You are on page 1of 67

Mục lục:

PHẦN CÁC NHÓM TT(11 nhóm nộp bản docs nội dung thuyết trình)
Phần 1: Những điều kiện lịch sử cho sự ra đời triết học Mác? Vai trò của triết học Mác
– Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Ví dụ
thực tiễn?..................................................................................................................................2
I. Triết học Mác-lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng cho
con người trong nhận thức và thực
tiễn……………………………………………………………………………………..2
II. Triết học Mác-lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận Khoa học và cách
mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh
mẽ………………………………………………………….….……………………….2
III. Triết học Mác-Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam……...…………………………………………………………………………….3
Phần 2: Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức. Vận dụng vấn đề đó vào xem xét các vấn đề đời sống hiện nay………….3
Phần 3: Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về sự phát triển. Vận
dụng vấn đề đó vào xem xét vấn đề phát triển bản thân…………………………………..9
Phần 4: Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa
nguyên nhân và kết quả. Vận dụng vấn đề đó vào xem xét vấn đề tắc đường ở Hà Nội
hiện
nay....................................................................................................................................10
Phần 5: Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa tất
nhiên và ngẫu nhiên. Vận dụng vấn đề đó vào hoạt động thực tiễn của bản
thân………………..………………..………………..………………..……………………..14
Phần 6: Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật từ những thay đổi về
lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại. Vận dụng vấn đề đó vào xem xét quá
trình học tập của sinh viên.………………..………………..………………..…………….15
Phần 7: Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập. Vận dụng vấn đề đó vào xem xét sự vận động và phát triển của các
sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.………………..………………..………….16
I. Vị trí, vai trò của quy luật…………………………………………………………...16
1.1 Các khái niệm liên quan………………………………………………………….16
1.2 Các khái niệm mâu thuẫn…………………………………………………..…….17
1.3 Các tính chất chung của mâu thuẫn……………………………………………....17
1.4 Phân loại mâu thuẫn……………………………………………………………...17
II. Nội dung của quy luật
2.1 Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ giữa chúng
và được thể hiện ở……………………………………………………………………18
2.2 Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và
phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.…………………………………………………19
III. Ý nghĩa..…………………………...…………………………………………………19

1
IV. Vận dụng………………………...…………………………………………………...19
V. Mâu thuẫn giữa quá trình đồng hoá và dị hoá tồn tại thống nhất…………………….20
VI. Mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột và bị bóc lột………………………………………..20
VII. Bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế……………………………………………...21
Phần 8: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Ý nghĩa phương pháp luận
của vấn đề đó đối với vấn đề học tập của sinh viên hiện nay…………………………….22
Phần 9: Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Liên hệ vấn đề đó đối với vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở Việt
Nam hiện nay………………………………………………………………………………..28
Phần 10: Nguồn gốc, kết cấu của giai cấp. Tính tất yếu và vai trò của đấu tranh giai cấp.
Đặc điểm của đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam………...30
Phần 11: Nguồn gốc, bản chất, đặc trưng, chức năng của nhà nước. Tính tất yếu và đặc
điểm của nhà nước vô sản. Đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam………...………………………………………………………………………………..34

PHẦN ĐỀ CƯƠNG 15 CÂU


Câu 1: Sản xuất vật chất là gì? Phân tích vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và
phát triển của xã hội?………...………………………………………………………………38
Câu 2: Trong kết cấu của lực lượng sản xuất yếu tố nào giữ vai trò quyết định nhất? Tại sao?
………...……………………………………………………………………………………...40
Câu 3: Trong kết cấu của lực lượng sản xuất, yếu tố nào đông nhất, cách mạng nhất? Tại sao?
………...…………………………………………………………………………………40
Câu 4: Tại sao khoa học là lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội hiện nay? Cho ví dụ?..... 41
Câu 5: Vì sao nói đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có giai
cấp? Liên hệ thực tiễn đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ nên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay………...……………………………………………………………………....42
Câu 6: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng? Đảng
Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng mối quan hệ này như thế nào trong thời kỳ đổi mới……..
45
Câu 7: Hình thái kinh tế - xã hội là gì? Tại sao nói sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã
hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên?………...
……………………………………………………………………………... 49
Câu 8: Phân tích các đặc trưng cơ bản trong định nghĩa về giai cấp của Lênin…………….. 50
Câu 9: Phân tích nguồn gốc, bản chất, đặc trưng và chức năng cơ bản của Nhà nước……... 52
Câu 10: Cách mạng xã hội là gì? Phân tích vai trò của cách mạng xã hội đối với sự phát triển
của xã hội?………...………………………………………………………………………… 54
Câu 11: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội? Đảng Cộng
Sản Việt Nam đã vận dụng mối quan hệ này như thế nào trong thời kỳ đổi mới…………... 57
Câu 12: Tính vượt trước của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội. Ý nghĩa của nó trong việc
xây dựng đời sống tinh thần của Việt Nam hiện nay. ………...
……………………………...62
Câu 13: Tại sao ý thức xã hội lại thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Cho ví dụ chứng
minh?………...……………………………………………………………………………… 63

2
Câu 14: Tại sao nói quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo chân chính ra lịch sử? Phê
phán những quan điểm sai lầm về vấn đề này?………...……………………………………65
Câu 15: Phân tích vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử. Ý nghĩa của vấn
đề này trong việc quán triệt bài học “Lấy dân làm gốc”………...…………………………...66

Những điều kiện lịch sử cho sự ra đời triết học Mác? Vai trò của triết
học Mác – Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam hiện nay. Ví dụ thực tiễn?

VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
VÀ SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Triết học Mác-lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng
cho con người trong nhận thức và thực tiễn.

- Các nguyên lý và quy luật của phép biện chứng duy vật là sự phản ánh những
mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ phổ biến nhất của cả tự nhiên, xã
hội và tư duy nên chúng có tác dụng định hướng không phải chỉ trong một
phạm vi nhất định nào đấy như đối với các nguyên lý và quy luật do các khoa
học chuyên ngành nêu lên, mà trong tất cả mọi trường hợp.

- Xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, cụ thể là xuất phát từ những
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta có thể có được những
cách giải quyết đúng đắn các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Còn ngược lại, xuất
phát từ một lập trường triết học sai lầm, chúng ta không thể tránh khỏi hành
động sai lầm. Chính ở đây thể hiện giá trị định hướng - một trong những biểu
hiện cụ thể chức năng phương pháp luận của triết học.

● Mỗi nguyên lý chung, theo tinh thần của triết học, đều phải được xem xét

- theo quan điểm lịch sử

- gắn liền với những nguyên lý khác

- gắn liền với kinh nghiệm cụ thể của lịch sử

➔ Thiếu ‘’kinh nghiệm cụ thể của lịch sử’’ này, thiếu sự hiểu biết tình hình thực tế sinh
động diễn ra ở từng địa điểm và thời gian nhất định thì việc vận dụng những nguyên
lý chung không những không mang lại hiệu quả mà trong nhiều trường hợp còn có
thể dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng.

3
2. Triết học Mác-lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận Khoa học và
cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ.

● Triết học Mác-lênin đóng vai trò là cơ sở lý luận- phương pháp luận cho các
phát minh khoa học, cho sự tích hợp và truyền bá tri thức khoa học hiện
đại,đồng thời, những vấn đề mới của hệ thống tri thức khoa học hiện đại cũng
đòi hỏi triết học Mác-lênin phải có bước phát triển mới

● Triết học Mác-lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học,
cách mạng để phân tích xu hướng vận động, phát triển của thế giới trong bối
cảnh toàn cầu hóa.

● Triết học Mác-lênin tiếp tục là lý luận khoa học và cách mạng soi đường cho
giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh giải phóng giai
cấp và giải phóng con người hiện nay.

3. Triết học Mác-Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.

- Vai trò thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác-Lênin thể hiện rõ
nét trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, đó là sự đổi mới tư duy, nhất là tư
duy lí luận, nếu không có đổi mới tư duy lý luận thì sẽ không có sự nghiệp đổi
mới.

