phải trong quá trình thực hiện dân chủ, nhằm
để xem xét mức độ phù hợp của việc thực hiện dân chủ đối với tình hình thực tế của
nước ta hiện tại, cũng như rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình đổi mới
đất nước từ năm 1986 đến nay. Cuối cùng, nhóm đã tìm hiểu về những nội dung đổi
mới của đất nước hiện nay để có một cái nhìn sâu sắc hơn về quá trình thực hiện
dân chủ của Đảng và Nhà nước, cũng như có được thông tin về các chính sách,
chiến lược của Nhà nước một cách đầy đủ, toàn diện hơn để nâng cao ý thức của
bản thân và những người xung quanh trong việc thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Do kỹ năng và kiến thức chuyên môn của nhóm còn nhiều thiếu sót, cũng
như hạn chế về mặt thời gian nên bài phân tích của nhóm còn nhiều thiếu sót, chưa
thể phân tích một cách đầy đủ các yếu tố tác động đến nhận thức về dân chủ cũng
như những thành tựu và hạn chế của Đảng và Nhà nước trong quá trình thực hiện
dân chủ.
Cuối cùng, nhóm hi vọng bài phân tích sẽ là một nguồn tài liệu tham khảo có
ích cho các bài phân tích, nghiên cứu về dân chủ xã hội chủ nghĩa trong tương lai,
để cùng góp phần vào việc nâng cao nhận thức về dân chủ của đất nước ta.
vi

TÀI LIỆU THAM KHẢO


WEBSITE
1. Nguyễn Quang Thuấn, 2022, Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/phat-trien-kinh-
te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-137544, truy cập ngày
25/10/2022.
2. Hồng Quân, 2006, Vì sao chúng ta chọn chủ nghĩa xã hội?,
https://www.sggp.org.vn/vi-sao-chung-ta-chon-chu-nghia-xa-hoi-181235.html ,
truy cập ngày 24/10/2022.
3. Kiều Liên, 2021, Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đáp ứng đúng khát vọng
của nhân dân Việt Nam, https://baochinhphu.vn/con-duong-di-len-chu-nghia-
xa-hoi-dap-ung-dung-khat-vong-cua-nhan-dan-viet-nam-102293345.htm, truy
cập ngày 26/10/2022.
4. Báo Người Lao động, 2021, Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, https://nld.com.vn/thoi-su/chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-
len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-20210516231050984.htm, truy cập ngày
24/10/2022.
5. Tạp chí Cộng sản, 2012, Socialism and the path to Socialism – Vietnam’s
perspective, https://tapchicongsan.org.vn/web/english/focus/detail/-
/asset_publisher/FMhwM2oQCZEZ/content/socialism-and-the-path-to-
socialism-vietnam-s-perspective, truy cập ngày 25/10/2022.
6. Cổng thông tin điện tử tỉnh Tuyên Quang, 2016, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ
nghĩa Xã hội và định hướng xây dựng Chủ nghĩa Xã hội theo tinh thần Đại hội
XII của Đảng, https://tuyenquang.gov.vn/noidung/tintuc/Pages/chi-tiet-tin
tuc.aspx?ItemID=10077&l=Tintuc, truy cập ngày 25/10/2022.
7. Thảo Nguyên, 2020, Thực hiện dân chủ về kinh tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
https://kinhtedothi.vn/thuc-hien-dan-chu-ve-kinh-te-theo-tu-tuong-ho-chi-
minh.html, truy cập ngày 24/10/2022.
8. Vũ Văn Phúc, 2018, Quá độ lên chủ nghĩa xã hội - Một tất yếu lịch sử,
https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-mot-tat-
yeu-lich-su-113142, truy cập ngày 24/10/2022.
vii

9. ThS Nguyễn Thị Yến, 2020, Tư tưởng V.I.Lênin – Những đóng góp to lớn để
xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực trong thời kỳ quá độ,
http://truongchinhtribentre.edu.vn/content/tư-tưởng-vilênin—-những-đóng-góp-
lớn-để-xây-dựng-xã-hội-chủ-nghĩa-hiện-thực-trong-thời-kỳ-quá-độ, truy cập
ngày 25/10/2022.
10. Tạp chí Cộng sản, 2016, Những nhân tố tác động và ảnh hưởng đến quá trình
dân chủ hóa ở nước ta, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-
cu/-/2018/37400/nhung-nhan-to-tac-dong-va-anh-huong-den-qua-trinh-dan-chu-
hoa-o-nuoc-ta.aspx, truy cập ngày 25/10/2022.
11. Hội đồng Lý luận Trung ương, 2019, Dân chủ và thực trạng thực hiện dân chủ
những năm qua, https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/dan-chu-va-thuc-trang-
thuc-hien-dan-chu-nhung-nam-qua.html, truy cập ngày 26/10/2022.
12. Báo VietnamPlus, 2015, 30 năm đổi mới - Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử, https://www.vietnamplus.vn/30-nam-doi-moi-nhung-thanh-tuu-to-lon-
co-y-nghia-lich-su/334633.vnp, truy cập ngày 27/10/2022.
13. Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Thọ, 2021, Những thành tựu to lớn có ý nghĩa
lịch sử, https://phutho.gov.vn/vi/nhung-thanh-tuu-lon-co-y-nghia-lich-su-0, truy
cập ngày 26/10/2022.
14. Báo điện tử VTV, 2022, Hàng loạt đại án tham nhũng bị phanh phui, xử lý
trong nửa đầu năm 2022, https://vtv.vn/chinh-tri/hang-loat-dai-an-tham-nhung-
bi-phanh-phui-xu-ly-trong-nua-dau-nam-2022-20220823232200933.htm, truy
cập ngày 27/10/2022.
15. Báo Thanh Hóa, 2022, Cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính,
https://baothanhhoa.vn/thoi-su/cat-giam-don-gian-hoa-thu-tuc-hanh-
chinh/161947.htm, truy cập ngày 26/10/2022.
16. Báo Dân vận, 2016, Thực hành và phát huy dân chủ qua 30 năm đổi mới,
http://danvan.vn/Home/Khoa-hoc-nghiep-vu/Khoa-hoc-dan-van/2856/Thuc-
hanh-va-phat-huy-dan-chu-qua-30-nam-doi-moi, truy cập ngày 26/10/2022.
viii

TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT


17. Tạ Trần Trọng & Hạ Tấn Bình & Nguyễn Khánh Vân, 2004, Tài liệu học tập
môn Chủ nghĩa xã hội khoa học, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh, Ban Triết học - xã hội học.
18. Nguyễn Anh Tuấn, 2016, Nhận thức mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, Luận án Tiến sĩ
Triết học, Học viện chính trị quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
19. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2021, Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (Dành
cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), NXB Chính trị Quốc gia sự
thật.
20. PGS, TS Lê Thị Thanh Hà, Từ quan niệm của V.I.Lênin về chuyên chính và
dân chủ đến xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.

You might also like