You are on page 1of 29

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH


-----🙞🙜🕮🙞🙜-----

BÀI TẬP LỚN


Môn: Triết học Mác – Lênin

Đề tài:
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và
sự vận dụng của Đảng ta ở Việt Nam hiện nay

Họ và tên sinh viên : Phạm Việt Trang


Mã sinh viên : 11226498
Lớp học phần : LLNL1105(122)_38
Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Văn Thuân

Hà Nội, tháng 1 năm 2023


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..............................................................................................................................2
NỘI DUNG...........................................................................................................................4
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI.........................4
1. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật
lịch sử........................................................................................................................4
2. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội....................................5
3. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.........................................6
3.1. Phương thức sản xuất........................................................................................6
3.2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất .............
4. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng........................................11
4.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội........................11
4.2. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng..................................................................................................................12
5. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên..........15
5.1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội..................................................................15
5.2. Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người..........................................16
5.3. Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng...........................................16
II. QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG HỌC THUYẾT CỦA ĐẢNG TA Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY...............................................................................................................................18
1. Cách Đảng ta vận dụng học thuyết ở Việt Nam hiện nay........................................18
1.1. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.20
1.2. Chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa.....................................................22
1.3. Đổi mới toàn diện và đồng bộ kinh tế, chính trị và các mặt khác của đời sống
xã hội...............................................................................................................24
2. Thành tựu đạt được trong quá trình vận dụng học thuyết.......................................25
2.1. Thành tựu về mặt kinh tế.................................................................................25
2.2. Thành tựu về mặt xã hội..................................................................................26
3. Giải pháp để tiếp tục vận dụng học thuyết..............................................................27
3.1. Kinh tế.............................................................................................................28
3.2. Xã hội..............................................................................................................28
3.3. Chính trị..........................................................................................................29
KẾT LUẬN........................................................................................................................30
DANH MỤC THAM KHẢO.............................................................................................31

1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
1 CHH Công nghiệp hóa
2 CNXH Chủ nghĩa xã hội
3 CNTB Chủ nghĩa tư bản
4 HĐH Hiện đại hóa
5 HTKTXH Hình thái kinh tế - xã hội
6 LLSX Lực lượng sản xuất
7 PTSX Phương thức sản xuất
8 QHSX Quan hệ sản xuất
9 TBCN Tư bản chủ nghĩa

2
MỞ ĐẦU

Lịch sử tư tưởng triết học trước C. Mác đã chứng kiến một cơ số rất lớn những tư
tưởng triết học có giá trị và tính xã hội cao; dù không còn hợp thời nhưng đã ít nhiều góp
phần tạo tiền đề để triết học Mácxit kế thừa và phát triển quan niệm chủ nghĩa duy vật
lịch sử. Tuy nhiên, do sự khác biệt về nhận thức cũng như niềm tin, sự thiếu khách quan
và giáo điều trong tư tưởng những nhà triết học duy tâm/duy vật trước C. Mác dần phát lộ
theo thời gian khi bỏ qua tính thực tiễn, không xuất phát từ thực tiễn và không hiểu vai trò
thực tiễn có tính cách mạng của con người. Hiểu được điều đó, C. Mác và Ph.Ăngghen đã
xuất phát từ tiền đề nghiên cứu về lịch sử xã hội là con người hiện thực, sống và hoạt
động thực tiễn. “Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại
của những cá nhân con người sống”. Hai nhà kinh điển đã viết : “Xã hội - cho dù nó có
hình thức gì đi nữa - là cái gì? Là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con
người”. Suy cho cùng, con người, bằng hoạt động của mình đã làm nên lịch sử, tạo ra xã
hội. Lôgic lý luận của C. Mác và Ph. Ăngghen là đưa thực tiễn vào triết học, có quan
niệm đúng đắn về thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với đời sống xã hội. Lần đầu tiên
trong lịch sử tư tưởng triết học, chủ nghĩa duy vật lịch sử của C. Mác và Ph. Ăngghen đã
chỉ ra những quy luật, những động lực phát triển xã hội. Đó thực chất là những quy luật
phản ánh hoạt động thực tiễn của con người trong lịch sử và vai trò của sản xuất vật chất.

Cốt lõi của chủ nghĩa duy vật lịch sử chính là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
Là biểu hiện tập trung của quan niệm duy vật về lịch sử, học thuyết hình thái kinh tế - xã
hội nghiên cứu lịch sử xã hội trên cơ sở xem xét LLSX và QHSX, CSHT và KTTT, tức
toàn bộ các yếu tố cấu thành bộ mặt của thời đại: Chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa
học, kỹ thuật …..Do đó, nó chỉ ra bản chất của quá trình phát triển của xã hội loài người .
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã được C. Mác vận dụng vào phân tích xã hội tư
bản, vạch ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội đó và đã đi đến dự báo về sự ra
đời của HTKTXH cao hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa
xã hội. Ở nước ta, Đảng và nhà nước đã vận dụng sáng tạo và tương đối thành công học
thuyết này trong việc xác định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa hiện nay. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta.

Tuy nhiên, nhìn nhận lại thực tiễn quá trình đổi mới, chúng ta ngày càng nhận thức
rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tại Đại hội IX - Đại hội đầu tiên
trong thế kỷ XXI, Đảng ta đã khẳng định: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị

3
trí thống trị của QHSX và KTTT tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công
nghệ, để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các
lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và
cái cũ”. Đó cũng là phương hướng phát triển phù hợp với thực tiễn đất nước mà Đảng ta
rút ra được trong quá trình vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.

Nhận thấy tầm quan trọng của học thuyết nói chung và sự vận dụng của Đảng ta vào
thực tiễn đất nước nói riêng, em quyết định chọn đề tài này cho bài tiểu luận lần này. Đối
với một đề tài rộng lớn và đòi hỏi nhiều sự vận dụng thực tiễn như vậy, trong quá trình
làm bài, sai sót tất yếu là điều không thể tránh khỏi, đặc biệt với sự hạn chế về mặt
chuyên môn lẫn chiêm nghiệm thực tế của em. Em rất mong nhận được sự góp ý của
Thầy để hoàn thiện hơn trong những lần sau!

Em xin chân thành cảm ơn!

4
NỘI DUNG

I- CỞ SỞ LÝ LUẬN HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI

1. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về xã hội của
triết học Mác-Lênin, là kết quả của sự vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu đời sống xã hội và lịch sử
nhân loại. Chủ nghĩa duy vật lịch sử lý giải sự tiến hóa của xã hội loài người bằng sự phát
triển của trình độ sản xuất. Trình độ sản xuất thay đổi khiến QHSX cũng thay đổi, dẫn đến
những mối quan hệ xã hội thích ứng với những QHSX đó cùng với những tư tưởng nảy
sinh ra từ những quan hệ xã hội đó cũng thay đổi kéo theo sự thay đổi hệ thống pháp lý và
chính trị. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng triết học chỉ ra
những quy luật, động lực phát triển xã hội một cách thực tiễn, đúng đắn.

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật
lịch sử, vạch ra những quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển xã hội, là phương
pháp luận khoa học để nhận thức, cải tạo xã hội. Đây là cơ sở thế giới quan, phương pháp
luận khoa học chỉ đạo cho các chính đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa vận dụng sáng
tạo trong xác định cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách xây dựng chủ nghĩa xã
hội; trong đó có Việt Nam.

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin bao gồm một hệ
thống các quan điểm cơ bản: Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự vận động, sự phát
triển của xã hội; biện chứng giữa LLSX và QHSX; biện chứng giữa CSHT và KTTT của
xã hội; sự phát triển các HTKTXH là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Hệ thống quan
điểm lý luận khoa học này đã phản ánh bản chất và quy luật vận động, phát triển của lịch
sử xã hội loài người.

2. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội
Sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng, chỉ có ở con người và xã hội loài người. Đó
xuất là hoạt động không ngừng sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần nhằm mục đích
thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Quá trình sản xuất diễn ra trong xã
hội loài người chính là sự sản xuất xã hội - sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực,
bao gồm ba phương diện không tách rời nhau là sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và
sản xuất ra bản thân con người. Sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phát

5
triển của xã hội loài người, và xét đến cùng quyết định toàn bộ sự vận động, phát triển của
đời sống xã hội. Sản xuất tinh thần là hoạt động sáng tạo ra các giá trị tinh thần nhằm thỏa
mãn nhu cầu tồn tại, phát triển của con người và xã hội. Đồng thời, cùng với hai phương
diện sản xuất cơ bản nói trên, xã hội còn phải sản xuất ra bản thân con người. Sự sản xuất
ra bản thân con người ở phạm vi cá nhân, gia đình là việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái để
duy trì nòi giống; ở phạm vi xã hội là sự tăng trưởng dân số, phát triển con người với tư
cách là thực thể sinh học - xã hội.

Sản xuất vật chất là quá trình mà trong đó con người sử dụng công cụ lao động tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biển các dạng vật chất của giới tự nhiên để
tạo ra của cải xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Như vậy,
sản xuất vật chất có các đặc trưng sau: tính mục đích; gắn với việc chế tạo và sử dụng
công cụ lao động; gắn với việc biến đổi, cải tạo tự nhiên và xã hội.

Trước hết, sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội
loài người. Hai là, sản xuất vật chất là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những
mối quan hệ xã hội của con người. Ba là, sản xuất vật chất là điều kiện chủ yếu sáng tạo
ra bản thân con người. Nhờ hoạt động sản xuất vật chất mà con người hình thành nên
ngôn ngữ, nhận thức, tư duy, tỉnh cảm, đạo đức... Từ đó có thể nói, sản xuất vật chất là cơ
sở cho sự tiến bộ của xã hội loài người.

Như vậy, nhờ lao động sản xuất mà con người vừa tách khỏi tự nhiên, vừa hòa nhập
với tự nhiên, cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, đồng thời sáng
tạo ra chính bản thân con người. Để nhận thức và cải tạo xã hội phải xuất phát từ đời sống
sản xuất, từ nền sản xuất vật chất xã hội. Xét đến cùng, không thể dùng tinh thần để giải
thích đời sống tinh thần; để phát triển xã hội phải bắt đầu từ phát triển đời sống kinh tế -
vật chất.

3. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
3.1. Phương thức sản xuất
Ở mỗi giai đoạn lịch sử con người tiến hành sản xuất theo một hoặc nhiều cách thức
nhất định, tức là có một hay nhiều cách sinh sống, cách sản xuất riêng, đó là PTSX. Mỗi
xã hội ở một giai đoạn phát triển nhất định có thể đan xen tồn tại một số PTSX, nhưng
thường có một PTSX chiếm địa vị phổ biến và mang ý nghĩa quyết định, đặc trưng cho xã
hội đó. PTSX là sự thống nhất giữa LLSX với một trình độ nhất định và QHSX tương
ứng.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động (lao động sống) với tư liệu sản
xuất (lao động vật hóa), tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối

6
tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội. Về cấu
trúc, LLSX được xem xét trên cả hai mặt, đó là mặt kinh tế - kỹ thuật (tư liệu sản xuất) và
mặt kinh tế - xã hội (người lao động). Như vậy, LLSX là một hệ thống gồm các yếu tố
(người lao động và tư liệu sản xuất) củng mối quan hệ (phương thức kết hợp), tạo ra thuộc
tính đặc biệt (sức sản xuất) để cải biến giới tự nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất theo mục
đích của con người. Đây là sự thể hiện năng lực thực tiễn cơ bản nhất - năng lực hoạt
động sản xuất vật chất của con người.

Đặc trưng chủ yếu của LLSX là mối quan hệ giữa người lao động và công cụ lao
động. Trong LLSX, người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò quyết định, là nguồn
gốc của mọi sáng tạo trong sản xuất vật chất, nguồn gốc của sự phát triển sản xuất. Suy
đến cùng, các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người, đồng thời giá trị và
hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào trình độ sử dụng của người lao
động. LLSX luôn có tính khách quan. Tuy nhiên, quá trình phát triển LLSX là kết quả của
sự thống nhất biện chứng giữa khách quan và chủ quan.

Sự phát triển của LLSX là phát triển ở cả tính chất và trình độ. Tính chất của LLSX
nói lên tính chất cá nhân hoặc tính chất xã hội hóa trong việc sử dụng tư liệu sản xuất.
Trình độ của LLSX là sự phát triển của người lao động và công cụ lao động. Trình độ của
LLSX được thể hiện ở trình độ của công cụ lao động; trình độ tổ chức lao động xã hội;
trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất; trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng của người lao
động và đặc biệt là trình độ phân công lao động xã hội. Trong thực tế, tính chất và trình
độ phát triển của LLSX không tách rời nhau.

Trong thời đại ngày nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển, cả
người lao động và công cụ lao động được trí tuệ hóa, khoa học trở thành LLSX trực tiếp.
Khoa học xuất hiện và tiến bộ nhanh chóng, giúp rút ngắn khoảng cách từ phát minh, sáng
chế đến ứng dụng vào sản xuất, làm cho năng suất lao động, của cải xã hội tăng nhanh,
kịp thời giải quyết những mâu thuẫn, yêu cầu sản xuất đặt ra. Đồng thời, thâm nhập vào
các yếu tố, trở thành mắt khâu bên trong quá trình sản xuất và kích thích sự phát triển
năng lực làm chủ sản xuất của con người.

Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người
trong quá trình sản xuất vật chất. Đây chính là một quan hệ vật chất quan trọng nhất -
quan hệ kinh tế, trong các mối quan hệ vật chất giữa người với người. Quá trình sản xuất
vật chất chính là tổng thể các yếu tố trong một quá trình thống nhất, gồm sản xuất, phân
phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất. QHSX bao gồm quan hệ về sở hữu đối với tư
liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ về

7
phân phối sản phẩm lao động. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa các tập
đoàn người trong việc chiếm hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất xã hội. Đây là quan hệ quy
định địa vị kinh tế - xã hội của các tập đoàn người trong sản xuất, từ đó quy định quan hệ
quản lý và phân phối. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, cơ bản,
trung tâm của QHSX, luôn có vai trò quyết định các quan hệ khác bởi vì, lực lượng xã hội
nào nắm phương tiện vật chất chủ yếu của quá trình sản xuất thì sẽ quyết định việc quản
lý quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm.

Quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong
việc tổ chức sản xuất và phân công lao động. Quan hệ này có vai trò quyết định trực tiếp
đến quy mô, tốc độ, hiệu quả của nền sản xuất; có khả năng đẩy nhanh hoặc kim hãm sự
phát triển của nền sản xuất xã hội. Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động là quan hệ
giữa các tập đoàn người trong việc phân phối sản phẩm lao động xã hội, nói lên cách thức
và quy mô của cải vật chất mà các tập đoàn người được hưởng. Quan hệ này có vai trò
đặc biệt quan trọng, kích thích trực tiếp lợi ích con người; là “chất xúc tác” kinh tế thúc
đẩy tốc độ, nhịp điệu sản xuất, làm năng động hóa toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội. Hoặc
ngược lại, có thể làm trì trệ, kìm hãm quá trình sản xuất.

Các mặt trong QHSX có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, chi phối, ảnh hưởng
lẫn nhau; trong đó quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định bản chất và
tính chất của QHSX. QHSX hình thành một cách khách quan, là quan hệ đầu tiên, cơ bản
chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội.

3.2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất
* Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX
Sự vận động và phát triển của PTSX bắt đầu từ sự biến đổi của LLSX. LLSX là nội
dung của quá trình sản xuất có tính năng động, cách mạng, thường xuyên vận động và
phát triển; QHSX là hình thức xã hội của quá trình sản xuất, có tính ổn định tương đối.
Trong sự vận động của mẫu thuẫn biện chứng đó LLSX quyết định QHSX. Cơ sở khách
quan quy định sự vận động, phát triển không ngừng của LLSX là do biện chứng giữa sản
xuất và nhu cầu con người; do tính năng động và cách mạng của sự phát triển công cụ lao
động; do vai trò của người lao động là chủ thể sáng tạo, là LLSX hàng đầu; do tính kế
thừa khách quan của sự phát triển LLSX trong tiến trình lịch sử.
Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là đòi hỏi khách quan của
nền sản xuất. LLSX vận động, phát triển không ngừng sẽ mâu thuẫn với tính “đứng im”
tương đối của QHSX. QHSX từ chỗ là “hình thức phù hợp”, “tạo địa bản” phát triển của
LLSX trở thành “xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của LLSX. Đòi hỏi tất yếu của nền

8
sản xuất xã hội là phải xóa bỏ QHSX cũ, thiết lập QHSX mới phù hợp với trình độ phát
triển của LLSX đã phát triển.

* Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX


Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là đòi hỏi khách quan của
nền sản xuất. Sự phù hợp của QHSX với LLSX là một trạng thái trong đó QHSX là “hình
thức phát triển” của LLSX và “tạo địa bản đầy đủ" cho LLSX phát triển". Sự phù hợp bao
gồm sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành LLSX; giữa các yếu tố cấu thành
QHSX; giữa LLSX với QHSX. Sự phù hợp bao gồm cả việc tạo điều kiện tối ưu cho việc
sử dụng và kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất; tạo điều kiện hợp lý cho
người lao động sáng tạo trong sản xuất và hưởng thụ thành quả vật chất, tinh thần của lao
động. Nếu QHSX “đi sau” hay “vượt trước” trinh độ phát triển của LLSX đều là không
phù hợp. Sự phù hợp không có nghĩa là đồng nhất tuyệt đối mà chỉ là tương đối, trong đó
chứa đựng cả sự khác biệt.

Sự tác động của QHSX đối với LLSX diễn ra theo hai chiều hướng, đó là thúc đẩy
hoặc kìm hãm sự phát triển của LLSX. Khi QHSX phù hợp với LLSX thì nền sản xuất
phát triển đúng hướng, quy mô sản xuất được mở rộng; những thành tựu khoa học và
công nghệ được áp dụng nhanh chóng; người lao động nhiệt tình, hăng hái sản xuất, lợi
ích của người lao động được đảm bảo và thúc đẩy LLSX phát triển. Ngược lại sẽ kìm
hãm, thậm chí phá hoại LLSX. Tuy nhiên, sự kim hãm đó chỉ diễn ra trong những giới
hạn, với những điều kiện nhất định.

Trạng thái vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa LLSX và QHSX diễn ra là từ
phù hợp đến không phù hợp, rồi đến sự phù hợp mới ở trình độ cao hơn. Quy luật QHSX
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến
trinh lịch sử nhân loại. Sự tác động biện chứng giữa LLSX với QHSX làm cho lịch sử xã
hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các PTSXt, từ PTSX cộng sản nguyên thủy qua
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và đang phát triển đến phương thức sản
xuất cộng sản chủ nghĩa.

Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, do những điều kiện khách quan và chủ quan quy
định, quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX có những đặc điểm tác
động riêng. Sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát triển của LLSX đòi hỏi tất yếu phải
thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. PTSX xã hội chủ nghĩa dần dần loại
trừ đối kháng xã hội. Sự phù hợp không diễn ra “tự động”, đòi hỏi trình độ tự giác cao
trong nhận thức và vận dụng quy luật. Quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX trong xã

9
hội xã hội chủ nghĩa có thể bị “biến dạng" do nhận thức và vận dụng không đúng quy
luật.

* Ý nghĩa trong đời sống xã hội


Một là, quy luật này có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Trong thực tiễn,
muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển LLSX, trước hết là phát triển lực lượng
lao động và công cụ lao động. Muốn xóa bỏ một QHSX cũ, thiết lập một QHSX mới phải
căn cứ từ trình độ phát triển của LLSX.

Hai là, nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong quán triệt,
vận dụng quan điểm, đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi
mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình cách mạng Việt Nam,
đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam
quyết định lựa chọn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế
tổng quát, cùng với đó xác định CNH, HĐH là nhiệm vụ trọng tâm để phát triển LLSX.

4. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
Mỗi xã hội trong lịch sử là một tổng thể các quan hệ xã hội, bao gồm quan hệ vật
chất và quan hệ tinh thần nhất định. Sự liên hệ và tác động lẫn nhau giữa quan hệ vật chất
với quan hệ tinh thần của xã hội được phản ảnh trong quy luật về mối quan hệ biện chứng
giữa CSHT và KTTT của xã hội. Đây là quy luật cơ bản tác động ở mọi HTKTXH trong
lịch sử.
4.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những QHSX của một xã hội trong sự vận động hiện thực
của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó và được hình thành một cách khách
quan trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội. Cấu trúc của CSHT bao gồm: QHSX
thống trị, QHSX tản dư, QHSX mầm mống. Mỗi QHSX có một vị trí, vai trò khác nhau;
trong đó QHSX thống trị đặc trưng cho CSHT của xã hội đó.

Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những thiết
chế xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một
CSHT nhất định. Cấu trúc của KTTT bao gồm toàn bộ những quan điểm tư tưởng về
chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học... cùng những thiết chế xã
hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể và tổ chức xã hội khác.
Các yếu tố về quan điểm tư tưởng và thiết chế xã hội có quan hệ với nhau, cùng với
những quan hệ nội tại trong các yếu tố đỏ hợp thành KTTT của xã hội.

10
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, KTTT cũng mang tính chất đối kháng. Tính đối
kháng của KTTT phản ánh tính đối kháng của CSHT và được biểu hiện ở sự xung đột, sự
đấu tranh về tư tưởng của các giai cấp đối kháng (những tư tưởng, quan điểm và các tổ
chức chính trị của giai cấp bị thống trị, bị bóc lột). Song, đặc trưng của KTTT là sự thống
trị về chính trị và tư tưởng của giai cấp thống trị. Bộ phận có quyền lực mạnh nhất trong
KTTT của xã hội có đối kháng giai cấp là nhà nước - công cụ quyền lực chính trị đặc biệt
của giai cấp thống trị. Nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới trở thành
một sức mạnh thống trị toàn bộ đời sống xã hội. Giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế và
nắm giữ chính quyền nhà nước thì hệ tư tưởng, cùng những thể chế của giai cấp ấy cũng
giữ địa vị thống trị. Nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng của toàn bộ đời sống
tinh thần xã hội và cả tính chất, đặc trưng cơ bản của toàn bộ KTTT.

4.2. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng
* Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định CSHT quyết định KTTT, bởi vì, quan hệ vật
chất quyết định quan hệ tinh thần; tính tất yếu kinh tế xét đến cùng quyết định tính tất yếu
chính trị - xã hội. Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT thể hiện trước hết ở chỗ,
CSHT với tư cách là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội sẽ quyết định kiểu KTTT của xã
hội ấy. CSHT không chỉ sản sinh ra một kiểu KTTT tương ứng - tức là quyết định nguồn
gốc, mà còn quyết định đến cơ cấu, tính chất và sự vận động, phát triển của KTTT. Nếu
CSHT có đối kháng hay không đối kháng, thì KTTT của nó cũng có tính chất như vậy.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì cũng
chiếm địa vị thống trị trong đời sống chính trị, tinh thần của xã hội; mâu thuẫn trong lĩnh
vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng của xã hội. Bởi vậy,
CSHT như thế nào thì cơ cấu, tinh chất của KTTT là như thế ấy. Những biến đổi căn bản
của CSHT sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản trong KTTT. Nói cách khác,
CSHT mà mất đi, CSHT mới ra đời thì sớm hay muộn KTTT cũng mất đi để ra đời một
KTTT mới.

* Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT


KTTT là sự phản ánh CSHT, do CSHT quyết định nhưng có sự tác động trở lại to
lớn đối với KTTT. Bởi vì KTTT có tính độc lập tương đối so với CSHT, tính năng động,
sáng tạo của ý thức, tinh thần. Vai trò của KTTT chính là vai trò tích cực, tự giác của ý
thức, tư tưởng, còn do sức mạnh vật chất của bộ máy tổ chức - thể chế luôn có tác động
một cách mạnh mẽ trở lại CSHT. KTTT củng cố, hoàn thiện và bảo vệ CSHT sinh ra nó;
ngăn chặn CSHT mới, đấu tranh xóa bỏ tàn dư CSHT cũ; định hướng, tổ chức, xây dựng
chế độ kinh tế của KTTT. Thực chất, đó vai trò bảo vệ duy trì, củng cố lợi ích kinh tế của

11
giai cấp thống trị xã hội. Mặt khác, nó còn đảm bảo sự thống trị về chính trị và tư tưởng
của giai cấp giữ địa vị thống trị về kinh tế.

Tác động của KTTT đối với CSHT diễn ra theo hai chiều hướng. KTTT tác động
cùng chiều với sự phát triển của CSHT sẽ thúc đẩy CSHT phát triển và nếu tác động
ngược chiều với sự phát triển của CSHT, của cơ cấu kinh tế nó sẽ kìm hãm sự phát triển
của CSHT, của kinh tế. Nghĩa là, khi KTTT phản ánh đúng tinh tất yếu kinh tế, các quy
luật kinh tế khách quan sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. Và ngược lại, các quy luật kinh tế
khách quan sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế và đời sống xã hội.

Trong các bộ phận của KTTT thì KTTT về chính trị có vai trò quan trọng nhất, trong
đó nhà nước có vai trò tác động to lớn đối với CSHT. Nhà nước là tổ chức đặc biệt của
quyền lực chính trị, không chỉ dựa trên hệ tư tưởng, mà còn dựa trên những hình thức
nhất định của sự kiểm soát xã hội. Nhà nước sử dụng sức mạnh của bạo lực để tăng cường
sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị và củng cố vững chắc địa vị của QHSX thống trị.
Và chỉ rõ, tác động ngược lại của quyền lực nhà nước đối với sự phát triển kinh tế theo
hai chiều hướng cơ bản, nếu tác động cùng hưởng với sự phát triển kinh tế sẽ thúc đẩy
kinh tế phát triển nhanh hơn; nếu tác động ngược lại hướng phát triển kinh tế sẽ kìm hãm
sự phát triển của kinh tế; và nó có thể ngăn cản một vài hướng phát triển nào đẩy của nền
kinh tế, thúc đẩy sự phát triển đó theo những hướng khác.

* Ý nghĩa trong đời sống xã hội


Một là, quy luật này là cơ sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Kinh tế và chính trị tác động biện chứng, trong đó kinh
tế quyết định chính trị, chính trị tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với kinh tế. Sự tác
động của KTTT đối với CSHT trước hết và chủ yếu thông qua đường lối, chính sách của
đảng, nhà nước.

Hai là, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất quan
tâm đến nhận thức và vận dụng quy luật này. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng Cộng
sản Việt Nam chủ trương đổi mới toàn điện cả kinh tế và chính trị, trong đó đổi mới kinh
tế là trung tâm, đồng thời đổi mới chính trị từng bước thận trọng vững chắc bằng những
hình thức, bước đi thích hợp; giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định - phát
triển, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.

5. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự
nhiên
5.1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội

12
HTKTXH là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dụng để chỉ xã hội ở
từng nấc thang lịch sử nhất định với một kiểu QHSX đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp
với một trinh độ nhất định của LLSX và một KTTT tương ứng được xây dựng trên QHSX
đặc trưng ấy.

5.2. Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người


Ba yếu tố cơ bản: LLSX, QHSX (CSHT) và KTTT tác động biện chứng, tạo nên sự
vận động, phát triển của lịch sử xã hội, thông qua sự tác động tổng hợp của hai quy luật
cơ bản là quy luật QHSX phù hợp với trình độ của LLSX và quy luật về mối quan hệ biện
chứng giữa CSHT và KTTT của xã hội.

Tiến trình lịch sử xã hội loài người là kết quả của sự thống nhất giữa lôgic và lịch sử.
Xu hướng cơ bản, xu hướng chung của sự vận động, phát triển của lịch sử loài người là
do sự chi phối của quy luật khách quan (thống nhất giữa cái chung với cái đặc thù và cái
riêng) xét đến cùng là sự phát triển của LLSX. Lôgic của toàn bộ tiến trình lịch sử loài
người là sự kế tiếp nhau của các HTKTXH từ thấp đến cao. Đó là con đường tất yếu của
tiến bộ lịch sử.

Sự thống nhất giữa lôgic và lịch sử trong tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài
người bao hàm cả sự phát triển tuần tự đối với lịch sử phát triển toàn thế giới và sự phát
triển “bỏ qua” một hay vài HTKTXH đối với một số quốc gia, dân tộc cụ thể. Điều kiện
để bỏ qua một hay vài HTKTXH bao gồm cả điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.
Trong đó, điều kiện khách quan nhất thiết phải chứng minh được phương thức sản suất
định bỏ qua đã lạc hậu và PTSX định tiến lên đã xuất hiện. Về phần nhân tố chủ quan,
giai cấp lãnh đạo phải đủ năng lực để đưa dân tộc đó thực hiện bước chuyển biến và các
yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa của quốc gia đó đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho
bước chuyển.

5.3. Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng
* Giá trị khoa học bền vững
Một là, lý luận HTKTXH đem lại một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về
lịch sử xã hội. Đây là biểu hiện tập trung của quan niệm duy vật biện chứng về lịch sử xã
hội, bác bỏ quan niệm trừu tượng, duy vật tầm thường, duy tâm, phi lịch sử về xã hội
trước đó, trở thành hòn đá tảng của khoa học xã hội, cơ sở phương pháp luận khoa học và
cách mạng cho sự phân tích lịch sử xã hội.

13
Hai là, lý luận HTKTXH đã giải quyết một cách khoa học về vấn đề phân loại các
chế độ xã hội và phân kỳ lịch sử, thay thế các quan niệm duy tâm, siêu hình trước đó đã
thống trị trong xã hội. Muốn nhận thức và cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải
nhận thức và tác động cả ba yếu tố : LLSX, QHSX và KTTT. Xem nhẹ hoặc tuyệt đối hóa
một yếu tố nào cũng sai lầm, xét đến cùng là bắt đầu từ việc xây dựng LLSX.

* Ý nghĩa cách mạng


Một là, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở khoa học cho việc xác định con
đường phát triển của Việt Nam đó là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa. Đây chính là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn, có khả năng và điều kiện để thực
hiện. Con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở
Việt Nam là phù hợp với tính quy luật của việc “bỏ qua” một hay vài hình thái kinh tế - xã
hội trong sự phát triển lịch sử.

Hai là, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa
học trong quán triệt quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mô hình, mục
tiêu chủ nghĩa xã hội được xác định với các tiêu chí về LLSX, QHSX và KTTT.

Ba là, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa
học và cách mạng trong đấu tranh bác bỏ những quan điểm thù địch, sai trái, phiến diện
về xã hội. Phê phán thuyết kỳ trị, thuyết hội tụ đã tuyệt đối hóa yếu tố kinh tế - kỹ thuật,
xóa nhòa sự khác nhau về bản chất của các chế độ xã hội nhằm chứng minh cho sự tồn tại
vĩnh viễn của chế độ tư bản.

II- QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG HỌC THUYẾT CỦA ĐẢNG TA Ở


VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Cách Đảng ta vận dụng học thuyết ở Việt Nam hiện nay
* Lựa chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa - tiền đề cho quá trình vận dụng học thuyết của đảng ta ở việt nam sau
này

14
Chính cương vắn tắt đầu tiên của Đảng được Hội nghị thành lập Đảng (2 - 1930)
thông qua đã nêu rõ mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm cho nước
Nam được hoàn toàn độc lập”, “…để đi tới xã hội cộng sản”, theo đó đã vạch ra tiến trình
cách mạng Việt Nam gồm hai giai đoạn, giai đoạn thứ nhất là tư sản dân quyền cách mạng
trong đó có nhiệm vụ thổ địa cách mạng và giai đoạn thứ hai là thế giới cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản. Thêm vào đó, Luận cương chính trị tháng 10 - 1930 cũng nhấn mạnh
con đường phát triển của Cách mạng Việt Nam “bỏ qua thời kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng
lên con đường xã hội chủ nghĩa”. Sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa đã rõ ràng và
nhất quán ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.

Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng
định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển
của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc
Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng
của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. Sự kiên định với mục tiêu đó của Đảng ta
được thực chứng qua giai đoạn: sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) miền Bắc hoàn
toàn được giải phóng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo miền Bắc đi lên CNXH,
đồng thời tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Miền Bắc quá
độ lên CNXH làm hậu phương vững chắc cho miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước. Xây dựng CNXH ở miền Bắc chính là quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam
vận dụng lý luận về cách mạng XHCN, cụ thể hóa lý luận về hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa, hiện thực hóa thành chế độ xã hội XHCN.

Quyết định quá độ tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN của
Đảng ta trong thời điểm đất nước còn chưa thoát khỏi chiến tranh, đói nghèo, lạc hậu đặt
ra cho chính nước ta những nhiệm vụ nặng nề, khó khăn và phức tạp hơn lựa chọn đi theo
con đường quá độ trực tiếp (từng bước xây dựng TBCN phát triển cao rồi tiến lên
CNXH), bởi phải thực hiện “kép” cả hai nhiệm vụ là xây dựng CNXH về mặt chính trị, xã
hội và đạt được những thành tựu cơ bản của CNTB về mặt khoa học, lực lượng và trình
độ sản xuất.
Tuy vậy, sự lựa chọn ấy không mâu thuẫn với quá trình phát triển lịch sử tự nhiên
của XHCN, không mâu thuẫn với hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, sự lựa chọn ấy là đúng đắn, sáng suốt và tất
yếu của lịch sử. Có thật là như vậy?

Một là, tình hình thực tiễn của nước ta thời điểm đó và cho tới nay đều đảm bảo
nước ta đáp ứng đủ cả hai điều kiện khách quan bên ngoài và chủ quan bên trong để quá
độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN như đã nêu trong mục 5.2. Trong đó, điều kiện khách

15
quan là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ làm cho
LLSX thế giới phát triển đạt đến trình độ cao, mở đầu giai đoạn mới của quá trình xã hội
hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện hiện thực để
nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới
cho sự nghiệp CNH, hiện đại hóa đất nước. Trong điều kiện kinh tế thế giới có bước nhảy
vọt về lượng và chất, xã hội loài người đòi hỏi phát triển lên một xã hội mới của nền văn
minh cao hơn - đó là nền văn minh của kinh tế tri thức. Do đó, quá độ lên CNXH là con
đường phát triển hợp quy luật khách quan. Nhân tố bên trong là nước ta đã giành được
độc lập dân tộc, có chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đây là điều kiện tiên quyết, quyết định con đường quá độ
lên CNXH ở nước ta.

Hai là, nếu nước ta lựa chọn hướng đi còn lại: quá độ tiến lên TBCN thì kịch bản
quá độ sẽ diễn ra như sau: Chính quyền do chính nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã phải tốn bao xương máu mới giành được, sẽ đổ sông đổ bể; và
chính nhân dân lao động lại rơi xuống địa vị người làm thuê và bị bóc lột. Đi theo con
đường TBCN thì không thể thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Mặc dù CNTB đang có sự điều chỉnh để thích nghi với cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ, nhưng CNTB vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn, bất
công xã hội thuộc về bản chất của chế độ TBCN. Theo quy luật phát triển của lịch sử thì
CNTB không thể không bị phủ định. Đó là xu thế khách quan. Đảng ta thời kỳ đó đã nhìn
ra CNTB đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay thế bằng một chế
độ xã hội mới, phát triển ở trình độ cao hơn, với giai đoạn đầu là CNXH. Với sự phát
triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa, chính CNTB cũng đã và đang tạo ra những tiền đề vật
chất - kỹ thuật để chuyển sang CNXH.

Ba là, quá độ lên CNXH là con đường duy nhất để nước ta thoát khỏi ách đô hộ của
thực dân đế quốc, để giải phóng dân tộc. Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các
phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra sôi nổi, không ngừng khắp cả nước. Các phong
trào ấy thấm đượm tinh thần yêu nước, bất khuất, song đều lâm vào bế tắc và cuối cùng
thất bại. Đó là sự bế tắc và thất bại về đường lối chiến lược. Và như vậy, tất cả các
phương án chính trị của các giai cấp, từ đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến,
đến những đường lối theo lập trường nông dân, lập trường tiểu tư sản, lập trường tư sản,
đều đã áp dụng và trải qua khảo nghiệm của lịch sử, rốt cuộc đều thất bại. Trong bối cảnh
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân đế quốc ở Việt Nam bị bế tắc về
đường lối chiến lược, thì chính Nguyễn Ái Quốc đã đáp ứng đúng nhu cầu lịch sử dân tộc,
đưa đất nước đi vào đúng quỹ đạo thời đại mới. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”,

16
“chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức
và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.

1.1. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Đảng ta lựa chọn quá độ tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN không có nghĩa
Đảng đã hoàn toàn phủ định và phủ nhận sạch trơn những ưu điểm, thành tựu nổi bật của
TBCN. Một trong số đó là nền kinh tế thị trường đã và đang được vận hành ở nhiều quốc
gia và cho thấy sự hiệu quả vượt trội của nó. Soi vào tình hình thực tiễn của đất nước thời
điểm đó, Đảng đã vận dụng một cách sáng tạo, có chọn lọc để đi đến chủ trương thực hiện
nhất quán và lâu dài “chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Lần đầu tiên, tại
Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”, coi đó là mô hình tổng quát, là đường lối chiến lược nhất quán
của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo quan điểm của Đảng ta,
“kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc”. Đến nay, đặc trưng của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định ngày càng sâu sắc. Đó
được xem như một sự vận dụng đổi mới và cấp tiến quy luật về mối quan hệ biện chứng
giữa CSHT và KTTT.

Lựa chọn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là quyết định vừa phù
hợp với xu thế phát triển chung của nhân loại, của kinh tế toàn cầu vừa phù hợp với yêu
cầu phát triển của LLSX ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Nói cách khác, Đảng và Nhà
nước đã cân nhắc trên hai khía cạnh: Xây dựng và phát triển kinh tế thì trường nhằm tránh
bị cô lập, tụt hậu trên trường quốc tế, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang dần mở rộng
và hội nhập; thị trường nhưng định hướng xã hội chủ nghĩa bởi nước ta đang trong thời kỳ
quá độ nhằm thực hiện cách mạng CNXH. Nhằm củng cố cho lý tưởng cao đẹp đó, trong
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta còn khẳng định: “Mục đích của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển LLSX, phát triển kinh tế
để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Phát triển LLSX hiện đại gắn liền với xây dựng QHSX mới phù hợp trên cả ba mặt sở
hữu, quản lý và phân phối”.

17
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có thể được hiểu là nền kinh tế thị
trường đặt dưới sự điều tiết và giám sát của Nhà nước, không thể tách rời vai trò quản lý
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và luôn phải tuân theo chủ trương, đường lối của Đảng.
“Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế
và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản
xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo
vệ lợi ích nhân dân lao động của toàn thể nhân dân”.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, không phải thị trường điều tiết hoàn toàn mà còn có sự điều
chỉnh, quản lý của Nhà nước để đạt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời
kỳ, gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, khắc phục những bất
cập, khuyết tật của cơ chế thị trường. Khuyết tật lớn nhất có thể thấy khi để thị trường bị
chi phối hoàn toàn bởi các doanh nghiệp tư nhân là tại Hàn Quốc, giới tài phiệt (chaebol)
gần như đã và đang thâu tóm, nắm giữ quyền lực ngầm và điều hành đất nước, dưới danh
nghĩa các quân cờ là các chính khách, nguyên thủ quốc gia. Điều này rất may đã không
xảy ra với kinh tế Việt Nam khi trong top 10 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam 2022, có
đến 6 doanh nghiệp nhà nước hoặc có vốn nhà nước. Với nền kinh tế hỗn hợp (tận dụng
điểm mạnh của cả hai cơ chế phối hợp mệnh lệnh và thị trường), Đảng và Nhà nước đã
thành công đưa nước ta phần nào thoát khỏi lạc hậu, đổi mới nửa mùa của thời kỳ bao
cấp, tiến những bước tiến chậm mà chắc trên con đường hội nhập và phát triển. Đây là
minh chứng rõ ràng nhất cho việc ứng dụng hiệu quả, sáng tạo vào đúng hoàn cảnh thực
tiễn của đất nước.

