You are on page 1of 15

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP NHÓM


MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Chủ đề: Từ nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm
trù “cái riêng và cái chung”, hãy vận dụng để nhận thức và giải
quyết một vấn đề của thực tiễn.

Nhóm :01
Lớp :4614

Hà Nội , 2021

1
MỤC LỤC
Trang

A. MỞ ĐẦU……………………………………………………………… 3
B. PHÂN TÍCH…………………………………………………………...
I. Định nghĩa……………………………………………………….
3
1. Khái niệm…………………………………………………….
4
2. Mối quan hệ…………………………………………………..
4
3. Sự tồn tại……………………………………………………...
4
4. Ý nghĩa phương pháp luận……………………………………
II. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam…………………………………………………………… 5
… 5
1. Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 8
nghĩa………………………………………………………….
2. Kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan…………...…… 9
3. Cái chung được vận dụng vào nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay……………...…...
10
4. Cái riêng được vận dụng vào nền kinh tế thị trường định
11
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay……………...…...
5. Thành tựu và hạn chế của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam……………………………….... 12
5.1. Thành tựu………………………………………………
5.2. Hạn chế……………………………………………...…
C. KẾT LUẬN…………………………………………………………….

2
A. MỞ ĐẦU
      
        Chiến tranh đã qua đi, nỗi đau của những người ở lại, của những thế hệ tiếp
nối đã phần nào nguôi ngoai. Giờ đây cả dân tộc một lòng cùng nhau xây dựng một
nền kinh tế mới, quyết tâm phá bỏ nền kinh tế vốn đã lạc hậu lại phải trải qua hai
cuộc chiến tranh tàn khốc nên ngày càng kiệt quệ hơn, quyết tâm “ tái tạo” một
Việt Nam mới trong mắt bạn bè thế giới. Ngay từ sau khi thống nhất đất nước
( năm 1975), bắt đầu từ cơ sở kinh tế lạc hậu, trì trệ đó, nước ta xây dựng nền kinh
tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, khiến cho đất nước lâm vào tình trạng
khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Yêu cầu đặt ra là phải tìm ra một lối đi mới,
một giải pháp mới phù hợp với tình hình đất nước lúc này. Chỉ có thể đổi mới, chỉ
có thể cải cách mới có thể “ tái tạo” lại một nền kinh tế khánh kiệt. Trong khi đó,
nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường mà CNTB đã đạt được những thành tựu về
kinh tế-xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động cũng như
đời sống con người.
Trước những ưu điểm của nền kinh tế thị trường đang mang lại cho thế giới,
trong Đại hội Đảng VI ( tháng 12/1986), Đảng ta kịp thời nhận ra sai lầm và tiến
hành sửa đổi, chuyển sang xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN,
kích thích sản xuất, phát triển kinh tế nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội
công bằng văn minh. Tất nhiên khi chập chững bước vào một nền kinh tế mới sẽ
phải qua đầy gian khó, phức tạp, đòi hỏi ở nền kinh tế Việt Nam sự học tập, tiếp
thu kinh nghiệm của nhân loại trên cơ sở cân nhắc, chọn lựa cho phù hợp với hoàn
cảnh và điều kiện của Việt Nam.
 Trong quá trình học hỏi đó, triết học Mác-Lênin, đặc biệt là phạm trù triết
học cái chung và cái riêng có vai trò là kim chỉ nam cho mọi hoạt động nhận thức
về kinh tế thị trường. Để góp thêm một tiếng nói ủng hộ đường lối phát triển kinh
tế mà Đảng và nhà nước ta đã và đang xây dựng, nhóm em đã chọn vấn đề "Mối
quan hệ giữa cái riêng và cái chung và vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế
thị trường ở nước ta" làm công trình nghiên cứu của mình.
 