- Thế giới quan triết học Mác-lênin đã giúp Đảng cộng sản Việt Nam nhìn nhận
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới, đánh giá cục diện thế
giới, các mối quan hệ quốc tế xu hướng thời đại, thực trạng tình hình đất nước
và con đường phát triển trong tương lai.

- Triết học Mác-Lênin cung cấp phương pháp luận để giải quyết những vấn đề
đặt ra trong thực tiễn đổi mới trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay +.

Lưu ý: triết học mác-lênin không phải liều thuốc vạn năng để giải quyết mọi vấn đề
của thực tiễn đặt ra.-> cần sự liên minh chặt chẽ giữa nhiều khoa học-> mối quan hệ
giữa triết học Mác-lênin và các khoa học khác cần phải mật thiết hơn

4
Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức. Vận dụng vấn đề đó vào xem xét các vấn đề
đời sống hiện nay.
I. VẬT CHẤT
- KN: Là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan mà con người biết được
qua cảm giác, được cảm giác chụp lại, chép lại, phản ánh tồn tại không phụ thuộc vào cảm
giác.
- Khi nói đến vật chất thì chúng ta thường hiểu đơn giản là những vật có thể cầm nắm
được, nhưng thật ra vật chất trong triết học không chỉ đơn thuần mang tính chất vật thể như là
cái xe, cái nhà, cái điện thoại mà vật chất trong triết học là một phạm trù chỉ thực tại khách
quan thì cái thứ nào mà có đặc tính khách quan đều được coi là đối tượng của vật chất. Tính
khách quan là tính độc lập, sự tồn tại không phụ thuộc vào ý thức của con người.
VD1: Như giờ tôi đang cầm cái thước trên tay đi và tôi sử dụng ý thức của mình và nói
là “cái thước ơi, bạn hãy biến mất đi!” Thì cái thước đâu có biến mất được đâu. Vậy, ý thức
của tôi đâu có thể quyết định sự tồn tại hay không của cây thước này. Đó là bởi nó có tính
khách quan.
VD2: Như chúng ta đã biết thì đun nước đến 100 độ C thì nước sẽ sôi và chuyển sang
trạng thái hơi. Đó là một quy luật. Bây giờ, chúng ta dùng ý thức của mình mong muốn nó ở
10 độ C là chuyển sang trạng thái hơi nhưng thực tế có được không các bạn? Vâng, đương
nhiên là không được rồi. Vì vậy, quy luật nước đến 100 độ C thì sẽ bay hơi cũng là một thứ
khách quan và không phụ thuộc vào ý thức của con người. Do đó, quy luật này cũng là (một
dạng) vật chất.
→ Như vậy, vật chất của triết học bao gồm những vật thể cầm nắm được và những tri
thức, quy luật hay là bất cứ thứ gì tồn tại độc lập mà không phụ thuộc vào ý thức của con
người thì nó được gọi là vật chất.
II. Ý THỨC
1. Khái niệm
- KN: Là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc của con người dựa trên cơ sở hoạt
động thực tiễn, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Đây là phản ánh tích
cực chủ động, sáng tạo hình ảnh chủ quan.
- Bây giờ, chúng ta sẽ tiến hành phân tích nó:
+ Thứ nhất, bản chất của ý thức là sự phản ánh của thực tại khách quan trên CS HĐ ( cơ
sở hoạt động) thực tiễn. Tức là phản ánh là ý thức, còn cái được phản ánh là vật chất.

5
+ Thứ hai, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nghĩa là ý thức là hình
ảnh chứ không phải bản thân sự vật. Bản thân sự vật được di chuyển vào óc người và
được cải biến ở trong đó. Vì thế nội dung phản ánh mang tính khách quan, mức độ cải
biến đến đâu là do chủ thể.
+ Thứ ba, ý thức có sự phản ánh tích cực, chủ động, sáng tạo, nghĩa là không phải vật
chất như thế nào thì phản ánh đúng vào bộ não của chúng ta như thế mà ý thức còn có
sự sáng tạo, năng động nữa.
VD: như cùng là hai cô gái đẹp, nhưng một cô thì chúng ta thích, một cô thì chúng ta
ghét, thì đương nhiên là ta sẽ nhận thấy là cô gái mà ta thích sẽ đẹp hơn, mặc dù hai
cô gái đó đẹp ngang nhau. Thì đó là sự phản ánh của sự chủ động, sáng tạo chứ không
phải khách quan như nào thì não của chúng ta sẽ phản ánh lại y hệt như vậy.
2. Nguồn gốc
“Tại sao con người có ý thức trong khi các động vật khác thì không?”
2.1 Nguồn gốc tự nhiên
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức được tạo bởi các yếu tố tự nhiên từ ý thức chính là bộ óc
và sự hoạt động cùng các mối quan hệ thế giới khách quan và con người. Trong đó thì thế giới
khách quan có sự tác động tới bộ óc của con người tạo ra khả năng về sự hình thành ý thức từ
con người đối với thế giới khách quan. Tóm lại, ý thức là sự phản ánh về thế giới khách quan
từ con người.
2.2 Nguồn gốc xã hội
Lao động và ngôn ngữ chính là nhân tố cơ bản nhất, trực tiếp tạo thành nguồn gốc xã
hội của ý thức.
● Lao động là một quá trình con người sử dụng về công cụ tác động với giới tự nhiên
để thay đổi giới tự nhiên phù hợp nhu cầu con người. Trong quá trình lao động thì con người
có sự tác động tới thế giới khách quan để bộc lộ những kết cấu, thuộc tính, quy luật vận động,
theo đó biểu hiện ra những hiện tượng nhất định để con người quan sát được.
=> Những hiện tượng mà con người quan sát được đó, được thể hiện thông qua hoạt
động của các giác quan, có sự tác động vào bộ óc con người. Và thông qua bằng bộ não con
người sẽ tạo ra khả năng để hình thành những tri thức và ý thức.
● Ngôn ngữ chính là cái vỏ của vật chất từ ý thức, hình thức vật chất nhân tạo có vai trò
trong thể hiện, lưu trữ nội dung ý thức. Sự ra đời ngôn ngữ được gắn liền với lao động, theo đó
lao động đã mang tính tập thể ngay từ đầu. Mối quan hệ các thành viên đòi hỏi có sự giao tiếp,
ý chí, trao đổi tri thức,… giữa các thành viên của cộng đồng con người.
=> Khi đòi hỏi các nhu cầu trên thì ngôn ngữ được khởi nguồn và phát triển tồn tại

6
trong lao động sản xuất, sinh hoạt xã hội. Nhờ ngôn ngữ từ đó con người được giao tiếp và trao
đổi, đồng thời truyền đạt nội dung, lưu trữ nội dung ý thức của thế hệ này sang thế hệ khác.
III. NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA MỐI QUAN HỆ BIỆN
CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC.
1. Nội dung
Theo quan điểm duy vật biện chứng: “Vật chất và ý thức tồn tại trong mối quan hệ
biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn; trong mối quan
hệ đó, vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức.”
2. Vai trò của vật chất đối với ý thức

Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất
là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh đối với vật chất.

Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi có
con người thì mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con
người là kết quả quá trình phát triển của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh
bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học
chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.

Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức đều hoặc là
chính bản thân thế giới vật chất, hoặc là những dạng tồn tại của vật chất nên vật chất là nguồn
gốc của ý thức.

Ý thức là cái phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh về thế giới vật chất nên nội dung
của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức biểu
hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi trường
sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định
nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.