1.2. Chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa


Nhìn vào hoàn cảnh đương thời, nước ta, từ một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ, lao
động thủ công là chủ yếu tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một bất lợi, thiếu sót lớn trên
con đường quá độ tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua thời kỳ tư bản. Cái thiếu thống nhất của
chúng ta là một nền đại công nghiệp làm bàn đạp thúc đẩy quá trình quá độ. Chính vì vậy,
chúng ta phải tiến hành CNH, HĐh. Đó là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ
tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cụ thể, khi chính thức bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Đảng đã chủ trương tiến hành CNH xã hội chủ nghĩa, và từ cuối thế kỷ
XX đến nay, quá trình này được xác định đầy đủ là CNH, HĐH. Đó là một quá trình phát
triển kinh tế, kỹ thuật - công nghệ và kinh tế - xã hội toàn diện, sâu rộng nhằm chuyển đổi

18
nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ trình độ nông nghiệp lạc hậu lên trình độ công nghiệp
với công nghệ, kỹ thuật ngày càng tiên tiến, hiện đại, văn minh. Trong thời đại ngày nay,
CNH phải gắn liền với HĐH. CNH, HĐH ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội.

Theo tiến trình lịch sử, có thể dễ dàng nhận thấy con đường CNH, HĐH của nước ta
diễn biến theo hai giai đoạn: CNH thời kỳ trước đổi mới (từ năm 1960 đến năm 1986) và
CNH, HĐH thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay)

 CNH thời kỳ trước đổi mới (từ năm 1960 đến năm 1986)
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (năm 1960) đã xác định nhiệm vụ trọng tâm của
thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta, là CNH xã hội chủ nghĩa. Chủ trương trọng tâm của
thời kỳ này là: “Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp
công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công
nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại”.

Tuy nhiên, do tiến hành CNH từ một nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn, lại trong điều
kiện có chiến tranh và cùng nhiều nguyên nhân chủ quan khác, chung quy lại là những
tiền đề cần thiết cho phát triển còn hạn chế, nên nền kinh tế Việt Nam đã không đạt được
những mục tiêu đã đặt ra, đất nước vẫn trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển
và rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội.

Kết quả được ghi nhận trong quá trình CNH xã hội chủ nghĩa này, đó là số lượng các
xí nghiệp công nghiệp tăng cao, một số khu công nghiệp lớn được hình thành, và đã xây
dựng được nhiều cơ sở công nghiệp quan trọng, là nền tảng phát triển cho một số ngành
công nghiệp của đất nước như: điện, than, cơ khí, luyện kim, vật liệu xây dựng, hóa chất.

 CNH, HĐH thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay)


Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), sau khi đúc kết những kinh nghiệm
của một số nền kinh tế trên thế giới, chúng ta đã đề ra và thực hiện từng bước việc đổi
mới các chính sách kinh tế trên cơ sở đổi mới tư duy kinh tế và tổng kết các thử nghiệm
trong thực tế. Có thể coi giai đoạn 1986 - 1990 là giai đoạn “khởi động” cho một sự phát
triển kinh tế mạnh mẽ sau này. Đại hội đã thông qua đường lối đổi mới toàn diện và xác
định: “Mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định

19
mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy
mạnh CNH xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”.

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991), Đảng ta tiếp tục có những nhận thức
mới, toàn diện và sâu sắc hơn về CNH gắn với HĐH. Đại hội đề cập đến lĩnh vực dịch vụ
kinh tế - kỹ thuật trong việc đáp ứng yêu cầu sản xuất, đời sống và hợp tác quốc tế; đưa ra
chiến lược phát triển kinh tế vùng phù hợp với chiến lược chung cả nước. Đại hội VII
cũng đã có những bước đột phá mới về CNH. Lần đầu tiên, phạm trù “Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa” được xác định chính thức trong Văn kiện của Đảng. Trong điều kiện phát
triển mới, CNH ở nước ta phải gắn liền với HĐH, bởi lẽ: trong bối cảnh khoa học công
nghệ phát triển như vũ bão, nếu nước ta không tiến hành HĐH song song với CNH sẽ tụt
hậu ngày càng xa hơn so với trình độ phát triển chung của thế giới. Cũng trong đại hội đó,
Đảng ta đã khẳng định: “Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sởvật chất
kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, QHSX tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của LLSX, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc,
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Mục tiêu đó chính là sự cụ thể hóa từ
hai nội dung “quy luật mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT của xã hội, giữa
LLSX và QHSX”. Thực hiện đường lối CNH của Đại hội VII, nền kinh tế đã có những
bước phát triển cao hơn, có chất lượng hơn, đi vào thực chất hơn so với nhiều năm trước.

1.3. Đổi mới toàn diện và đồng bộ kinh tế, chính trị và các mặt khác của đời
sống xã hội
Đường lối đổi mới của Đảng được đề ra lần đầu tiên tại Đại hội VI (12 - 1986), được
điều chỉnh, bổ sung và phát triển tại Đại hội VII (6 - 1991), Đại hội VIII (6 - 1996), Đại
hội IX (4 - 2001). Theo đó, đổi mới đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội không phải là thay
đổi mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả
bằng những quan điểm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và những biện pháp thích hợp, kịp
thời.

Đổi mới phải toàn diện và đồng bộ, từ kinh tế và chính trị đến tổ chức, tư tưởng, văn
hoá. Đối mới kinh tế phải gắn liền với đổi mới chính trị, nhưng trọng tâm là đổi mới kinh
tế. Nói cách khác, đi kèm với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ
thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây chính là sự
cụ thể hóa của quy luật mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT của xã hội.

20
Về đổi mới kinh tế, Đảng chủ trương xoá bỏ cơ chế quản lí kinh tế tập trung, quan
liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường; xây dựng nền kinh tế quốc dân với cơ cấu
nhiều ngành, nghề, nhiều quy mô, trình độ công nghệ; phát triển kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đảng
đã dần khắc phục những hạn chế, sai lầm dẫn đến khủng khoảng năm 1979 khi vận dụng
nóng vội, không phù hợp thực tiễn đất nước quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa
CSHT và KTTT của xã hội.

Về đổi mới chính trị, Đảng chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, Nhà nước của dân, do dân và vì dân ; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm quyền lực thuộc về nhân dân ; thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách
đối ngoại hoà bình, hữu nghị, hợp tác. Chủ trương này hoàn toàn phản ánh chân thực đặc
trưng của một nhà nước với hình thái xã hội chủ nghĩa.

2. Thành tựu đạt được trong quá trình vận dụng học thuyết
Trong quá trình vận dụng học thuyết, thử - sai - sửa, Đảng và Nhà nước đã rút ra
được nhiều bài học quý báu về vai trò của thực tiễn khi áp dụng bất cứ tư tưởng triết học
nào dù đúng đắn đến đâu, từ đó đã đem đến nhiều thành tựu rực rỡ trên mọi mặt đời sống
đối với một đất nước lựa chọn quá độ khi thời cơ chưa chín muồi. Từ một quốc gia lạc
hậu, kém phát triển và chịu nhiều thiệt hại sau chiến tranh, mục tiêu chính chỉ là đảm bảo
lương thực cho toàn dân, công nghiệp thương mại tự chủ gần như mới chỉ được manh
nha, Việt Nam đã từng bước chuyển mình thành một đất nước mạnh về xuất khẩu, từng
bước thực hiện mục tiêu CNH, HĐH đất nước, nâng cao đời sống nhân dân, nhằm tiến tới
hội nhập, bắt kịp với thế giới.