B. PHÂN TÍCH
 
I. Định nghĩa
1. Khái niệm
          Cái chung và cái riêng là một cặp phạm trù trong phép biện chứng duy
vật Mác-Lenin và là một trong những nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến dùng để chỉ mối quan hệ biện chứng giữa Cái riêng ( tức phạm trù chỉ về một
sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định) với Cái chung ( tức phạm trù chỉ
những mặt, những thuộc tính không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà
còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác )
3
 
2. Mối quan hệ
          Phép biện chứng duy vật của Triết học Marx-Lenin cho rằng cái riêng, cái
chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ
với nhau; phạm trù cái riêng được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
quá trình riêng lẻ nhất định, còn phạm trù cái chung được dùng để chỉ những mặt,
những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn
được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
 
Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối
liên hệ đưa đến cái chung. Bất cứ cái riêng [nào cũng] là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng
là [một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất] của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ
bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập
đầy đủ vào cái chung ( Lenin )
 
3. Sự tồn tại
Cái riêng xuất hiện chỉ tồn tại được trong một khoảng thời gian nhất định và
khi nó mất đi sẽ không bao giờ xuất hiện lại, cái riêng là cái không lặp lại.
Cái chung tồn tại trong nhiều cái riêng, khi một cái riêng nào đó mất đi thì những
cái chung tồn tại ở cái riêng ấy sẽ không mất đi, mà nó vẫn còn tồn tại ở nhiều cái
riêng khác.
 
4. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ việc phát hiện mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, Triết
học Mác-Lenin nêu ra một số ý nghĩa phương pháp luận cho mối quan hệ này để
ứng dụng vào thực tiễn và tư duy, cụ thể là:
          Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự
vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người
bên ngoài cái riêng vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để
biểu thị sự tồn tại của mình.
          Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng, nên nhận thức phải
nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải
tạo cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết những nguyên
lý chung (không hiểu biết lý luận), sẽ không tránh khỏi rơi vào tình trạng hoạt
động một cách mò mẫm, mù quáng.
           Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định "cái
đơn nhất" có thể biến thành "cái chung" và ngược lại "cái chung" có thể biến thành
"cái đơn nhất", nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều kiện thuận
lợi để "cái đơn nhất" có lợi cho con người trở thành "cái chung" và "cái chung" bất
lợi trở thành "cái đơn nhất".
 

4
III. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế trong đó các yếu tố đầu vào và đầu ra
đều phải thông qua thị trường, nghĩa là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà sản phẩm
sản xuất ra là để bán, trao đổi trên thị trường. Trong kiểu tổ chức này toàn bộ quá
trình sản xuất – phân phối, trao đổi tiêu dùng mua bán và hệ thống thị trường do thị
trường quyết định.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành đầy
đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo định
hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh
tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

2. Kinh  tế thị trường là một tất yếu khách quan

 Xét về xuất phát điểm của nền kinh tế, nước ta sau khi trải qua hai cuộc chiến
tranh ác liệt, cơ sở vật chất kỹ thuật vốn lạc hậu lại càng bị tàn phá nặng nề, nền
kinh tế  càng trở nên sa sút, khánh kiệt.
 Sau khi chiến tranh kết thúc, ta tiếp tục chủ trương xây dựng nền kinh tế bao
cấp, kế hoạch hóa tập trung dựa vào hình thức sở hữu công cộng tư liệu sản xuất.
Nếu như chủ trương nền kinh tế tập trung bao cấp đã bộc lộ được nhiều ưu điểm
trong thời chiến, thì vào thời bình nó lại bộc lộ ra những hạn chế. Sau chiến tranh,
nền kinh tế nước ta tồn tại ba gam màu: nền kinh tế tự túc; nền kinh tế tập trung và
nền kinh tế hàng hóa. Ba gam màu xung đột với nhau, cùng với sự cứng nhắc chủ
quan không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý,  chúng ta đã không tận
dụng được các yếu tố phát triển kinh tế và làm lãng phí các nguồn tài nguyên - môi
trường. Đồng thời nước ta bị cắt giảm việt trợ từ các nước XHCN. Chính những
nguyên nhân, hạn chế trên đã làm cho nền kinh tế nước ta trở nên khủng hoảng
nghiêm trọng. Muốn tái tạo lại một Việt Nam mới, ta cần thay đổi. Chỉ có đổi mới,
thay đổi mới đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng.Nhìn vào những ưu điểm mà
nền kinh tế thị trường đã đem lại cho thế giới, Đảng ta đã nhận định nền kinh tế thị
trường chính là một tất yếu khách quan.
Có 3 lý do để lý giải tính tất yếu khách quan của việc phát triển KTTT định
hướng XHCN.
Thứ nhất, phải nhấn mạnh rằng : Phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN là phù hợp với tính quy luật phát triển khách quan.
Chúng ta thấy rằng, KTTT bản chất là giai đoạn phát triển cao của Kinh tế
hàng hóa, hay nói cách khác, KTHH phát triển đến một trình độ nhất định, tất yếu