3. Vai trò của ý thức đối với vật chất

Trong mối quan hệ với vật chất, “ý thức không thể quyết định vật chất nhưng có thể
tác động trở lại vật chất”

Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của
con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay

7
đổi hiện thực con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động vật chất
của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay
thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ
sở ấy, con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương
pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện…để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể
hiện sự tác động của mình đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

VD: Lấy ví dụ một quy luật: Nước đóng băng ở nhiệt độ âm. Không thể dùng suy nghĩ
của mình để mong muốn nước sẽ đóng băng ở 35 độ được. Muốn nước đóng băng thì phải cho
vào tủ lạnh => ý thức: mong muốn có đá lạnh. => tác động đến vật chất là nước, và hoạt động
thực tiễn là cho vào tủ lạnh

VD: Hoặc một bạn đang học kém, mong muốn học giỏi, đạt điểm cao và được mọi
người công nhận. Bạn đó không thể dùng ý thức, có nghĩa là không chỉ mong muốn được điểm
cao mà phải có kế hoạch học tập và ôn luyện khoa học.

Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu
cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực,
có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người có năng
lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện những mục đích của mình, thế giới
được cải tạo – đó là sự tác động tích cực của ý thức; còn nếu ý thức của con người phản ánh
không đúng hiện thực khách quan, bản chất quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành
động của con người đã đi ngược lại các quy luật. Hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đối với
hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.

Ví dụ 3 : Một ví dụ về việc vận dụng phương pháp luận biện chứng giữa vật chất và ý
thức vào đời sống hiện nay là trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin là một
yếu tố vật chất, bao gồm các thiết bị, phần mềm và hệ thống mạng. Ý thức trong trường hợp
này là cách chúng ta sử dụng công nghệ thông tin để làm việc, học tập và giao tiếp.

Với phương pháp luận biện chứng, chúng ta có thể nhận thấy rằng công nghệ thông tin
không chỉ đơn thuần là một công cụ, mà còn ảnh hưởng đến ý thức của chúng ta.

Ví dụ, việc sử dụng mạng xã hội có thể tạo ra sự phụ thuộc và ảnh hưởng đến tư duy
và hành vi của chúng ta.Trong trường hợp đại dịch Covid 19 một người được tiếp cận với

8
những thông tin tiêu cực về đại dịch như tham ô, lừa đảo hay mua bán khẩu trang tư trang y tế
giả, cá nhân ấy sẽ chỉ nhìn vào một mặt tối của thực trạng và trở nên u ất với hoàn cảnh. Trái
lại, khi được tiếp xúc với những tin tức tích cực trên các trang mạng thông tin như những câu
chuyện tình người, câu chuyện về các bác sĩ nơi tiền phương và cách nhân dân đồng bào giúp
đỡ ủng hộ họ nơi hậu phương cùng với đó giữ vững việc tỉnh táo và chọn lọc nội dung của
những đoạn tin tức, phân biệt được tin giả và thật, tốt và xấu, nên và không nên tiếp thu, sẽ
khiến cho những cá nhân ấy trở nên lạc quan hơn và muốn được giúp đỡ, góp mình để phát
triển xã hội lúc bấy giờ.

Ngoài ra, công nghệ thông tin cũng có thể tạo ra sự chia rẽ và bất bình đẳng trong xã
hội, khiến cho một số người có quyền lợi và tiếng nói lớn hơn so với những người khác.

Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định
hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành công hay thất
bại, hiệu quả hay không hiệu quả.

IV. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN RÚT RA TỪ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hoạt động.

- Thứ nhất, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải xuất phát từ hiện
thực khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan. Nếu không tôn trọng các quy
luật khách quan, chúng ta sẽ không đạt được kết quả, thậm chí sự thất bại còn kéo lùi quá trình
phát triển.
- Nhận thức sự vật hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, tránh tô hồng hoặc bôi đen đối
tượng, không được gán cho đối tượng cái mà nó không co, .nhờ vậy nắm bắt được những ưu
điểm, hạn chế để đề ra chủ trương, giải pháp cải tạo cho phù hợp.

Ví dụ 1: Trong việc kinh doanh, nhà sản xuất cần dựa trên thực tế khách quan là nhu
cầu của khách hàng, vốn mà mình có thể có, địa điểm kinh doanh hiện tại, các đối thủ cạnh
tranh khác … để tìm ra đúng mục tiêu, phương thức sản xuất, số lượng cho sản phẩm của
mình sao cho có thể sản xuất được những sản phẩm phù hợp nhất với thị hiếu người tiêu dùng.
Nếu Nhà sản xuất không xuất phát từ thực tế khách quan, đi ngược lại với thực tế khách quan ,
có những tư tưởng chủ quan duy ý chí thì sẽ gặp thất bại trong việc kinh doanh của mình.

9
Tuy nhiên trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn nếu chỉ xuất phát từ thực tế
khách quan thì vẫn chưa đủ để đảm bảo cho một công việc hiệu quả và thành công bởi thực tế
khách quan mới chỉ là một mặt của vấn đề
Ví dụ 2: như ở một lớp học nếu người giáo viên biết cách dựa trên thực tế khách quan,
căn cứ vào tình hình của lớp để đề ra kế hoạch học tập nhằm nâng cao chất lượng dạy và học
nhưng nếu những học sinh trong lớp học đó không phát huy tính năng động chủ quan, không
chịu khó học tập, tu dưỡng thì chất lượng giảng dạy và học tập cũng không được nâng cao.

Ví dụ 3 : Ở bộ môn cầu lông, Nguyễn Tiến Minh được coi là vận động viên hàng đầu
của Việt Nam. Để có được thành công này, trước hết các huấn luyện viên cũng như vận động
viên này đã biết xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan khi có các bài tập khoa
học, có chế độ ăn uống nghỉ ngơi hợp lý, đặc biệt là biết nhìn nhận, tôn trọng các đối thủ khác.
Bên cạnh đó, vận động viên này cũng biết phát huy tính năng động chủ quan khi đã phát huy
vai trò con người, cố gắng luyện tập hết sức mình cộng với ý chí niềm tự tôn dân tộc. Sự kết
hợp giữa tính thực tế khách quan và tính năng động chủ quan này đã mang tới thành công cho
Nguyễn Tiến Minh.
2. Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người.

Thứ hai, bên cạnh yêu cầu quán triệt quan điểm khách quan, chúng ta cần phát huy tính
năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người

+ chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, trông chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo
+ phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng,
coi trọng giáo dục lý luận khoa học và nâng cao trình độ tri thức khoa học, nhất là
trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hoá hiện nay.

VD: Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã liên tục thay đổi, đề ra các chủ
trương, biện pháp trong việc chuyển đổi số trên hầu hết các lĩnh vực. Ví dụ : người dân cần cài
app VNeID thay cho cccd, đi đường cao tốc ko cần chờ mua vé mà đc thanh toán hoàn toàn
qua online.

VD : việt nam cũng bắt kịp xu hướng trên thế giới, dần thay đổi hình thức thanh toán từ
tiền mặt sang các loại thanh toán đa dạng như : online banking, ví điện tử, thẻ tín dụng

10
Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về sự phát triển.
Vận dụng vấn đề đó vào xem xét vấn đề phát triển bản thân.
Liên hệ ( vận dụng vấn đề đó vào việc phát triển trong cuộc sống)
- Từ những điều đã được trình bày bên trên, ta có thể vận dụng nguyên lý về sự phát triển
vào việc phát triển bản thân như sau:
+ ta phải nhìn sự vật, hiện tượng trong trạng thái luôn vận động và phát triển, đánh giá
được cái xu hướng phát triển tương lai của nó, từ đó có những hành động phù hợp.
Lấy ví dụ như trong quá trình học tập, sẽ có những lúc chúng ta cảm thấy nhụt chí,
bi quan, cảm thấy việc học hành không có hiệu quả. Và nếu chúng ta không áp dụng
nguyên lý về sự phát triển, không xem xét nó có sự phát triển không ngừng thì chúng
ta sẽ không thể nào tìm được những phương pháp học tập phù hợp để từ đó cải thiện
được kết quả.