2.1. Thành tựu về mặt kinh tế


* GDP và tăng trưởng kinh tế
Theo Ngân hàng thế giới (World Bank), “Việt Nam là một câu chuyện phát triển
thành công”. Việt Nam nhanh chóng phát triển từ một trong những quốc gia nghèo nhất
trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp chỉ trong vòng một thế hệ. Ở giai
đoạn đầu của công cuộc đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hàng
năm chỉ đạt 4,4%; vậy mà đến năm 2019, con số này đã đạt 7,02%, quy mô nền kinh tế
đạt hơn 262 tỷ USD; GDP/người đã lên gần 2.800 USD. Từ năm 2002 đến 2020, GDP
đầu người tăng 3,6 lần, đạt gần 3.700 USD. Tỉ lệ nghèo (theo chuẩn 3,65 USD/ngày, theo
PPP năm 2017) giảm từ hơn 14% năm 2010 xuống còn 3,8% năm 2020.

21
Nhờ có nền tảng vững chắc, nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu đáng
kể trong những giai đoạn khủng hoảng, mới đây là đại dịch COVID-19. Tăng trưởng GDP
giảm 2,6% vào năm 2021 do sự xuất hiện của biến thể Delta của virus Sars-CoV-2 và dự
kiến sẽ phục hồi lên 7,2% vào năm 2022 và 6,7% vào năm 2023.
Với tỉ lệ tăng trưởng ở mức 2,5% đến 3,5% mỗi năm trong suốt 30 năm qua, ngành
nông nghiệp đã hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an ninh lương thực. Năm 2020
nông nghiệp đóng góp 14% cho GDP và 38% việc làm, năm 2021 xuất khẩu đạt hơn 48 tỷ
USD giữa thời điểm đại dịch COVID-19.

* Xuất nhập khẩu


Theo số liệu từ Lễ ghi nhận xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam vượt mốc 500 tỷ
USD, hạn ngạch xuất nhập khẩu của nước ta đã tăng 170 lần so với thời điểm bắt đầu
công cuộc đổi mới (năm 1986), tăng 37 lần thời điểm Việt Nam gia nhập ASEAN, tăng 5
lần thời điểm Việt Nam chính thức gia nhập WTO (năm 2007) và năm 2019, với mốc 517
tỷ USD xuất nhập khẩu, trong vòng 8 năm, tăng kim ngạch trên 2,5 lần. Nhờ đó, xếp hạng
xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng mạnh.

Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp và
thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với khối lượng
lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu cà phê,
cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế giới.

* Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng CNH, HĐH, gắn sản xuất với thị
trường. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2005 còn
20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng
tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có
giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục với thiết bị,
công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2005 lên 41%. Tỷ trọng khu vực
dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005.

* Hợp tác quốc tế


Theo số liệu thống kê từ Bộ Công Thương, tính đến năm 2019, Việt Nam đã thiết lập
thành công quan hệ chính thức với 189/193 quốc gia của Liên hợp quốc; có quan hệ kinh
tế - thương mại và đầu tư với trên 224 nước và vùng lãnh thổ; có 16 đối tác chiến lược, 11
đối tác chiến lược toàn diện; 71 nước đã công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị
trường.

22
2.2. Thành tựu về mặt xã hội
* Lao động và việc làm
Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình mỗi năm cả nước đã giải quyết cho khoảng
1 - 1,2 triệu người lao động có công ăn việc làm; những năm 2001 - 2005, mức giải quyết
việc làm trung bình hằng năm đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu người; những năm 2006 - 2010,
con số đó lại tăng lên đến 1,6 triệu người. Công tác dạy nghề từng bước phát triển, góp
phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010.

* Xóa đói giảm nghèo


Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn quốc gia,
tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm 2010. Còn theo
chuẩn do Ngân hàng thế giới (World Bank) phối hợp với Tổng cục Thống kê tính toán, thì
tỷ lệ nghèo chung (bao gồm cả nghèo lương thực, thực phẩm và nghèo phi lương thực,
thực phẩm) đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 29% năm 2002 và còn khoảng 17% năm
2008. Như vậy, Việt Nam đã “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một
nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”, mà Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) của Liên hợp quốc
đã đề ra.

* Giáo dục
Nền giáo dục nước nhà có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình
trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn
quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên)
biết chữ đã tăng từ 84% cuối những năm 1980 lên 90,3% năm 2007. Từ năm 2006 đến
nay, trung bình hằng năm quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp tăng 10%; cao đẳng
và đại học tăng 7,4%. Năm 2009, trên 1,3 triệu sinh viên nghèo được Ngân hàng chính
sách xã hội cho vay với lãi suất ưu đãi để theo học. Nhìn chung, đất nước ta đang tiến
hành sự nghiệp phổ cập giáo dục ở mọi cấp học nên ngày càng có nhiều chính sách
khuyến học với mức hỗ trợ cao.
* Y tế cộng đồng
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ vượt bậc. Bảo hiểm y tế được mở
rộng đến khoảng gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên. Tỷ lệ tử
vong ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81% năm 1990 xuống còn khoảng 28% năm 2010;
tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm tương ứng từ 50% xuống còn khoảng
20%. Công tác tiêm chủng mở rộng được thực hiện, nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước
đây đã được thanh toán hoặc khống chế. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi
năm 1990 tăng lên hơn 73 tuổi hiện nay.

* Chỉ số phát triển con người (HDI)

23
HDI của Việt Nam tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập kỷ qua: từ 0,561 năm
1985 lần lượt tăng lên 0,599 năm 1990; 0,647 năm 1995; 0,690 năm 2000; 0,715 năm
2005 và 0,725 năm 2007. Điều đó chứng tỏ sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta có
xu hướng phục vụ sự phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội khá hơn
một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao hơn Việt Nam. Nhìn
chung, tổng quát nhất là HDI của nước ta đã đạt được ba sự vượt trội: chỉ số đã tăng lên
qua các năm; thứ bậc về HDI tăng lên qua các năm; chỉ số và thứ bậc về tuổi thọ và học
vấn cao hơn chỉ số về kinh tế.

3. Giải pháp để tiếp tục vận dụng học thuyết


Bên cạnh những thành tựu rực rỡ kể trên, Đảng và Nhà nước không thể không nhìn
nhận thẳng vào sự thật rằng, vẫn còn rất nhiều những hạn chế, tồn đọng, là mặt trái của
một thời kỳ quá độ máy móc, rập khuôn mà không soi vào thực tiễn. Để có thể tiếp nối
những dấu son chói lọi của một Việt Nam sau chiến tranh vẫn vươn lên không ngừng,
Đảng và Nhà nước ta cần nhanh chóng khắc phục hạn chế, xoá nhòa tồn đọng và tiếp tục
phát huy những phương thức, đường lối, chủ trương có hiệu quả đã được nghiệm chứng
trong quá trình vật dụng học thuyết.
3.1. Kinh tế
Tiến độ của quá trình xây dựng và phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, mạng lưới thị trường chưa được hình thành và
phát triển đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ,
hiện đại hóa cản trở sự phát triển của mặt bằng chung; nền tảng cho con đường trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại còn chậm và gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, trình độ
LLSX của Việt Nam hiện nay không được đồng bộ hóa. Đây là đặc trưng rất rõ nét của
một nền kinh tế mà phát triển kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, chưa
thực sự bền vững. Sự không đồng đều của trình độ LLSX thể hiện ở cả hai yếu tố cấu
thành là người lao động và công cụ lao động. Điều này dẫn đến chất lượng, hiệu quả kinh
tế, năng suất lao động và sức cạnh tranh quốc gia còn thấp.
Giải pháp: thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, chủ trương đa dạng hóa hình
thức sở hữu, đa dạng hóa hình thức phân phối, tổ chức quản lý sản xuất và trao đổi. Bên
cạnh đó, đổi mới, bổ sung cơ chế, chính sách, nhất là thể chế pháp luật để bảo đảm sự
bình đẳng thực sự của kinh tế tư nhân với các thành phần kinh tế khác, phát huy mạnh mẽ
hơn vai trò động lực của kinh tế tư nhân. Phải chấp nhận KTTT của chúng ta cũng chưa
thể có đặc trưng thuần nhất của xã hội chủ nghĩa ngay được.

