You are on page 1of 14

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

MÔN TRIẾT HỌC

CÁC MÁC NÓI: “TÔI COI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NHỮNG


HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI LÀ QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ TỰ
NHIÊN”. PHÂN TÍCH CƠ SỞ TRIẾT HỌC CỦA LUẬN ĐIỂM
TRÊN. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM

Nhóm 5
Lê Trần Tuyết Nhung – Nhóm trưởng
Trần Hoàng Châu
Nguyễn Lê Tâm Liên
Lê Thị Bích Loan
Nguyễn Thị Kim Hằng
Lê Ngọc Kim Ngân
Đặng Hồng Ngọc
Võ Giản Quế Phương
Nguyễn Thảo Quỳnh
Nguyễn Trần Quốc Vinh
Keokhamphet Nalinthong

TP. Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2023.

1
MỤC LỤC

1. Sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên ........ 1
1.1. Định nghĩa về hình thái kinh tế - xã hội............................................................ 1
1.2. Sơ lược về sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự
nhiên ........................................................................................................................... 1
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển của hình thái kinh tế - xã hội
........................................................................................................................... 2
2. Cơ sở triết học của luận điểm ............................................................................... 3
2.1. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ xã hội và trình độ của lực lượng sản xuất
........................................................................................................................... 3
2.1.1. Lực lượng sản xuất và các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất. .............. 3
2.1.2. Quan hệ sản xuất và các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất .................... 4
2.1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất .... 5
2.2. Quy luật về kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng ......................................... 6
2.2.1. Cơ sở hạ tầng ............................................................................................. 6
2.2.2. Kiến trúc thượng tầng ................................................................................ 6
2.2.3. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ..... 7
2.3. Liên hệ lý thuyết và quan điểm Các Mác ......................................................... 7
3. Liên hệ thực tiễn Việt Nam ................................................................................... 8
3.1. Vận dụng lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất ........................................................................................................................ 8
3.1.1. Liên hệ thực tiễn ......................................................................................... 8
3.1.2. Kết luận thực tiễn Việt Nam ....................................................................... 9
3.2. Vận dụng lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa kiến trúc thượng tầng và cơ
sở hạ tầng................................................................................................................... 10
3.2.1. Liên hệ thực tiễn ....................................................................................... 10
3.2.2. Kết luận thực tiễn Việt Nam ..................................................................... 11
3.3. Đề xuất những giải pháp để đẩy mạnh quá trình phát triển này ..................... 12

2
BÀI LÀM
1. Sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên
1.1. Định nghĩa về hình thái kinh tế - xã hội
C.Mác và Ăngghen đã vận dụng triệt để quan điểm duy vật về lịch sử để nghiên
cứu xã hội loài người, từ đó xây dựng nên học thuyết về kinh tế - xã hội, phân tích một
cách khoa học những biến chuyển từ hình thái thấp đến cao. Có thể nhận định rằng hình
thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở
từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó,
phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất.
Kết cấu trong đó gồm:
+ Lực lượng sản xuất (LLSX): nền tảng vật chất kỹ thuật của mỗi hình thái kinh
tế xã hội, là yếu tố suy đến cùng quyết định sự hình thành và phát triển hình thái KTXH
+ Quan hệ sản xuất (QHSX): quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất. Các QHSX tạo thành cơ sở hạ tầng (CSHT) và quyết định quan hệ xã hội (QHXH)
+ Kiến trúc thượng tầng (KTTT): bảo vệ và duy trì, phát triển CSHT đã sinh ra nó
+ Ngoài ra còn các quan hệ khác: gia đình, dân tộc, quan hệ xã hội khác gắn bó
chặt chẽ với quan hệ sản xuất.
Các hình thái kinh tế xã hội
Theo Chủ nghĩa Mác - Lênin thì lịch sử xã hội loài người đã trải qua 5 hình thái
kinh tế xã hội từ thấp đến cao bao gồm:
+ Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy (Công xã nguyên thủy)
+ Hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ (gồm chủ nô và nông nô)
+ Hình thái kinh tế - xã hội phong kiến (gồm địa chủ và nông dân)
+ Hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa (gồm những nhà tư bản và người lao
động)
+ Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa (công nhân là giai cấp lãnh đạo)
1.2. Sơ lược về sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự
nhiên
Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế – xã hội nối tiếp
nhau từ thấp đến cao, tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế – xã hội. Sự
vận động thay thế nối tiếp nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử đều do
tác động của các quy luật khách quan, chính vì lẽ đó, C. Mác đã đưa ra nhận định rằng:
“Sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự

1
nhiên”. Có thể lý giải câu nói của Các Mác về sự phát triển của những hình thái kinh tế
- xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên như sau:
Thứ nhất, sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của
con người mà tuân theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính bản thân
cấu trúc hình thái kinh tế – xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, … Trong đó quan trọng và cơ bản nhất là quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật kiến
trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.
Thứ hai, quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở sự
phát triển của lực lượng sản xuất, đó cũng là nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển
của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng,…
Thứ ba, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là quá trình thay thế
lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử nhân loại, và tương đương đó
là sự phát triển của lịch sử xã hội loài người do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan,
những nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác động của các quy luật khách quan.
Theo đó, dưới sự tác động của quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại là quá
trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế – xã hội: hình thái kinh tế – xã hội nguyên
thủy đến hình thái kinh tế – xã hội nô lệ, phong kiến, hình thái kinh tế – xã hội tư bản
chủ nghĩa và tương lai nhất định thuộc về hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử -
tự nhiên bao gồm cả sự phát triển tuần tự và không tuần tự các hình thái kinh tế - xã hội.
Trong quá trình tiến triển của các hình thái kinh tế – xã hội, hình thái mới sẽ không xóa
bỏ mọi yếu tố của hình thái cũ mà trong khi phá vỡ cấu trúc của hệ thống cũ sẽ có sự
bảo tồn và kế thừa và đổi mới những yếu tố của nó vừa đảm bảo tính liên tục, vừa tạo
ra bước phát triển.
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển của hình thái kinh tế - xã hội
Như đã đề cập, hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt của
hình thái kinh tế - xã hội tác động qua lại với nhau tạo nên các quy luật vận động, phát
triển khách quan của xã hội. Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà hình
thái kinh tế - xã hội tuy là phạm trù xã hội nhưng lại có khuynh hướng phát triển như
một quy luật tự nhiên, nó vận động phát triển từ thấp đến cao.
Có 02 yếu tố cơ bản cấu tạo và gây ảnh hưởng đến sự phát triển của hình thái kinh
tế - xã hội, bao gồm:

2
- Quan hệ sản xuất: tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội, mang tính chất quyết định
tất cả mọi quan hệ xã hội khác. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt
các chế độ xã hội.
- Lực lượng sản xuất: được coi là nền tảng vật chất – kỹ thuật của mỗi hình thái
kinh tế – xã hội. Mỗi hình thái kinh tế – xã hội khác nhau sẽ có lực lượng sản xuất khác
nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất là nguồn gốc, là căn cứ có sự quyết định đến
sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội.
Ngoài ra, còn có yếu tố khác tác động đến sự phát triển của hình thái kinh tế – xã
hội như yếu tố về dân tộc; yếu tố về quan hệ gia đình hay các quan hệ ngoài xã hội khác
(bao gồm các yếu tố liên quan đến lĩnh vực tư tưởng, văn hóa – xã hội, lĩnh vực chính
trị);... Về cơ bản, mỗi yếu tố này tác động đến sự phát triển của hình thái kinh tế – xã
hội vừa theo một cách độc lập vừa có sự bổ trợ, tác động qua lại lẫn nhau.
2. Cơ sở triết học của luận điểm
2.1. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ xã hội và trình độ của lực lượng sản xuất
2.1.1. Lực lượng sản xuất và các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là
kết quả năng lực thực tiễn của con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, là một
thể thống nhất hữu cơ giữa yếu tố con người và tư liệu sản xuất, trong đó con người là
chủ thể tích cực và sáng tạo với trí tuệ là chủ đạo, có tri thức khoa học và kỹ thuật, trình
độ chuyên môn, kỹ năng và những kinh nghiệm, thói quen, biết chế tạo và sử dụng các
phương tiện lao động tác động vào các đối tượng của tự nhiên, cải tạo chúng, biến chúng
thành của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu xã hội, LLSX phát triển không ngừng trong
quá trình sản xuất xã hội.
LLSX bao gồm toàn bộ tư liệu sản xuất và người lao động sử dụng tư liệu sản
xuất đó với kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen lao động của họ.
Thứ nhất, về tư liệu sản xuất: Trong quá trình sản xuất, để cải biến đối tượng lao
động thành sản phẩm thoả mãn nhu cầu của mình, con người phải sử dụng tư liệu sản
xuất. Tư liệu sản xuất là yếu tố không thể thiếu trong quá trình sản xuất, thiếu nó thì
con người không thể tiến hành sản xuất được.
Thứ hai là người lao động: Người lao động chính là nguồn cung cấp sức lao động
là chủ thể của lao động sản xuất. Quá trình lao động chính là quá trình con người sử
dụng công cụ lao động để tác động vào đối tượng lao động một cách có mục đích và kết
quả. Trong các yếu tố hợp thành LLSX, người lao động là yếu tố giữ vai trò quan trọng
nhất. Vì nếu không có con người thì ngay cả một kỹ thuật hoàn thiện nhất cũng trở thành