+ Nhận diện và phê phán các quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến trong nhận thức và
hành động bởi điều này sẽ làm cản trở những cái mới. Để ngăn chặn các vấn đề này,
sinh viên chúng mình cần rèn luyện ý thức tự chủ, độc lập ham học hỏi và sẵn sàng
tiếp thu các tư tưởng, văn hóa, khoa học tiến bộ một cách có chọn lọc phù hợp với
văn hóa của dân tộc. Cần loại bỏ những phương pháp cũ, những tư duy lạc hậu khi
vận dụng vào quá trình học tập. Không phải lúc nào lựa chọn của chúng ta cũng là
đúng, sinh viên cần lắng nghe ý kiến của bạn bè, thầy cô, cha mẹ,… Không bác bỏ
ngay lập tức mà cần tôn trọng những ý kiến đó, không nên áp đặt suy nghĩ của bản
thân mình lên người khác. Giáo dục mỗi ngày không ngừng thay đổi và đổi mới để
phù hợp với nhu cầu và tình hình của xã hội, sinh viên cần không ngừng học tập, cập
nhập kiến thức, tra cứu tài liệu, nâng cao kỹ năng mềm, để từ đó phát triển bản thân
mình hơn.

Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng
giữa nguyên nhân và kết quả. Vận dụng vấn đề đó vào xem xét vấn đề
tắc đường ở Hà Nội hiện nay.
Vận dụng vào vấn đề tắc đường ở Hà Nội hiện nay

1. Thực trạng tắc đường:


* Trong rất nhiều vấn đề nhức nhối của xã hội hiện nay, vấn đề về giao thông đường
bộ, đặc biệt là tắc đường đã trở thành một trong những điều đã tồn tại và gây trở ngại
lớn cho cuộc sống của người dân trong rất nhiều năm qua.

- Theo Sở GTVT Hà Nội, 10 năm qua đã có 36 điểm ùn tắc giao thông được "xóa sổ".
Tính đến tháng 8 năm nay, Hà Nội vẫn còn hơn 30 điểm ùn tắc giao thông nghiêm
trọng tại các tuyến đường như: Nguyễn Trãi, Tố Hữu - Lê Văn Lương...Ở Hà Nội có

11
các điểm đen về ách tắc giao thông là Ngã Tư Sở, Ngã Tư Vọng, Ngã Tư Đại Cồ Việt
- Lê Duẩn và các trục đường nhỏ khác.

- Cụ thể về các điểm tắc mạnh:

+) Dù đã được mở rộng nhưng đường Vành đai 3 nối cầu Thanh Trì và xã Mai Dịch, quận
Cầu Giấy vẫn bị ùn tắc do có quá nhiều chung cư được xây dựng dọc tuyến.

+) Đường Xuân Thủy (quận Cầu Giấy) từ lâu là điểm nóng ùn tắc giao thông, đặc biệt là khu
vực từ ngõ 130 Xuân Thủy kéo dài đến ngã tư cầu vượt.

+) Tại khu vực đường Phạm Hùng, đặc biệt là nút giao Bến xe Mỹ Đình, tình trạng ùn tắc
cũng thường xuyên xảy ra. Ngoài phương tiện cá nhân, lượng lớn xe buýt đi qua khu vực này
gây khó khăn cho việc phân luồng giao thông.

+) Đường Lê Văn Lương trước đây có ba làn đường, nhưng từ năm ngoái, khi một làn trở
thành làn đường dành riêng cho xe buýt, tình trạng ùn tắc giao thông diễn ra thường xuyên.

- Năm 2023, Sở GTVT đang cố gắng phối hợp với công an thành phố và các đơn vị liên
quan khác để xử lí 8-10 điểm ách tắc giao thông nghiêm trọng trên địa bàn Hà Nội.
Cụ thể, các trục đường Vành đai 2, Thụy Khuê (khu vực ngõ 128, 152 Thụy Khuê),
Âu Cơ – Xuân Diệu, Chu Văn An – Vạn Phúc, Nguyễn Xiển, cầu Thanh Trì và đường
Vành đai 3.

2. Nguyên nhân tắc đường (chủ quan, khách quan, thứ yếu, chủ yếu, bên trong, bên
ngoài,...)

a. Nguyên nhân khách quan:

- Thực tế cho thấy nguyên nhân cơ bản của ùn tắc giao thông là do số lượng phương
tiện trên tham gia giao thông ngày một lớn. Đặc biệt là từ khi xuất hiện trên thị
trường xe máy Trung Quốc giá rẻ, hợp với túi tiền của người dân Việt Nam, và các
công ty sản xuất xe máy trong nước đồng loạt hạ giá đã tạo điều kiện thuận lợi cho
mọi người mua sắm phương tiện đi lại này, điều đó làm cho số lượng người có xe
máy, tăng lên rất nhanh, nhất là các thành phố lớn đặc biệt là Hà Nội. Tình trạng ùn
tắc giao thông ngày càng trầm trọng hơn cả ở các tuyến phố chính đến các ngõ nhỏ.

=> Tháng 9 năm 2020, tổng số ô tô đang lưu hành là 3.971.388 xe nhưng chỉ sau 2
năm, tức tháng 9 năm 2022, số lượng ô tô hiện có là 4.937.988.

- Nguyên nhân chính là do dân số ở Hà Nội ngày càng gia tăng, nhu cầu đi lại ngày
càng lớn trong lúc cơ sở hạ tầng giao thông của Hà Nội vẫn còn hạn chế. Hà Nội
hiện là thành phố đông dân thứ hai của cả nước (sau TP Hồ Chí Minh) với dân số
trung bình năm 2021 là 8.330.834 người, tốc độ gia tăng dân số cơ học hằng năm ở

12
mức 1,4%/năm. Mật độ dân số trung bình hiện nay của Hà Nội khoảng 2.398
người/km2, cao gấp 8,2 lần so với mật độ dân số cả nước.

VD: Hàng năm có hàng ngàn sinh viên từ mọi miền tổ quốc và ngoại quốc đổ ra thủ
đô học Đại học => lượng người tham gia giao thông ngày càng lớn => tắc đường

- Hệ thống giao thông đường bộ không hoàn chỉnh: mặt đường hẹp, thiếu bãi đậu xe,
có quá nhiều nút giao thông chật hẹp. Quỹ đất dành cho giao thông ở thủ đô Hà Nội
chỉ khoảng 2,5% trong khi ở các nước tiên tiến khác con số này phải là 20- 25%.
Thêm nữa đường phố thường xuyên bị đào xới để sửa chữa, thay thế, lắp mới những
công trình ngầm như hệ thống cấp nước và thoát nước, cáp ngầm của các ngành bưu
điện hoặc điện lực, rồi tình trạng ngập lụt khá phổ biến vào mùa mưa. Vì thế ùn tắc
giao thông là hệ quả tất yếu.
b. Nguyên nhân chủ quan:

- Đó là sự thiếu kiên quyết của chính quyền đối với việc định hướng phương tiện
đi lại của người dân thành phố. Trong khi hệ thống vận tải khách công cộng không
được chú ý đầu tư đúng mức thì phương tiện cá nhân lại được thả nổi, tha hồ phát
triển. Việc buông lỏng quản lý đô thị dẫn đến tình trạng lấn chiếm lòng lề đường làm
nơi họp chợ, buôn bán, sản xuất, dịch vụ, để xe, chờ đón học sinh tan trường.

- Và nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến tình trạng ùn tắc giao thông là do sự thiếu ý
thức tự giác của nhiều người dân. Những người buôn bán vẫn tranh nhau lấn chiếm
vỉa hè, lòng lề đường, và các nhà chức trách dẹp ở chỗ này lại đùn ra chỗ kia nên
đường phố vốn đã hẹp lại càng hẹp hơn. Đồng thời trên đường phố
- vẫn thường xuyên xảy ra tình trạng đi ngược chiều, vượt đèn đỏ nếu không có
công an đứng gác, chưa kể đến việc vượt, tranh lấn đường. Thực tế việc tranh lấn
đường là một nguyên nhân thường xuyên dẫn đến nạn ùn tắc giao thông nhiều nhất.
c. Nguyên cớ và Điều kiện:
Như bạn Đạt đã trình bày ở phần trước, một kết quả xảy ra không chỉ có nguyên nhân mà còn
có thể có những nguyên cớ & điều kiện. Vậy đâu là nguyên cớ dẫn đến tình trạng tắc đường
ở Hà Nội?
Về nguyên cớ:

- Nhiều người cùng xuống đường trong giờ cao điểm để đi học, đi làm.
- Hiện tượng thời tiết xấu: Mưa, ngập lụt,...
- Những vấn đề khiến người tham gia giao thông buộc phải dừng xe đột ngột:

+ Phía trước có vật cản/tai nạn giao thông

+ Dừng đèn đỏ ...