5
sẽ chuyển sang KTTT ; nó là quy luật phát triển tất yếu khách quan, nằm ngoài với
suy nghĩ chủ quan của con người. Cũng giống như sâu kén phát triển tới một thời
điểm sẽ lột xác thành bướm ngài.
 Nhìn lại lịch sử, Việt nam chúng ta vốn đã hình thành nền kinh tế hàng hóa từ
lâu, cuối thời Phong kiến rồi sang thời Pháp thuộc và giai đoạn kháng chiến chống
Mỹ, nền kinh tế hàng hóa từng bước phát triển. Do vậy, chúng ta có nền tảng kinh
tế hàng hóa.
        Hơn nữa, chúng ta sẵn có các điều kiện thúc đẩy, phát triển Kinh tế hàng hóa
( như : thị trường cung – cầu, thị trường lao động, vị trí địa lý, tài nguyên…).
        Rõ ràng, Vừa có nền tảng KTHH, vừa có điều kiện thuận lợi để phát triển
KTHH nên do đó, việc hình thành KTTT sẽ là vấn đề tất yếu khách quan.
Tuy nhiên, nhiều người sẽ đặt câu hỏi:
 “ Phát triển KTTT là tất yếu, nhưng tại sao lại là KTTT định hướng
XHCN mà không phải là các kiểu KTTT khác ?”
   Chúng ta lưu ý rằng, KTTT trong mỗi hình thái Kinh tế xã hội cụ thể , phải
chịu sự chi phối của các quan hệ sản xuất thống trị. Nói một cách đơn giản, nó sẽ
phát triển theo các định hướng của Nhà nước thống trị. Trong lịch sử, đã sớm có
kiểu mô hình KTTT TBCN, nó được coi là công cụ, phương tiện phát triển kinh tế
của các nước tư bản, đảm bảo quyền lợi cho bộ phận giai cấp thống trị là giai cấp
tư sản.
          Còn Việt Nam đang theo định hướng  đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nhà
nước của dân, do dân và vì dân; với hệ tiêu chí « dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh », dĩ nhiên, sự lựa chọn mô hình KTTT định hướng XHCN là
phù hợp với xu thế của thời đại và đặc điểm phát triển của dân tộc.
        Mặc khác, xét về tiến trình phát triển, loài người sẽ tuần tự phát triển từ :
Cộng sản nguyên thủy – Chiếm hữu nô lệ – Phong kiến – Tư bản chủ nghĩa – Xã
hội chủ nghĩa(giai đoạn đầu của xã hội nguyên thủy). Việt Nam quá độ lên CNXH
bỏ qua TBCN, Cho nên việc, bỏ qua giai đoạn phát triển KTTT Tư bản chủ nghĩa
là hoàn toàn phù hợp với đặc điểm tình hình ở Việt Nam, các bạn nhé.
 
Lý do thứ hai, (về mặt kinh tế), KTTT định hướng XHCN có tính ưu việt
trong thúc đẩy kinh tế.
          Kinh tế thị trường là một thành tựu phát triển văn minh của nhân loại trong
sản xuất và trao đổi sản phẩm. Phát triển KTTT có nhiều ưu việt như: sự tác động
của quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh sẽ phân bổ nguồn lực hiệu quả.
Ví dụ như, sinh viên đi học xa, có nhu cầu thuê nhà trọ. Quy luật cung cầu, sẽ thúc
đẩy việc hình thành những người sở hữu đất xây nhà trọ cho sinh viên thuê, mà
không cần nhà nước phải ra chính sách kêu gọi. Quy luật cạnh tranh sẽ hình thành
giá thuê nhà trung bình có thể chấp nhận được của xã hội.

6
 Ưu việt thứ hai của KTTT là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
nhanh và hiệu quả cao. kích thích tiến bộ kỹ thuật  - công nghệ, nâng cao năng suất
lao động, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm.
Đơn cử như sản xuất điện thoại chẳng hạn, tác động của cơ chế thị trường, các nhà
sản xuất điện thoại phải luôn cải tiến mẫu mã, đổi mới kỹ thuật công nghệ, nâng
cao năng suất, chất lượng sản phẩm để cạnh tranh với các đối thủ khác.
Ngoài ra, nếu so sánh nền Kinh tế Bao cấp  trước kia với nền KTTT hiện nay thấy
rằng, trong KTTT chất lượng hàng hóa tốt, số lượng hàng hóa rất đa dạng, phong
phú hơn rất nhiều, chính là tác động tích cực từ quy luật cạnh tranh, cung cầu mang
lại.Kinh tế thị trường có rất nhiều ưu việt và là công cụ, phương tiện để thúc đẩy
lực lượng sản xuất, thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, KTTT luôn tiềm ẩn những khuyết tật và thất bại của trường (như độc
quyền, ô nhiễm môi trường, cạnh tranh không lành mạnh, hàng giả, hàng nhái…)
nên cần có sự can thiệp của nhà nước.