3
một kỹ thuật chết. Dù cho trình độ cơ khí hoá và tự động hoá của sản xuất như thế nào,
sản xuất bao giờ cũng do con người tiến hành. Dựa vào trình độ đã đạt được của sản
xuất, vào kinh nghiệm sản xuất, vào thói quen lao động của mình, vào nhận thức về tự
nhiên, tất cả những nhân tố này cùng phát triển với sự phát triển của sản xuất, con người
sáng chế, sử dụng và cải tiến công cụ sản xuất.
2.1.2. Quan hệ sản xuất và các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất
QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, sản xuất và tái
sản xuất xã hội, được thể hiện ở ba mặt: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất; quan
hệ tổ chức và quản lý quá trình sản xuất và quan hệ phân phối kết quả sản xuất.
Tính chất của QHSX trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu
sản xuất - biểu hiện thành chế độ sở hữu là đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất.
QHSX đối với tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định và chi phối tới tất cả các quan hệ
xã hội khác trong mỗi một nền kinh tế - xã hội xác định. Quan hệ sở hữu là quan hệ xuất
phát, cơ bản và trung tâm của các QHSX. Ai sở hữu tư liệu sản xuất thì người đó có
quyền quyết định và chi phối việc tổ chức, quản lý quá trình sản xuất và phân phối sản
phẩm làm ra.
Cùng với quan hệ sở hữu thì quan hệ về mặt tổ chức và quản lý sản xuất là hạt
nhân của QHSX. Nó có khả năng quyết định một cách trực tiếp quy mô, tốc độ, hiệu
quả và xu hướng của mỗi nền sản xuất cụ thể. Các quan hệ về mặt tổ chức và quản lý
sản xuất luôn luôn có xu hướng thích ứng với kiểu quan hệ sở hữu thống trị của xã hội
đó. Quan hệ sở hữu quyết định quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất vì không có tư liệu
sản xuất thì không có sản xuất, như vậy sẽ không có tổ chức và quản lý sản xuất. Tuy
nhiên, quan hệ tổ chức và quản lý cũng có tính độc lập tương đối, tác động ngược trở
lại quan hệ sở hữu. Mặt tổ chức quản lý sản xuất có khả năng thúc đẩy hoặc kìm hãm
các quá trình và kết quả của sản xuất.
Bên cạnh các quan hệ trên, quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là
những yếu tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế - xã
hội. Mặc dù chịu sự chi phối của quan hệ xã hội, người nắm quyền tư liệu sản xuất là
người nắm quyền tổ chức, quản lý sản xuất, đồng thời cũng là người quyết định việc
phân phối sản phẩm sau này. Nhưng quan hệ phân phối sản phẩm lao động cũng có tác
dụng tích cực hay tiêu cực trở lại đối với quá trình sản xuất. Nó có khả năng kích thích
trực tiếp vào lợi ích của con người, nên các quan hệ phân phối là “chất xúc tác” của các
quá trình kinh tế - xã hội. Khi quan hệ phân phối công bằng nó sẽ thúc đẩy tốc độ và