Về điều kiện:

- Thời gian:

13
+ Ngày bình thường ở Hà Nội hiện nay.
+ Không phải dịp Tết Nguyên đán khi người lao động, HSSV về quê ăn Tết.
+ Không có lệnh giải tán hoặc giãn cách (như trong Covid-19,...) của Nhà
nước/Chính phủ. ...
- Địa điểm: Những đoạn đường huyết mạch, nối/chạy qua những địa điểm quan trọng,
nhiều người lưu tới như khu vực trung tâm, trường học, bệnh viện, chợ...

Cần phân biệt những nguyên cớ, điều kiện này với nguyên nhân để có thể đưa ra những giải
pháp chính xác nhất, giải quyết gốc rễ của vấn đề.

khắc phục tình trạng tắc đường là một bài toán nan giải, đến cả Táo Giao thông vẫn còn đưa
ra những giải pháp nghe rất “bất thường” như vậy. Tuy nhiên, khó không có nghĩa là không
thể. Dựa trên phần ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa nguyên
nhân và kết quả mà bạn Dung đã trình bày, đặc biệt là ý nghĩa thứ nhất về Muốn loại bỏ một
sự vật, hiện tượng nào đó không cần thiết, thì phải loại bỏ nguyên nhân sinh ra nó, nhóm e
xin đề xuất một số giải pháp dựa trên các nguyên nhân gây ra tắc đường ở HN, kể cả nguyên
nhân khách quan và chủ quan.

Đầu tiên là giải pháp cho những nguyên nhân khách quan:

Thứ nhất, để giải quyết nguyên nhân Dân cư Hà Nội đông đúc, cần phải Đảm bảo quá
trình đô thị hóa tự giác. Đô thị hóa tự giác là việc người dân di cư/hình thành đến đô thị
dưới sự điều tiết của Nhà nước chứ không phải tự do. Điều này giúp hạn chế việc dân số Hà
Nội tăng nhanh mất kiểm soát.
Bên cạnh đó, cần dần dần di dời một số cơ quan, công ty, trường học, bệnh viện ra khu vực
ngoại thành để Giãn dân cư khỏi các khu vực nội đô đông đúc.

Thứ hai để giải quyết nguyên nhân Số lượng phương tiện tăng cao, chính quyền cần thực
hiện quản lý phương tiện cá nhân. Quản lý ở đây có hai nghĩa, một là kiểm soát việc sản
xuất và nhập khẩu các loại phương tiện, tránh số lượng ồ ạt. Hai là đặt ra các hạn chế về việc
dùng phương tiện cá nhân để di chuyển trong nội thành cũng như quản lý công tác đào tạo,
sát hạch cấp, đổi giấy phép lái xe, công tác đăng ký, đăng kiểm xe cơ giới, nâng cao chất
lượng phương tiện và người lái xe cơ giới.
Bên cạnh đó, cũng cần Hạn chế phương tiện cỡ đại lưu thông trong thành phố. Đây là
biện pháp đã phổ biến hiện nay để đảm bảo không gian đường phố cho các phương tiện khác
lưu thông, tránh tắc đường
Cuối cùng, cần Phát triển hệ thống giao thông công cộng như xe buýt, tàu điện, xe đạp
công cộng cũng như khuyến khích người dân tham gia. Tiêu biểu cho việc thực hiện thành
công biện pháp này là đất nước Nhật Bản, với hệ thống tàu điện ngầm phát triển bậc nhất trên
thế giới với số lượng người sử dụng khổng lồ. Ngoài ra, theo thống kê, trung bình mỗi ngày
nam giới của Nhật Bản đi bộ khoảng 7.200 bước chân, còn nữ giới đi bộ khoảng 6.200 bước.

14
Thứ ba để khắc phục vấn đề Cơ sở hạ tầng giao thông còn hạn chế, có 3 giải pháp được đề
xuất. Đầu tiên cần rà soát, xây dựng, hoàn thiện các quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển kết
cấu hạ tầng giao thông vận tải, đảm bảo tầm nhìn dài hạn, tránh việc một dự án là hợp lý vào
thời điểm hiện tại nhưng lại trở nên lỗi thời vào 10 năm sau.

Bên cạnh đó, cũng cần đến những giải pháp cho Nguyên nhân chủ quan:
● Nâng cao trách nhiệm của hệ thống chính trị
● Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật
● Tăng cường tuyên truyền, giáo dục cho người dân
● Tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHÁC
● Hạn chế tham gia giao thông vào giờ cao điểm nếu không thực sự cần thiết.
● Dự báo thời tiết chính xác để người dân dự phòng trước các yếu tố như mưa gió, ngập
lụt,...
● Phát thanh trên radio, sóng FM về những đoạn đường đông đúc, đề xuất giúp tài xế
những đoạn đường nhanh nhất, tốt nhất để di chuyển.

Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng
giữa tất nhiên và ngẫu nhiên. Vận dụng vấn đề đó vào hoạt động thực
tiễn của bản thân
VẬN DỤNG
1. Cần có tính chủ động, chuẩn bị những phương án dự phòng đáp ứng với những
ngẫu nhiên có thể xảy ra.
- Kì thi THPTQG năm 2023, đề văn rơi vào tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân.
Nhiều thí sinh rơi vào tình trạng lệch tủ bởi trước đó trên MXH có nhiều phỏng đoán
đề thi sẽ vào kí NLĐSĐ hoặc trúng tủ nhưng lệch ngăn bởi đề yêu cầu phân tích đoạn
cuối của VN - đoạn trích dường như có ít khả năng sẽ xuất hiện trong đề thi nhất
→ Như vậy, chúng ta không nên học tủ mà hãy ôn tập kĩ lưỡng,
không bỏ sót phần kiến thức nào.
- Bên cạnh đó, kì thi năm nay ghi nhận nhiều bạn với số điểm ấn tượng. Thế nhưng có
nhiều sĩ tử khá chủ quan, chỉ để xét duy nhất một nguyện vọng. Cuối cùng dẫn đến
kết quả là trượt Đại học.

2. Trong phạm trù tất nhiên, muốn đạt được thành công đều phải dựa trên sự nỗ
lực của bản thân
- Không có con đường nào trải đầy hoa hồng. Muốn chạm tới đích đến của sự thành
công, mỗi chúng ta đều phải bỏ công sức, có khi cả mồ hôi nước mắt vào đó. Những

15
nhà tỷ phú không phải tự nhiên mà họ giàu có, những nhà bác học không phải tự
nhiên mà được công nhận.
Ví dụ:
+ Với khoảng 1.093 bằng sáng chế mang tên mình, Thomas Edison chính là nhà
phát minh vĩ đại nhất mọi thời đại, làm thay đổi đời sống nhân loại.
+ Tuy nhiên, có mấy ai biết được rằng thuở còn đi học, các giáo viên dạy Edison
đã cho rằng ông “quá ngu ngốc nên không thể học bất cứ điều gì”; do đó, mẹ
của ông đã quyết định là sẽ tự nuôi nấng, dạy dỗ ông nên người.
+ Thomas Edison đã làm thí nghiệm đến 10.000 lần, và đều thất bại trước khi
phát minh ra bóng đèn điện, mang đến cuộc cải cách cho lịch sử nhân loại.
- May mắn có tồn tại nhưng phải có một trình độ nhất định để khai thác những may
mắn đó
- Ví dụ: “Nhà bác học nhảy ra khỏi bồn tắm”
- Đó là Ác-si-mét, nhà bác học nổi tiếng Hy Lạp. Ông đã có đóng góp to lớn trong lĩnh
vực vật lý, thiên văn học và toán học. Đặc biệt ông đã tính ra số Pi bằng cách đo hình
có nhiều góc nội tiếp và ngoại tiếp.
- Tương truyền rằng ông đã tìm ra định luật về sức đẩy của nước khi đang tắm. Ông
đã sung sướng nhảy ra khỏi bồn tắm, chạy thẳng về phòng làm việc mà quên cả mặc
quần áo, miệng kêu lớn: "Ơrêca! Ơrêca (Tìm thấy rồi! Tìm thấy rồi!)