Lý do thứ ba, (về mặt xã hội) của  việc phát triển KTTT định hướng XHCN
là mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân mong muốn một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
Sự khác biệt cơ bản giữa nhà nước Việt Nam với các nhà nước TBCN là nhà nước
chúng ta được hình thành từ cuộc cách mạng vô sản, cuộc cách mạng đó là do nhân
dân thực hiện. Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Còn
cuộc cách mạng tư sản của các nước TBCN là do giai cấp TS thực hiện và Nhà
nước TBCN đảm bảo quyền lợi thiết thực cho giai cấp tư sản là giai cấp thống trị.
Với đặc điểm bản chất nhà nước này, chúng ta không thể lựa chọn mô hình kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa, chỉ có thể lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa mới phù hợp với ý chí và nguyện vọng của đông đảo nhân
dân lao động về một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Có thể xem phát triển KTTT định hướng XHCN là bước đi quan trọng và tất yếu
của sự phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, là bước quá độ để đi lên CNXH.

3. Cái chung được vận dụng vào nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay

Ở mỗi quốc gia, quá trình phát triển mô hình kinh tế thị trường giống như một
bức tranh, phải có những màu sắc riêng biệt mới có thể gây ấn tượng, mới không bị
pha trộn, tạp nham. Cụ thể mà nói những màu sắc riêng đó chính là những đặc thù
về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội . Bên cạnh đó, phải có những đặc điểm chung
mang tính quy luật mà bất cứ nước nào khi tiến hành mô hình kinh tế này bắt buộc
phải trải qua, trong đó có cả Việt Nam.

7
Trước hết, ta không thể phủ nhận những điểm chung tích cực mà nền kinh tế
thị trường mang lại:
   Cũng như mọi nước khác, chúng ta cũng chịu sự phân công lao động theo
nhiều ngành nghề từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ; có sự khác biệt về sở
hữu tài sản và đặc biệt lợi nhuận - đây chính là động lực cho sự phát triển của nền
kinh tế vì suy cho cùng mục đích cuối cùng của các hoạt động sản xuất chính là lợi
nhuận.
    Thứ nhất về thị trường: Nền kinh tế nước ta cũng vận động theo quy luật
vốn có của nền kinh tế thị trường đó là quy luật cung cầu, quy luật giá trị thặng dư,
quy luật lưu thông tiền tệ và phát triển các loại thị trường như thị trường tài chính ,
thị trường chứng khoán, thị trường lao động… Đây đều là những quy luật mà bất
cứ một nền kinh tế nào trên thế giới cũng phải chịu sự tác động, và phải biết vận
dụng một cách hợp lí, đúng đắn để tồn tại và phát triển.
    Thứ hai về chủ thể kinh tế: kinh tế thị trường định hướng XHCN ở các
nước đều do người lao động làm chủ. Điều này dựa trên cơ sở nhà nước thực sự
của dân, do dân và chế độ công hữu. Trong đó, người lao động đóng vai trò sở hữu
tư liệu sản xuất. Các chủ thể kinh tế được tự do sản xuất kinh doanh theo luật pháp
và được bình đẳng không phân biệt đối xử. Các chủ thể kinh tế đều có cơ hội để
tiếp cận các nguồn lực phát triển có hiệu quả.
    Thứ ba về cơ chế vận hành: Tôn trọng tính khách quan của các quy luật
kinh tế thị trường; tính năng động của cơ chế thị trường
     Thứ tư về vai trò của Nhà nước: Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường
trên cơ sở vận dụng các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường vào điều kiện
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế để định hướng phát triển, tạo lập môi
trường cho nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững và hạn chế mặt trái của cơ chế
thị trường.
Cuối cùng, có thể thấy đặc điểm chung nữa là những vấn đề tiêu cực mà kinh
tế thị trường đem lại: 
     Đó là sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc làm cho đời sống vật chất và tinh
thần của một bộ phận dân cư, nhất là nông dân ở vùng xa chậm được cải thiện, ít
được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng chung của nền kinh tế; sử dụng cạn kiệt
tài nguyên thiên nhiên gây ô nhiễm môi trường; nạn thất nghiệp gây khó khăn cho
cuộc sống của nhiều người; các tệ nạn xã hội gây sứ ép to lớn cho nền kinh tế nước
ta; làm cho kinh tế nước ta phát triển mất cân đối