3.2. Xã hội
Các nhiệm vụ như phát triển văn hóa, giải quyết tệ nạn xã hội, đảm bảo an sinh xã
hội, bảo vệ môi trường chưa thực sự được chú trọng, ảnh hưởng đến sự phát triển bền

24
vững, lâu dài. Đạo đức xã hội còn một số mặt xuống cấp; văn hóa phẩm độc hại tác động
tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội; tài nguyên thiên nhiên bị xâm hại, môi trường
sinh thái bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu toàn cầu ngày càng tác động đến Việt Nam và gây
hậu quả nghiêm trọng, khó lường. Ở một số mặt, người dân chưa được thụ hưởng đầy đủ,
bình đẳng của thành quả của đổi mới.

Giải pháp: nghiên cứu để làm rõ mô hình xã hội Việt Nam hướng đến là mô hình
xã hội đoàn kết, đồng thuận, hài hòa, xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó
tầng lớp trung lưu sẽ ngày càng chiếm số đông trong xã hội. Chủ động quản lý phân tầng
xã hội, quản trị sự biến đổi xã hội, có chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa đồng bộ để cải
thiện điều kiện sống của nhân dân, chủ động xây dựng cơ cấu xã hội hợp lý trên cơ sở
phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đạo đức xã hội là một vấn đề rất quan trọng, vì
từ xưa đến nay, con người Việt Nam luôn giữ được truyền thống văn hóa ngàn đời là “cái
nết đánh chết cái đẹp”. Thế nên, để giải quyết vấn đề đạo đức xã hội xuống cấp thì cần
nghiên cứu để làm rõ hơn các tiêu chí đậm đà bản sắc dân tộc, con người có nhân cách,
lối sống tốt đẹp với các phẩm chất cơ bản: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn
kết, cần cù, sáng tạo.

3.3. Chính trị


Lĩnh vực chính trị vẫn tồn đọng những hạn chế đáng lo ngại dù đây là lĩnh vực nòng
cốt, lãnh đạo, cần phải được toàn diện hóa sớm nhất. Cụ thể, đổi mới chính trị còn chậm,
chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, nhất là về tổ chức, thể chế, cơ chế, chính sách. Hệ
thống chính trị còn cồng kềnh, hoạt động hiệu quả thấp, chưa tương xứng với nhiệm vụ đề
ra. Công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhìn chung
cũng có nhiều tiến bộ, nhưng cũng không ít hạn chế. Đáng chú ý, nguyên tắc kiểm soát
quyền lực nhà nước còn nhiều vấn đề nổi cộm. Mặc dù Trung ương, Bộ Chính trị đã nhiều
lần ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về tăng cường sự trong sạch của đảng, nâng cao
hiệu lực lãnh đạo và sức chiến đấu, nhưng công tác xây dựng Đảng chưa có nhiều chuyển
biến căn bản trong tình hình mới. Một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực xã hội còn
nghiêm trọng. Thêm vào đó, công tác tư tưởng - lý luận, công tác tổ chức - cán bộ, công
tác kiểm tra, giám sát, công tác dân vận cũng rất bất cập. Phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân còn chậm đổi mới và
không bắt kịp với những thay đổi chóng mặt của kinh tế và chính trị toàn cầu. Năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng còn thấp, quản lý đảng viên chưa chặt
chẽ; chế độ trách nhiệm không rõ ràng, nhất là của người đứng đầu. Những hạn chế trên
đây làm cho Đảng chưa thật sự trong sạch, vững mạnh, chưa ngang tầm nhiệm vụ, làm

25
ảnh hưởng đến lòng tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế
độ xã hội chủ nghĩa.

Giải pháp: xác định rõ lộ trình và bước đi trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội vì chỉ có đẩy mạnh nghiên cứu lý luận - thực tiễn để giải đáp những câu hỏi đặt ra một
cách có căn cứ khoa học thì mới có chính sách cho từng chặng đường và cho cả thời kỳ
quá độ; phòng ngừa và khắc phục tư duy giản đơn, chủ quan, nóng vội, quy chụp trong
lãnh đạo, quản lý; nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng và Nhà nước; thường
xuyên bồi dưỡng năng lực chính trị, nâng cao kiến thức, kinh nghiệm, uy tín cho từng cán
bộ Đảng viên, nhằm xây dựng một hệ thống vững mạnh, trong sạch; quán triệt quan điểm
“lấy dân làm gốc”, “tất cả đều phải vì lợi ích của nhân dân, vì nhân dân”.

KẾT LUẬN

Dù đã ra đời cách đây gần hai thế kỷ, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, đứa con
tinh thần đáng tự hào của C. Mác vẫn còn nguyên giá trị và được thế hệ sau tiếp tục vận
dụng triệt để, sáng tạo. Điều này chứng minh: cốt lõi của học thuyết không lỗi thời, lạc
hậu theo năm tháng mà luôn được áp dụng sáng tạo, có chọn lọc theo từng thời đại, ứng
với hoàn cảnh thực tiễn cụ thể. Cái cốt lõi toàn diện đó, về cơ bản nhấn mạnh vai trò của
sản xuất đối với xã hội loài người ở bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử: “Sản xuất là cơ sở,
nền tảng của sự tồn tại và phát triển trong xã hội”. Hơn thế, học thuyết còn bao trùm cả
hai quy luật bất biến về mối quan hệ biện chứng giữa bộ ba yếu tố cơ bản, phổ biến trong
mọi hình thái kinh tế - xã hội là LLSX, QHSX (CSHT) và KTTT.

26
Việt Nam ta cũng không phải ngoại lệ khi đã và đang vận dụng, đổi mới, sáng tạo
những tư tưởng cấp tiến từ học thuyết trong sự nghiệp quá độ tiến lên xã hội chủ nghĩa.
Lựa chọn quá độ trong hoàn cảnh thực tiễn còn nhiều khó khăn như nước ta chắc chắn
không phải là một con đường dễ đi đối với toàn Đảng, toàn dân. Lý luận về hình thái kinh
tế - xã hội xuất hiện trong bối cảnh đó như một ngọn lửa soi đường chỉ lối cho cách mạng
thoát khỏi sự mù mờ, không định hướng. Đảng và Nhà nước đã từng bước vận dụng lý
luận để xác định chính sách phát triển cho từng chặng đường và cho cả thời kỳ quá độ, có
thể kể đến là xác định nền kinh tế mà ta đang hướng tới là kinh tế thị trường theo đường
lối xã hội chủ nghĩa, là chủ trương CNH gắn liền với HĐH, là kết hợp chặt chẽ phát triển
kinh tế với đổi mới chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội.

Suốt chặng đường quá độ mà nước ta đã đi qua, những thành tựu to lớn, rực rỡ trong
nhiều mặt, nhiều lĩnh vực là không thể kể hết. Tuy nhiên, ta cũng phải nhìn nhận lại mặt
trái của quá trình khi đã có thời kỳ ta áp dụng học thuyết một cách máy móc, chủ quan,
đốt cháy giai đoạn dẫn tới những sai lầm khó khắc phục. Và hiện nay, vẫn còn đâu đó
những mặt tối, những tiêu cực ẩn khuất cần sớm bị đẩy lùi và cả những thách thức trước
mắt cần Đảng và nhân dân chung tay vượt qua để tiến tới một Việt Nam là mô hình chuẩn
tắc của hình thái xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn giữ vững bản sắc dân tộc.

DANH MỤC THAM KHẢO

1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Sự thật, 2021.


2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, VI, VII, IX.
3. Luận cương cách mạng Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II, 1951.
4. VNR500. 2022. TOP 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam.
5. Lịch sử 12, NXB Giáo dục Việt Nam.
6. Nguyên Vũ, 2019. Xuất nhập khẩu đã tăng 170 lần so với thời điểm bắt đầu đổi mới.
VnEconomy.
7. The World Bank. 2022. Tổng quan về Việt Nam.

27
8. Ths. Đỗ Thị Thảo và Ths. Nguyễn Thị Phong Lan, 2013. Những thành tựu cơ bản về
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay. Tạp chí Cộng sản.

28

You might also like