→ Ác-si-mét đã tình cờ phát hiện ra một định luật mới khi đang tắm. Tuy
nhiên điều này không hoàn toàn là ngẫu nhiên bởi trước đó ông đã có kiến
thức dày dặn trong lĩnh vực toán - lý và ông cũng có nhiều giờ đồng hồ nghiên
cứu khoa học. Nếu là người bình thường và không thông thạo kiến thức
KHTN, chúng ta sẽ không thể có một phát hiện đột phá như vậy.

- Nhiều cá nhân lại “há miệng chờ sung” và tin tưởng mù quáng vào những vận may
trong cuộc sống. Ví dụ: chơi lô chơi đề

Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật từ những thay đổi
về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại. Vận dụng vấn đề
đó vào xem xét quá trình học tập của sinh viên.
Ba quy luật cơ bản: quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, quy luật từ những
sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại, quy luật phủ định của
phủ định.
Vận dụng
Con người, bên cạnh việc phát triển về thể xác, tinh thần còn phải luôn tự mình tiếp
thu những tri thức của nhân loại. Quá trình tích lũy tri thức của con người cũng không nằm
ngoài quy luật lượng chất. Bởi vì, dù nhanh hay chậm thì sớm muộn, sự tích lũy về tri thức
cũng sẽ làm con người có được sự thay đổi nhất định, tức là có sự biến đổi về chất.

Ví dụ: Quá trình tích lũy các học phần của sinh viên chính là độ, các kì thi chính là
điểm nút và việc vượt qua các kì thi chính là bước nhảy, trong đó bước nhảy quan trọng

16
nhất chính là kỳ thi tốt nghiệp. Việc vượt qua được kì thi tốt nghiệp là điểm nút quan trọng,
chứng tỏ sinh viên đã có sự tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một thời
kì phát triển mới của lượng và chất, từ sinh viên thành người lao động. Quá trình đó cứ liên
tục tiếp diễn, tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng ngay trong chính bản thân con
người, tạo nên động lực không nhỏ cho sự phát triển của xã hội.

Khi nghiên cứu, học tập, nếu biết cách vận dụng quy luật Lượng – Chất vào quá trình
học tập cũng là một trong những phương thức thúc đẩy, thay đổi quá trình học tập của sinh
viên. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng quy luật từ sự thay đổi về lượng dẫn đến
thay đổi về chất và ngược lại trong quá trình học tập của sinh viên hiện nay:
1. Sinh viên cần nhận thức được sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và
đại học. Ở đây là sự khác nhau về bản chất chứ không chỉ là sự thay đổi về hình thức,
bởi vậy có thể nói sự chuyển đổi từ phổ thông lên đại học cũng giống như quá trình
biến đổi từ lượng thành chất. Chính vì vậy mà sinh viên cần phải thay đổi nếp sống
mới sao cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, phù hợp với yêu cầu của ngành giáo dục
đối với đại học.
2. Trong quá trình học tập, sinh viên cần từng bước tích lũy kiến thức một cách chính
xác, đầy đủ. Sinh viên phải biết từng bước tích lũy về lượng (tri thức) làm biến đổi về
chất (kết quả học tập) theo quy luật.
3. Trong học tập và nghiên cứu sinh viên cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóng vội đốt
cháy giai đoạn, tránh việc “nước đến chân mới nhảy”. Cần học từ thấp đến cao, từ dễ
đến khó để có sự biến đổi về chất.
4. Mỗi sinh viên cần phải tự rèn luyện ý thức học tập tích cực, chủ động. Khi tích lũy
hành vi (lượng) dần dần sẽ tạo nên thói quen (chất), sinh viên cần rèn luyện cho mình
tính chăm chỉ, tự chủ năng động trong quá trình học tập, tích lũy tri thức giản đơn
nhất từ những thói quen hàng ngày.
Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất cũng
như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong việc học tập và rèn luyện của
sinh viên Đại học hiện nay.

Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và
đấu tranh giữa các mặt đối lập. Vận dụng vấn đề đó vào xem xét sự
vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách
quan.

1.
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA QUY LUẬT
- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật cơ bản và quan trọng
nhất của phép biện chứng duy vật
- Ở vị trí hạt nhân của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác Lê-nin.

17
- Nếu như ở bài trước, quy luật lượng - chất chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận
động và phát triển; ở bài sau, quy luật phủ định của phủ định nói lên khuynh hướng
của sự vận động, phát triển => thì trong bài hôm nay, chúng ta sẽ học được về quy
luật mâu thuẫn, Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát
triển, dẫn đến cái mới ra đời và thay thế cái cũ.

1. Các khái niệm liên quan

1.1 Mặt đối lập dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính
quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau nhưng đồng thời lại là điều kiện, tiền đề
của nhau.
VD: Điện tích âm và dương trong một nguyên tử, lực hút và lực đẩy giữa các vật thể, sự sống
và cái cái chết, tính thiện và tính ác…

1.2 Khái niệm mâu thuẫn


Quan điểm siêu hình coi mâu thuẫn là cái đối lập phản logic, không có sự thống nhất,
không có sự chuyển hóa biện chứng giữa các mặt đối lập. Cũng tức là phủ nhận sự tồn tại của
mâu thuẫn biện chứng.
Quan điểm biện chứng khẳng định mâu thuẫn biện chứng được tạo thành từ các mặt đối
lập. Mâu thuẫn là cái vốn có ở mọi sự vật hiện tượng trên thế giới.
Khái niệm mâu thuẫn biện chứng: là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu
tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lập của một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật,
hiện tượng với nhau.
1.3 Các tính chất chung của mâu thuẫn

- Tính khách quan: mâu thuẫn tồn tại trong sự vật, gắn liền với mối quan hệ giữa các sự
vật. Mâu thuẫn không phụ thuộc vào ý thức của con người là có nhận biết được nó
hay không. Nó cũng không phụ thuộc vào việc mâu thuẫn đó sẽ có lợi hay có hại cho
con người. Sự tồn tại của nó quy định sự tồn tại của sự vật khách quan.
- Tính phổ biến: mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng; tồn tại trong tất
cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Tính đa dạng, phong phú: mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có thể bao hàm nhiều
loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử cụ thể
khác nhau; giữ vị trí vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động, phát triển của sự
vật.

1.4 Phân loại mâu thuẫn

Dựa trên các cơ sở khác nhau mà trong thực tiễn người ta có thể quan niệm thành các mâu
thuẫn khác nhau:

18
● Trên cơ sở quan hệ của mâu thuẫn có sự phân chia thành mâu thuẫn bên trong và
mâu thuẫn bên ngoài.
- Mâu thuẫn bên trong là những mâu thuẫn tồn tại trong sự vật, gắn liền với kết cấu vật
chất của vật.
- Mâu thuẫn bên ngoài là những mâu thuẫn giữa vật này với vật khác.