8
4. Cái riêng được vận dụng vào nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay
Chúng ta đều thống nhất mô hình KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh
tế chung của nhiều đất nước nhưng kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam cũng có những cái riêng, cái đặc thù của Việt Nam:
Nước ta không coi kinh tế thị trường là mục tiêu mà chỉ là phương tiện để
phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội và thiết lập quan hệ sản xuất mới. Mục đích của chúng ta là xây dựng nước
ta thành một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ văn minh.
Trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế gắn liền với sự tiến bộ công bằng xã hội trong mỗi bước phát triển.
Tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với việc đẩy mạnh văn hoá, giáo dục để
nâng cao dân trí, đảm bảo nguồn nhân lực và xây dựng một nền văn hoá đậm đà
bản sắc dân tộc.
Nhà Nước với chức năng quản lý, điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều
kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế như bảo đảm sự ổn định về chính trị, xã hội,
thiết lập khuôn khổ luật pháp thống nhất, có hệ thống chính sách nhất quán để
tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh hoạt động hiệu quả.
Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội bảo đảm yêu cầu của phát triển kinh tế
Nhà nước quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế,
xã hội Thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà Nước về kinh tế và chức năng
chủ sở hữu tài sản công của Nhà Nước. Nhà nước chỉ với chức năng điều tiết và
quản lý vĩ mô, không can thiệp quá sâu vào chức năng quản trị kinh doanh cũng
như quyền tự chủ của doanh nghiệp.
Nền KTTT ở Việt Nam là nền KTTT định hướng XHCN dưới sự dẫn dắt và
lãnh đạo của Đảng. Chính nền KTTT định hướng XHCN đảm bảo cho mọi loại
hình doanh nghiệp, mọi tổ chức dân cư, mỗi gia đình, mỗi người dân bình đẳng
về kinh tế, chính trị xã hội. Trong đường lối mà Đảng ta đã đề ra, Đảng chủ
trương xây dựng nền KTTT phải dựa trên cơ sở đa dạng hóa hình thức sở hữu,
đa dạng hóa hình thức kinh tế,
Ở Việt Nam là nền KTTT định hướng XHCN, mặc dù phân bố các nguồn lực
cho các nhu cầu sử dụng khác nhau chủ yếu được quyết định bởi thị trường,
nhưng nhà nước XHCN đóng một vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô,
bảo đảm giữ vững các cân đối khách quan một cách tự giác. Bằng cách này hệ
thống kinh tế có thể hạn chế và khắc phục một số khuyết điểm của KTTT đảm
bảo đạt tới mục tiêu phát triển của một nền kinh tế định hướng XHCN.

9
KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là sự tìm tòi thể hiện mới cả về lý luận
lẫn thực tiễn của CNXH trong thời đại ngày nay. Đại đại hội Đảng IX, Đảng ta
đã xác định những nội dung lớn trong việc xây dựng KTTT ở nước ta trong
những năm tới là tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng
cao hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước. Thúc đẩy sự hình thành và phát
triển, từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng XHCN, đặc biệt
quan tâm các thị trường quan trọng nhưng chưa có hoặc còn sơ khai như thị
trường lao động, thị trường chứng khoán....Như vậy cùng với sự hoàn thiện và
thích đáng dẫn đến hệ thống kinh tế mới, thuật ngữ KTTT định hướng XHCN
cũng đang ở trong quá trình hoàn thiện về nhận thức.

5. Thành tựu và hạn chế của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam:
5.1. Thành tựu

 Có bước đổi mới về cơ bản sự đa dạng hóa cơ cấu sở hữu làm cho quan hệ
sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, hình
thành cơ cấu thị trường có nhiều thành phần kinh tế khác nhau tham gia. Do đó
năng lực sản xuất trong dân được giải phóng và phát huy, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.