4
nhịp điệu của sản xuất làm tăng năng suất lao động nhưng trong trường hợp ngược lại
nó sẽ kìm hãm sự phát triển xã hội.
2.1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt hợp thành của phương thức sản
xuất có tác động qua lại biện chứng với nhau. Trong mối quan hệ đó, LLSX là yếu tố
động, là nội dung quyết định QHSX, còn QHSX là yếu tố tương đối ổn định, là hình
thức biểu hiện và có tác động trở lại LLSX. Sự tác động lẫn nhau giữa QHSX và LLSX
biểu hiện mối quan hệ mang tính chất biện chứng. Quan hệ này biểu hiện thành quy luật
cơ bản nhất của sự vận động của đời sống xã hội - quy luật QHSX phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX.
Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành biến đổi của quan hệ sản xuất: Lực
lượng sản xuất là cái biến đổi đầu tiên và luôn biến đổi trong sản xuất, con người muốn
giảm nhẹ lao động nặng nhọc tạo ra năng suất cao phải luôn tìm cách cải tiến công cụ
lao động, chế tạo ra công cụ lao động mới. Lực lượng lao động quy định sự hình thành
và biến đổi quan hệ sản xuất khi quan hệ sản xuất không thích ứng với trình độ, tính
chất của lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất thì nó
kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất và ngược lại.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất: Quan hệ sản
xuất khi đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với lực lượng sản xuất và trở thành
những cơ sở và những thể chế xã hội và nó không thể biến đổi đồng thời đối với lực
lượng sản xuất. Thường lạc hậu so với lực lượng sản xuất và nếu quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ sản xuất, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Nếu lạc hậu so với lực lượng sản xuất dù tạm thời thì nó kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh
mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất vì nó qui định mục đích của sản xuất quy định hệ
thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối và
phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng tới thái
độ tất cả quần chúng lao động. Nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế
sự phát triển công cụ sản xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất hợp
tác phân công lao động quốc tế.
Như vậy, sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là nguyên lý cơ
bản của sự phát triển sản xuất vật chất. Nhưng cũng như mọi sự phát triển, sự phát triển
này là một quá trình có mâu thuẫn. Vì thế, QHSX không thể phù hợp một cách thường

5
xuyên với LLSX đang phát triển. LLSX là yếu tố thường xuyên biến đổi do khoa học -
kỹ thuật thay đổi không ngừng. QHSX thường biến đổi chậm hơn, trở nên lạc hậu so
với LLSX. Sự phát triển của LLSX đến một trình độ nhất định làm cho QHSX cũ không
còn phù hợp nữa, trở thành yếu tố kìm hãm sự phát triển khi đó sẽ xảy ra một cuộc cách
mạng, xóa bỏ QHSX cũ xác lập QHSX mới tiến bộ hơn và một phương thức sản xuất
mới ra đời. Điều này là một quy luật.
2.2. Quy luật về kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng
2.2.1. Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động
hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.
Thông thường, cơ sở hạ tầng của một xã hội ở một giai đoạn lịch sử nhất định bao
gồm ba loại quan hệ sản xuất: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư, quan
hệ sản xuất mầm mống (tương lai) - trong đó, quan hệ sản xuất thống trị quy định, chi
phối các quan hệ sản xuất còn lại và cũng là đặc trưng cho cơ sở hạ tầng của xã hội đó.
Cơ sở hạ tầng được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất
của xã hội. Đây là toàn bộ các quan hệ sản xuất tồn tại trên thực tế mà trong quá trình
vận động của nó hợp thành một cơ cấu kinh tế hiện thực
2.2.2. Kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những
thiết chế xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên
một cơ sở hạ tầng nhất định.
Theo đó, kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền,
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v. cùng với những thiết chế xã hội tương ứng
như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội,...
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm và quy luật phát triển riêng. Các
yếu tố của kiến trúc thượng tầng tồn tại trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau.
Nhưng không phải tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều liên hệ như nhau đối
với cơ sở hạ tầng của nó. Một số bộ phận như kiến trúc thượng tầng chính trị và pháp
lý có mối liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng, còn các yếu tố khác như triết học, nghệ
thuật, tôn giáo, đạo đức,.... lại có liên hệ gián tiếp với cơ sở hạ tầng sinh ra nó
Kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm: hệ tư tưởng và
thể chế giai cấp thống trị, tàn dư của các quan điểm của xã hội trước để lại; quan điểm
và tổ chức của các giai cấp trung gian. Tính chất hệ tư tưởng của giai cấp thống trị quyết
định tính chất cơ bản của KTTT trong một hình thái xã hội nhất định. Trong đó bộ phận
mạnh nhất của KTTT là nhà nước- công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế độ