Ví dụ: Trong phạm vi nước ta, mâu thuẫn trong nội bộ nền kinh tế quốc dân là mâu
thuẫn bên trong; còn mâu thuẫn về kinh tế giữa nước ta với các nước khác trong
ASEAN là mâu thuẫn bên ngoài. Nếu trong phạm vi ASEAN thì mâu thuẫn giữa
các nước trong khối lại là mâu thuẫn bên trong. Vì vậy, để xác định một mâu thuẫn
nào đó là mâu thuẫn bên trong hay mâu thuẫn bên ngoài trước hết phải xác định
phạm vi sự vật được xem xét.

● Trên cơ sở vai trò của mâu thuẫn đối với vật có sự phân chia thành mâu thuẫn cơ
bản và mâu thuẫn không cơ bản.
- Mâu thuẫn cơ bản là những mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát
triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật.
- Mâu thuẫn không cơ bản là những mâu thuẫn không quy định bản chất của sự vật, chỉ
đặc trưng cho một phương tiện nào đó của sự vật, quy định sự vận động và phát triển
của một mặt nào đó của sự vật.
● Trên cơ sở vị trí của mâu thuẫn đối với vật có sự phân chia thành mâu thuẫn chủ
yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
- Mâu thuẫn chủ yếu là những mâu thuẫn nổi lên hàng đầu trong từng giai đoạn phát
triển nhất định của sự vật, và chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó.

(Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mâu thuẫn
chủ yếu có thể là một hình thức biểu hiện nổi bật của mâu thuẫn cơ bản hay là kết
quả vận động tổng hợp của các mâu thuẫn cơ bản ở một giai đoạn nhất định. Việc
giải quyết mâu thuẫn chủ yếu tạo điều kiện giải quyết từng bước mâu thuẫn cơ
bản.)

- Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn không nổi lên hàng đầu trong từng giai đoạn
phát triển của vật. Mâu thuẫn này tuy ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển
nào đó của sự vật nhưng không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi
phối.

(Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu là góp phần vào việc từng bước giải quyết mâu thuẫn
chủ yếu.)

Ví dụ: ở nước ta 1940-1943 mâu thuẫn chủ yếu: Nhật, Pháp và nhân dân ta; mâu
thuẫn thứ yếu: địa chỉ và nông dân.

● Trên cơ sở lợi ích của các lực lượng, các giai cấp trong xã hội có sự phân chia thành
mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.

19
- Mâu thuẫn đối kháng là những mâu thuẫn giữa các giai cấp, giữa các lực lượng mà lợi
ích căn bản của họ trái ngược nhau.

Ví dụ: Mâu thuẫn giữa nô lệ và chủ nô trong xã hội chiếm hữu nô lệ

- Mâu thuẫn không đối kháng là những mâu thuẫn giữa các lực lượng, giữa các giai cấp
có sự thống nhất với nhau về lợi ích căn bản, chỉ đối lập với nhau về những lợi ích
không cơ bản, cục bộ, tạm thời.

Ví dụ: Mâu thuẫn giữa lao động trí óc và lao động chân tay.

1. Nội dung của quy luật


2.1 Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ giữa chúng và
được thể hiện ở việc:
- Các mặt đối lập cần đến nhau, nương tựa vào nhau, làm điều kiện, tiền đề cho nhau
tồn tại.
- Các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa cái
mới đang hình thành và cái cũ chưa mất hẳn.
- Giữa các mặt đối lập có sự tương đồng.

2.2 Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ
định lẫn nhau giữa các mặt đó.

* Trong mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập thì sự đấu tranh giữa
chúng là tuyệt đối, nói lên sự vận động tuyệt đối của sự vật; còn sự thống nhất của các mặt
đối lập là tương đối, là sự đứng im tương đối của sự vật.

- Khi sự vật, hiện tượng vận động và phát triển, các mặt đối lập luôn vừa thống nhất,
vừa đấu tranh với nhau. Khi đấu tranh đạt đến điểm chín muồi, kết hợp với những
điều kiện, hoàn cảnh nhất định, các mặt đối lập sẽ chuyển hóa cho nhau, mâu thuẫn
được giải quyết, sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới xuất hiện.
- Sự vật mới ra đời lại nảy sinh mâu thuẫn mới và quá trình tác động, chuyển hóa của
mâu thuẫn mới lại tiếp diễn.

=> Bởi vậy, sự liên hệ, tác động, chuyển hóa lẫn nhau giữa hai mặt đối lập là nguồn gốc,
động lực của sự vận động, phát triển.

2. Ý nghĩa
- Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển, có tính khách quan,
phổ biến nên cần phải thừa nhận, tôn trọng tính khách quan của mâu thuẫn trong
sự vật, hiện tượng; từ đó giải quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện
khách quan. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn cần tìm ra thể thống nhất của các mặt đối
lập trong sự vật, hiện tượng.

20
- Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú nên khi phân tích mâu thuẫn, phải xem
xét quá trình phát sinh, phát triển của từng loại mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và
mối quan hệ giữa các mâu thuẫn và điều kiện chuyển hoá giữa chúng. Tránh rập
khuôn, máy móc,...

- Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa các mặt đối
lập, không điều hoà mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ, bởi giải quyết
mâu thuẫn còn phụ thuộc vào điều kiện đã đủ và chín muồi hay chưa.

3. Vận dụng

Chúng ta có thể thấy mâu thuẫn xảy ra rất thường xuyên và phổ biến rộng khắp trên mọi mặt,
mọi lĩnh vực của đời sống. Có mâu thuẫn mới có sự đấu tranh, nghiên cứu hòa giải cũng như
tìm ra cái đúng, cái chính xác cho các bên.

4.1 Mâu thuẫn giữa quá trình đồng hoá và dị hoá tồn tại thống nhất

=> Trên cơ sở quan hệ của mâu thuẫn, mâu thuẫn bên trong là những mâu thuẫn tồn tại
trong sự vật.

Hai quá trình này đối lập nhau, đấu tranh với nhau.

Quá trình đồng hóa tổng hợp các thành phần tử nhỏ, đơn giản tạo thành các phần tử lớn, phức
tạp → tổng hợp các chất dinh dưỡng cho cơ thể để tích lũy năng lượng.

Còn quá trình dị hoá thì phân giải các phân tử lớn, phức tạp thành các phần tử nhỏ,
đơn giản hơn để giải phóng năng lượng cho các hoạt động sống.

Sự thống nhất của chúng thể hiện trên việc chúng phụ thuộc và là tiền đề cho nhau để
tồn tại. Thiếu cái này thì không thể có cái kia.
Quá trình đồng hoá thì cung cấp nguyên liệu cho qt dị hoá, qt dị hoá lại tiếp tục cung cấp
năng lượng cho qt đồng hoá.

Từ việc giải quyết mâu thuẫn của 2 quá trình đồng hoá và dị hoá đó thì mới tạo ra
được năng lượng cung cấp cho mọi hoạt động sống của cơ thể từ quá trình chuyển hoá
này. Từ đó thì con người, sinh vật mới từ từ, từng ngày phát triển.

4.2 Mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột và bị bóc lột Chế độ xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử là chế độ chiếm hữu nô lệ,mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa chủ nô
nô lệ. Còn 2 giai cấp cơ bản trong xã hội tư bản là giai cấp tư sản và vô sản. Nhà nước
xã hội chủ nghĩa xét về bản chất khác về cơ bản với các nhà nước còn lại.

21
=> Xét trên cơ sở lợi ích của các lực lượng thì đây là mâu thuẫn đối kháng - sự đối lập
giữa những giai cấp, những tập đoàn người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản
đối lập nhau.
đã tạo nên một hình thái xã hội mới. Sự hình thành của xã hội mới lại làm phát sinh
những mâu thuẫn mới trong xã hội đó.