Cơ cấu kinh tế đã có sự dịch chuyển theo hướng của chiến lược công nghiệp
hóa, hiện đại hóa về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả. Việt Nam
đã từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế quốc tế, kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ
thuật và kinh tế - xã hội có sự phát triển đáng kể, khoa học và công nghệ có chuyển
biến phục vụ tốt hơn cho sản xuất và đời sống.

Đã khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, đạt mức tăng trưởng khá
cao,liên tục và tương đối toàn diện, đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế
- xã hội.

 Nhìn chung cơ cấu Việt Nam đang từng bước chuyển dần sang hiện đại hóa
trong công nghiệp, dịch vụ, giảm dần các khu nông nghiệp. Nền nông nghiệp mang
tính chất tự túc đã chuyển thành nền nông nghiệp hàng hóa. Nông sản hoàng hóa
mở rộng về chủng loại, tăng nhanh về số lượng, trở thành nước xuất khẩu gạo đứng
thứ 2 thế giới sau Thái Lan

Cơ cấu lại hệ thống các doanh nghiệp nhà nước.Các doanh nghiệp tư nhân
tăng nhanh.Trong vòng 30 năm, Việt Nam thu hút được đông đảo vốn đầu tư từ
nước ngoài. Tổng số vốn này đạt mức 310 tỷ USD, góp phần giúp nền kinh tế Việt
nam tăng trưởng vượt trội.

10
 Các tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế được tự chủ sản xuất kinh
doanh đời sống vật chất nói chung và đang trên đà cải thiện rõ rệt, tỷ lệ nghèo đói
năm 1992 là mức 58% đến năm 2013 giảm xuống còn 7,6%

 Thu nhập và đời sống của các tầng lớp nhân dân ở các vùng đều được cải
thiện và có mức độ khác nhau, hệ thống giáo dục và hệ thống y tế được đầu tư và
đổi mới nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu về sức khỏe và học tập của người dân, mức
sống của người dân phát triển,chỉ số chăm sóc sức khỏe của người dân được nâng
cao. Việt nam đã có những hiệp ước quan trọng với thế giới mà điển hình là 11
hiệp định thương mại. Đây là các hiệp định tầm cỡ khu vực mang tính song
phương có tác động tích cực đến nền kinh tế Việt Nam. Đây là một trong những
thành tựu đổi mới từ 1986 đến nay.

5.2. Các hạn chế của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam

Tuy vậy, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Cụ thể là:
Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc vận hành của
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên đã tạo ra sự thiếu đồng bộ,
thiếu nhất quán và những bất cập trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường; do vậy, chưa huy động được tối đa tiềm lực để phát triển kinh tế. Mối quan
hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội chưa được xử lý phù hợp, rõ ràng, minh
bạch.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức tiềm
năng, lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động thấp,
khả năng cạnh tranh quốc tế chưa cao.
Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải, lãng phí, chưa
công bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng
xã hội, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất và tinh thần của
một bộ phận dân cư, nhất là nông dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa chậm được
cải thiện, ít được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng chung của nền kinh tế. Yếu tố
vật chất được đề cao, yếu tố tinh thần, đạo đức có lúc, có nơi bị xem nhẹ. Do vậy,
đã xuất hiện những biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, cá nhân, coi trọng đồng tiền,
xem thường truyền thống đạo lý, tác động xấu tới đời sống xã hội.
 