6
xã hội về mặt chính trị, pháp lý. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống
trị mới thống trị được toàn bộ đời sống xã hội.
2.2.3. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một quy
luật cơ bản của sự vận động, phát triển lịch sử xã hội. Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó. Do đó, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng mang tính lịch sử cụ thể, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong
đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng, còn kiến trúc thượng tầng
tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng.
2.3. Liên hệ lý thuyết và quan điểm Các Mác
Lý luận "hình thái kinh tế xã hội" được C.Mác xây dựng bằng phép biện chứng
duy vật để nghiên cứu đời sống xã hội và lịch sử nhân loại. Lý luận này có vai trò quan
trọng trong triết học Mác-Lênin, cho phép phân tích đời sống phức tạp của xã hội để chỉ
ra các mối quan hệ biện chứng giữa các lĩnh vực cơ bản của nó. Lý luận này giúp cho
việc nghiên cứu và hiểu về sự vận hành của xã hội và tiến trình vận động lịch sử của
loài người được khoa học và đúng đắn.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra: Sản xuất vật chất là cơ sở của đời
sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội và vai trò
quyết định của người lao động đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Các Mác cho rằng không thể giải thích các hiện tượng đời sống bằng ý chí chủ
quan của con người mà phải từ phương thức sản xuất. Tác giả nhấn mạnh rằng con
người giữ vị trí trung tâm trong lịch sử và người lao động là nhân tố quyết định sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, tác giả cũng nhận thấy rằng khoa học-công
nghệ hiện đại đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng chúng không phải là yếu tố quyết
định sự phát triển của lực lượng sản xuất mà chỉ là sản phẩm của quá trình nhận thức
và sự phát triển trí tuệ của con người. Khoa học-công nghệ là của con người, gắn liền
với con người và phụ thuộc vào con người và phải thông qua hoạt động của con người
mới có thể được vật hóa vào quá trình sản xuất. Tóm lại, trong bất kỳ thời đại nào, người
lao động vẫn là nhân tố đóng vai trò quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra: Sự phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
C. Mác cho rằng sự phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch
sử-tự nhiên diễn ra theo các quy luật khách quan, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Toàn bộ xã hội loài người vận động phát triển tuần tự qua các hình

7
thái kinh tế-xã hội kế tiếp nhau, nhưng đồng thời cũng có thể bỏ qua một bước phát
triển nào đó để tiến lên một hình thái kinh tế-xã hội cao hơn. Hiện nay, các quốc gia
kém phát triển có thể quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, và sự vận động
phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội bị chi phối bởi các quy luật chung và các điều
kiện lịch sử cụ thể của từng quốc gia. Sản xuất vật chất là cơ sở đời sống xã hội và quan
hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
Tóm lại, Các Mác về sự phát triển xã hội và kinh tế, ông cho rằng đó là quá trình
lịch sử tự nhiên do các lực lượng vật chất và kinh tế xã hội tác động lên nhau. Các giai
đoạn lịch sử khác nhau được hình thành từ nền kinh tế cộng đồng nguyên thủy cho đến
nền kinh tế tư bản hiện đại. Quan điểm của ông ảnh hưởng rất lớn đến phát triển các
quan điểm chính trị, kinh tế và xã hội và ông cho rằng không có cách nào để ngăn chặn
sự phát triển này. Các Mác hy vọng sự phát triển này sẽ tiếp diễn cho đến khi xã hội đạt
đến giai đoạn tối thượng là xã hội cộng sản, khi đó các chủ nghĩa cá nhân và sự phân
biệt giai cấp sẽ được loại bỏ hoàn toàn. Các Mác cũng nhấn mạnh rằng sự phát triển xã
hội và kinh tế cũng phải trải qua các cuộc đấu tranh giữa các giai đoạn phát triển khác
nhau.
3. Liên hệ thực tiễn Việt Nam
3.1. Vận dụng lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất
3.1.1. Liên hệ thực tiễn
Trải qua cuộc chiến tranh gian khổ để bảo vệ nền độc lập dân tộc cho đất nước,
kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu nay lại càng gặp nhiều khó khăn hơn nữa, khi mà lực
lượng sản xuất của nước ta còn thấp kém, chưa có điều kiện phát triển; trình độ người
lao động rất thấp, hầu hết không có chuyên môn và chưa qua đào tạo. Trong bối cảnh
đó lao động Việt nam đa phần hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp thuần nông, chủ
yếu dựa trên kinh nghiệm mà cha ông để lại chứ chưa có ý thức gắn kết chỉnh thể thống
nhất khoa học – kỹ thuật – sản xuất. Đồng thời với đó, tư liệu sản xuất mà nhất là công
cụ lao động ở nước ta thời kỳ này còn thô sơ, lạc hậu, chưa có sự vận dụng, gắn liền với
nền khoa học – kỹ thuật thời đại. Nên nhìn chung trước đổi mới, lực lượng sản xuất ở
Việt nam còn thấp kém, lạc hậu và phát triển không đồng đều.
Trong hoàn cảnh đó, Đảng và Nhà nước lại chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm hai thành phần
kinh tế là (1) kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và (2) kinh tế hợp tác xã thuộc
sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Như vậy, Nhà nước đã không thừa nhận yếu tố

8
kinh tế của tư bản chủ nghĩa, cũng đã phân định tách bạch chế độ sở hữu và thành phần
kinh tế xã hội chủ nghĩa với phi xã hội chủ nghĩa, tuyệt đối hóa vai trò của chế độ công
hữu. Và điều này đã dẫn đến chủ trương cải tạo, sớm xóa bỏ các thành phần kinh tế phi
xã hội chủ nghĩa ra khỏi quan hệ sản xuất của đất nước.
Với bối cảnh đó, Việt Nam ta đã nhấn mạnh thái quá vai trò “tích cực” của quan
hệ sản xuất, dẫn đến chủ trương quan hệ sản xuất phải đi trước, mở đường để tạo động
lực cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nên nhiều nơi nông dân bị ép đi vào các
hợp tác xã, mở rộng nông trường quốc doanh mà không tính đến lực lượng sản xuất của
ta còn rất lạc hậu. Người lao động không được chú trọng về cả trình độ và thái độ lao
động, đáng ra họ phải là chủ thể của quan hệ sản xuất nhưng lại trở nên thụ động trong
cơ chế quan liêu bao cấp. Do đó, khi mà quan hệ sản xuất lên quá cao, nhưng lại tách
rời với lực lượng sản xuất nên đã dẫn đến hậu quả là sản xuất bị kìm hãm, đời sống
nhân dân đi xuống.
Nhận thức được sai lầm do chưa vận dụng đúng mối quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã thẳng thắn
thừa nhận khuyết điểm, chủ trương Đổi mới phương thức quản lý kinh tế và cho đến
nay đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, khi mà máy móc và các trang thiết bị hiện đại
ngày càng được sử dụng rộng rãi trong các ngành kinh tế; trong nông nghiệp là máy
cày, máy bừa,…các giống cây trồng mới cũng được tìm ra và phổ biến; trong công
nghiệp, kỹ thuật hạt nhân bắt đầu phát triển, đẩy mạnh sản xuất;…
Như vậy, trong hoàn cảnh lực lượng sản xuất không ngừng phát triển, Đảng và
Nhà nước ta đã chủ trương đa dạng hóa các mối quan hệ xã hội, chúng ta đã bước đầu
vận dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản
xuất và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Và cũng dựa trên nền tảng lý luận này, trong
cơ chế đổi mới đất nước theo hướng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Việt Nam chắc chắn sẽ giành được những thắng lợi lớn, vẻ vang và càng khẳng
định vai trò, vị thế ngày càng cao của mình trên trường quốc tế, trở thành một nước phát
triển ổn định.
3.1.2. Kết luận thực tiễn Việt Nam
Nhận thức được sai lầm trong quyết sách kinh tế - chính trị, Đại hội Đảng lần thứ
VI năm 1986 đã đưa ra đường lối đổi mới đất nước. Đổi mới ở đây không phải là thay
đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đang theo đuổi, mà
là nhận thức cho đúng mục tiêu về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,