C. KẾT LUẬN
Sau hơn 35 năm nền kinh tế Việt Nam tiến hành đổi mới, một Việt Nam đang
được hồi sinh từ trong đổ nát của chiến tranh. Chính sự đổi mới này đã làm thay
11
đổi bộ mặt, cơ cấu của nền kinh tế Việt Nam, khiến Việt Nam ngày càng hòa nhập
với nhịp độ, tiến trình phát triển chung của thế giới. Tuy nhiên để kinh tế phát triển
hơn nữa, Việt Nam vẫn đang nghiên cứu, học tập để tìm ra hướng đi đúng đắn cho
nền kinh tế. Đảng ta đã luôn phải đứng trước hai con đường cái chung và cái
riêng,  và luôn đặt ra câu hỏi: Liệu cái nào là quy luật phải tuân theo và cái nào có
thể thay đổi, cái nào là của riêng chúng ta? Đứng trước tình hình đó, triết học Mác
Lênin đã trở thành kim chỉ nam định hướng  cho toàn bộ quá trình xây dựng kinh
tế thị trường Việt Nam. Tuy nằm trong hệ thống kinh tế thị trường thế giới chịu tác
động của các quy luật, phạm trù nhưng kinh tế thị trường nước ta lại là kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa , phát triển kinh tế đi đôi với công bằng và tiến
bộ xã hội. Ngay từ khi đổi mới chúng ta đã nhấn mạnh việc đổi mới nhưng không
làm mất đi bản chất của XHCN, vì vậy chúng ta không coi kinh tế thị trường là
mục tiêu mà coi nó chỉ là phương tiện để chúng ta xây dựng một xã hội dân giàu
nước mạnh, công bằng, dân chủ , văn minh, mục đích cuối cùng đều là phục vụ lợi
ích nhân dân. Với vai trò là một cái riêng, nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam cũng tuân theo những quy luật chung mang tính bản chất của
nền kinh tế thị trường, đồng thời cũng chứa đựng những quan điểm, bản sắc đặc
trưng, vốn có, riêng của Việt Nam.
Sau khi nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng và vận
dụng vào xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam, ngoài việc nâng cao nhận thức
của bản thân về kinh tế thị trường, điều nhóm thu nhận lớn nhất là một cá thể riêng
biệt phải là sự kết hợp giữa cái chung và cái riêng một cách hợp lí. Nếu cái riêng
lấn át cái chung sẽ trở nên “ dị biệt” chứ không còn là riêng biệt, khi ấy sẽ xa rời
nhân loại, xa rời công đồng, không thể hòa nhập và tồn tại. Ngược lại nếu cái
chung lấn át cái riêng thì cá thể đó sẽ trở nên mờ nhạt, không để lại ấn tượng của
riêng mình với xã hội.  Vì vậy, trong mọi hoạt động thực tiễn cần phải kết hợp tốt
mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng để tồn tại tốt hơn.

12
Danh mục tài liệu tham khảo:

1. Đặc trưng của nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam: https://tuyengiaotiengiang.vn/news/Ly-luan-Chinh-tri/Dac-
trung-cua-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-
o-Viet-Nam-114/
2. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam:
http://www.dankinhte.vn/dac-trung-cua-nen-kinh-te-thi-truong-o-
viet-nam/
3. https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1i_chung_v%C3%A0_c
%C3%A1i_ri%C3%AAng_(Ch%E1%BB%A7_ngh
%C4%A9a_Marx-Lenin)

13
BIÊN BẢN XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ THAM GIA VÀ KẾT QUẢ THAM GIA
LÀM BÀI TẬP NHÓM HỌC PHẦN LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP
LUẬT

Ngày: 23/12/2021 Địa điểm: Trường Đại học Luật Hà Nội


Nhóm: 1 Lớp: 4614
Tổng số sinh viên của nhóm:
+ Có mặt: 10
+ Vắng mặt: 0 Có lý do:...............Không lý do:..................
Tên bài tập: Phân tích cơ sở tư tưởng cho sự hình thành và phát triển của nhà nước
và pháp luật phong kiến Việt Nam
Xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia của từng sinh viên trong việc thực
hiện bài tập nhóm.
Kết quả như sau:

Đánh giá Đánh giá


của SV của giáo viên
SV
STT Mã SV Họ và tên Điểm Điểm GV
ký tên
A B C (số) (chữ) ký
tên
1 461401 Nguyễn Chung Bảo An
2 461402 Đặng Mai Anh
3 461403 Nguyễn Lê Hoài Anh
4 461404 Phan Hoàng Tú Anh
5 461405 Phạm Thị Ngọc Anh
6 461406 Trần Ngọc Ánh
7 461407 Nguyễn Thanh Bình

14
8 461408 Đinh Thị Cẩm Chi
9 461409 Đinh Thị Ngọc Chương
10 461410 Nguyễn Việt Dũng

- Kết quả điểm bài viết: Hà Nội, ngày 11 tháng 1 năm 2022
+ Giáo viên chấm thứ nhất:............................... Trưởng nhóm
+ Giáo viên chấm thứ hai:.................................
- Kết quả điểm thuyết trình:..............................
- Giáo viên cho thuyết trình:.............................
- Điểm kết luận cuối cùng
Giáo viên đánh giá cuối cùng:..........................

15

You might also like