9
trong đó bao gồm cả việc nhận thức đúng về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất. Theo đó, kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với đặc
điểm phát triển của lực lượng sản xuất trong điều kiện nước ta hiện nay. Nó cho phép
khai thác tốt nhất các năng lực sản xuất trong nước, thúc đẩy quá trình phân công lao
động trong nước với quốc tế và khu vực, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh
chóng.
Kết quả nhận thức cho mối quan hệ lý luận trên, Đại hội đại biểu toàn quốc khóa
VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã nhận định: “Nước ta chuyển thời kỳ phát triển
mới, thời kỳ thúc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước… Mục tiêu của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ
sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất…”.
3.2. Vận dụng lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa kiến trúc thượng tầng và cơ
sở hạ tầng
3.2.1. Liên hệ thực tiễn
Giai đoạn trước đổi mới (1986)
Quan hệ sản xuất về sở hữu tư liệu sản xuất cơ bản chỉ có hai hình thức là sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Giai đoạn này cơ sở hạ tầng kinh tế của nước ta mang
tính bao cấp, còn gọi là kinh tế kế hoạch hóa với các thiết chế chính trị, đoàn thể tương
ứng từ thời đất nước còn kháng chiến chống Mỹ để lại. Trong chiến tranh, sự vận dụng
như vậy là phù hợp và đã đem lại nhiều kết quả như mong muốn, nhất là sự vận dụng
đó đã nhanh chóng, kịp thời tập trung cao độ mọi nguồn lực để cung ứng cho công cuộc
kháng chiến chống Mỹ, giúp Đảng ta lãnh đạo toàn dân đi đến thắng lợi, thống nhất đất
nước. Tuy nhiên, bước sang giai đoạn hòa bình, thống nhất và bắt đầu xây dựng đất
nước thì việc vận dụng quy luật theo kiểu này không còn phù hợp, Đảng ta nhanh chóng
nhận thức được điều đó nên từ Đại hội VI năm 1986 Đảng đã đề ra chủ trương đổi mới
toàn diện, tạo cơ sở cho kinh tế đất nước không ngừng phát triển cho tới ngày nay.
Giai đoạn từ đổi mới (1986) cho tới nay
Giai đoạn này Đảng chủ trương đổi mới toàn diện, trong đó ưu tiên phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có định hướng xã hội chủ nghĩa nên chúng ta không
chỉ quán triệt và vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất mà còn quán triệt và vận dụng một cách khoa học và sáng tạo mối quan hệ biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng kinh tế của nước ta hiện nay là một kết cấu kinh tế nhiều thành
phần với nhiều hình thức sở hữu đan xen lẫn nhau. Thừa nhận sự tồn tại của một kết

10
cấu kinh tế với nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế cùng tồn như vậy là
một tất yếu khách quan. Bởi lẽ, trình độ lực lượng sản xuất của chúng còn thấp và chưa
đồng đều. Song, đây lại là một nền kinh tế năng động, phong phú. Chính tính chất đan
xen của kết cấu kinh tế ấy nó đặt ra nhu cầu khách quan là kiến trúc thượng tầng cũng
phải được đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Lẽ dĩ nhiên, không phải với
nền kinh tế nhiều thành phần và nhiều hình thức sở hữu khác nhau thì nhất thiết phải đa
đảng và đa nguyên về chính trị, nhưng nhất thiết phải đổi mới kiến trúc thượng tầng
theo hướng: đổi mới tổ chức, đổi mới bộ máy hành chính nhà nước, điển hình là chúng
ta đã thay đổi Hội đồng bộ trưởng thành Chính phủ - cơ quan hành pháp cao nhất của
đất nước - đổi mới con người, đổi mới phong cách lãnh đạo, đa dạng hoá các tổ chức,
đoàn thể, hiệp hội, mở rộng dân chủ (đặc biệt là dân chủ cơ sở), tăng cường khối đại
đoàn kết dân tộc… nhằm tập trung sức mạnh của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội hiện nay, Việt Nam đã đặt ra mục
tiêu đổi mới cơ sở hạ tầng và xây dựng kiến trúc thượng tầng phù hợp với thực tế đất
nước. Các chính sách và chiến lược phát triển được đưa ra để đảm bảo sự cân bằng và
tương tác giữa hai yếu tố này.
Trong cơ sở hạ tầng, Việt Nam đã đẩy mạnh đầu tư vào các cơ sở hạ tầng vận tải,
đặc biệt là đường bộ, đường sắt và cảng biển, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận
chuyển hàng hóa và phát triển du lịch. Ngoài ra, Việt Nam cũng đang đẩy mạnh đầu tư
vào năng lượng tái tạo và phát triển hạ tầng viễn thông, để đáp ứng nhu cầu của người
dân và doanh nghiệp trong kỷ nguyên số.
Trong kiến trúc thượng tầng, Việt Nam đang tập trung vào việc xây dựng các hạ
tầng kỹ thuật và cơ sở vật chất cho các ngành công nghiệp, đặc biệt là các ngành công
nghiệp chế biến, sản xuất và xuất khẩu. Đồng thời, Việt Nam cũng đang đẩy mạnh phát
triển các ngành dịch vụ như giáo dục, y tế, du lịch và nghệ thuật.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, Việt Nam cũng đang gặp phải một số thách
thức, như đô thị hóa, ô nhiễm môi trường, và chất lượng cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng
được nhu cầu phát triển của đất nước. Điều này đòi hỏi Việt Nam cần chú trọng đến
việc đầu tư và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế
và đời sống của người dân.
Tóm lại, mối quan hệ biện chứng giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng
đang tiếp tục diễn ra tại Việt Nam hiện nay. Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới
cơ sở hạ tầng và xây dựng kiến trúc thượng tầng phù hợp để đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế và xã hội của đất nước.
3.2.2. Kết luận thực tiễn Việt Nam
Để phát triển bền vững, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới cơ sở hạ tầng và
xây dựng kiến trúc thượng tầng phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của

11
nền kinh tế và xã hội. Đồng thời, cần phải tăng cường quản lý, nâng cao chất lượng giáo
dục và đào tạo, phát triển thị trường lao động và quản lý tốt các vấn đề liên quan đến
văn hóa và đời sống của người dân.
3.3. Đề xuất những giải pháp để đẩy mạnh quá trình phát triển này
Từ những thực tiễn hiện nay tại Việt Nam, nhóm xin đề xuất một số giải pháp
nhằm đẩy mạnh quá trình phát triển Việt Nam bền vững như sau.
Một là, đào tạo và phát triển lực lượng sản xuất. Sau đại dịch Covid-19, lực lượng
sản xuất bị tác động nghiêm trọng điển hình là tình trạng thất nghiệp, mất cân bằng về
nhu cầu việc làm ở các khu vực,... Do đó, để đẩy mạnh quá trình phát triển thì một trong
những vấn đề cấp thiết mà Việt Nam cần giải quyết đó chính là vấn đề về lực lượng sản
xuất bằng cách khuyến khích các doanh nghiệp tạo điều kiện để nhân viên được rèn
luyện, nâng cao tay nghề, đổi mới cách thức quản lý,...
Hai là, tăng cường củng cố quan hệ giữa các quốc gia. Vì Việt Nam là một nước
đang phát triển do đó còn tồn tại một số giới hạn cưỡng chế sự phát triển đồng bộ với
thế giới. Để vượt qua được các khó khăn, thử thách thì việc liên kết với các quốc gia
khác để cùng nhau hỗ trợ nhau phát triển là vô cùng cần thiết. Điển hình như thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Ba là, triển khai các dự án bảo vệ môi trường và khắc phục hậu quả ô nhiễm môi
trường. Bảo vệ môi trường gắn với phát triển kinh tế - xã hội do đó Việt Nam cần tiếp
tục đẩy mạnh phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm, suy thoái môi trường. Điển hình như
tăng tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho bảo vệ môi trường theo tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tế; kêu gọi đầu tư, phát triển công nghệ xử lý, tái chế chất thải;...
Bốn là, đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng. Để tiếp tục đẩy mạnh phát triển cơ sở
hạ tầng chất lượng cao thì Việt Nam cần tăng cường các biện pháp thu hút đầu tư, xác
định được thứ tự ưu tiên phát triển phù hợp, hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật liên
quan.

12

You might also like