Khác với mâu thuẫn không đối kháng được khắc phục bằng cách cải tạo từng bước và
có kế hoạch những điều kiện kinh tế, xã hội, v.v. gây nên những mâu thuẫn ấy”

Trong quá trình phát triển, mâu thuẫn ngày càng gay gắt thêm, sâu sắc thêm và cuộc
đấu tranh giữa các mâu thuẫn dẫn đến sự xung đột gay gắt.
Mâu thuẫn được giải quyết khi có sự đấu tranh giai cấp giữa giai cấp thống trị với
giai cấp bị trị, bị áp bức, bóc lột mà đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là khi cách mạng
xã hội nổ ra và giành thắng lợi
=> Giai cấp mới xoá bỏ đi giai cấp bảo thủ, lạc hậu -> xoá bỏ chế độ xã hội hiện
hành, hình thành và ra đời nên chế độ xã hội mới, tiến bộ hơn, phát triển hơn → xã
hội vận động, phát triển.
Lịch sử loài người là một lịch sử của sự thay thế giai cấp cũ bằng giai cấp mới.

Mặt khác, không phải lúc nào quan hệ giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột cũng
có tính đối kháng, có những thời điểm hai giai cấp này còn là đồng minh của nhau,
cùng hợp tác với nhau để chống lại một giai cấp khác, hoặc chống kẻ thù từ bên ngoài
xâm lược. Ví dụ, quan hệ hợp tác giữa giai cấp tư sản dân tộc với giai cấp vô sản
trong thời kỳ Cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta trước đây; quan hệ hợp tác giữa
giai cấp tiểu tư sản và giai cấp vô sản ở Pháp trong cuộc Cách mạng 1848 – 1850(6)
… Ngoài ra, mâu thuẫn đối kháng cũng có thể xuất hiện trong quan hệ giữa các nhóm,
các cộng đồng người trong xã hội (giữa các thị tộc, bộ lạc, các cộng đồng tôn giáo,
các dân tộc,…).

4.3 Bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế


- Phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự hoàn thiện cơ cấu, thể
chế kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo công bằng xã hội.
- Môi trường sinh thái là một mạng lưới chỉnh thể có mối liên quan chặt chẽ với nhau
giữa đất, nước, không khí và các cơ thể sống trong phạm vi toàn cầu.

Mong muốn bán nhanh, thu lời nhanh, kiếm tiền nhanh thì trong việc trồng rau, bán gà, bán
thịt lợn, rất nhiều người dân sẵn sàng dùng rất nhiều thủ thuật từ tẩm ướp gia vị, phun thuốc
quá liều bất chấp những tác hại khôn lường của chúng đến đất, nước, không khí, môi trường
tự nhiên về lâu về dài và thậm chí là sức khoẻ, tính mạng của người xung quanh.

22
Tương tự như vậy, trong đời sống, do nhu cầu về điều kiện sống của con người ngày càng
cao nên tất yếu sẽ thúc đẩy chúng ta phải phát triển kinh tế để thoả mãn những nhu cầu của
bản thân cũng như toàn xã hội.
Tuy nhiên việc phát triển kinh tế đòi hỏi phải có nguồn nguyên vật liệu để đảm bảo quá
trình mở rộng sản xuất, mà nguồn cung cấp đó lại được lấy từ tự nhiên và điều này tất yếu
dẫn đến việc ảnh hưởng tới môi trường sinh thái: khai thác quá mức, tàn phá tài nguyên
trên phạm vi rộng lớn không những làm suy thoái tài nguyên mà còn làm giảm chất lượng
của môi trường sinh thái.
Đây chính là mâu thuẫn, kinh tế càng phát triển thì lại càng làm cho môi trường xấu đi.

- Sự thống nhất:
Trong mối quan hệ mâu thuẫn biện chứng này, sự thống nhất của các mặt đối lập với nhau và
tác động lẫn nhau.
Những lợi ích kinh tế ban đầu thu được từ việc khai thác và sử dụng bừa bãi thiên nhiên sẽ
không bù lại được những chi phí đắt đỏ và tổn thất to lớn mà con người phải hứng chịu về
sau trong quá trình khôi phục môi trường.
Thậm chí là nói chung, con người cũng đang bị đe dọa bởi những tác động trở lại của môi
trường ví dụ như vấn đề ô nhiễm môi trường sống với tốc độ nhanh và phạm vi rộng lớn, sự
nóng lên của Trái Đất với tốc độ chưa từng có, băng tan, nước biển dâng cao, thiên tai, lũ lụt
ngày một nhiều.

- Giải quyết mâu thuẫn trên: làm sao để có thể vừa tăng trưởng kinh tế nhưng mà
cũng phải giảm bớt những ảnh hưởng, thiệt hại lớn lên môi trường, bảo vệ môi trường
sinh thái → Kinh tế tuần hoàn trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất và dịch vụ
đặt ra mục tiêu nhằm tạo ra các vòng lặp kín cho tài nguyên sử dụng trong hệ thống
kinh tế để giảm đến mức tối thiểu số lượng tài nguyên sử dụng đầu vào và số lượng
phế thải tạo ra, cũng như mức độ ô nhiễm môi trường và khí thải. Cách tiếp cận này là
tương phản với mô hình mô hình kinh tế tuyến tính, các tài nguyên chỉ di chuyển
theo một chiều, từ khai thác tài nguyên, sản xuất, đến vứt bỏ sau tiêu thụ, dẫn đến
việc lãng phí tài nguyên và tạo ra một lượng phế thải khổng lồ.

Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Ý nghĩa phương
pháp luận của vấn đề đó đối với vấn đề học tập của sinh viên hiện nay.

1. Phạm trù thực tiễn


Một số quan niệm về thực tiễn:
Theo tiếng Hy Lạp cổ, thực tiễn bắt nguồn từ chữ “Practica”, có nghĩa đen là hoạt động tích
cực.

23
Các nhà duy tâm cho hoạt động nhận thức, hoạt động của ý thức, hoạt động của tinh thần nói
chung là hoạt động thực tiễn.
Các nhà triết học tôn giáo thì cho hoạt động sáng tạo ra vũ trụ của Thượng đế là hoạt động
thực tiễn.
Các nhà triết học trước Mác thì chưa hiểu đúng được về bản chất của thực tiễn cũng như vai
trò của thực tiễn đối với nhận thức.

Quan điểm của triết học Mác- Lênin:


Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất - cảm tính, có tính lịch sử xã hội của con người
nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ.
Thực tiễn gồm những đặc trưng sau:
● Thứ nhất, thực tiễn không phải toàn bộ hoạt động của con người mà chỉ là những
hoạt động vật chất - cảm tính, như lời của C.Mác, đó là những hoạt động vật chất
của con người cảm giác được. Nghĩa là con người có thể quan sát trực quan được các
hoạt động vật chất này.
● Thứ hai, hoạt động thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử - xã hội của con
người. Nghĩa là, thực tiễn là hoạt động chỉ diễn ra trong xã hội, với sự tham gia của
đông đảo con người trong xã hội. Trong hoạt động thực tiễn, con người truyền lại cho
nhau những kinh nghiệm từ thế hệ này qua thế hệ khác. Cũng vì vậy, hoạt động thực
tiễn cũng bị giới hạn bởi những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể. Đồng thời, thực tiễn
có trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển cụ thể của nó.
● Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục
vụ con người. Đây là hoạt động khác biệt với hoạt động có tính bản năng, tự phát của
động vật nhằm thích nghi thụ động với thế giới. Hoạt động thực tiễn mang tính tự
giác, chủ động, tích cực rất cao của con người.
● Ví dụ: Hoạt động trồng lúa của người dân Việt Nam (quan sát trực quan được), ban
đầu thì cách trồng lúa còn sơ khai hoàn toàn sử dụng sức người và sức trâu bò kéo,
nhưng theo thời gian phát triển, khoa học công nghệ phát triển, thì có thêm máy móc,
xe kéo tham gia vào hoạt động này. Và hoạt động trồng lúa này được người dân lên
kế hoạch vụ mùa theo thời tiết địa phương, như miền Bắc có hai vụ mùa chính, còn
miền Nam có ba vụ mùa, ngoài ra để tăng năng suất so với bình thường thì các kĩ sư
nông nghiệp còn thử nghiệm các giống gạo mới, cho ra chất lượng gạo cao hơn và
năng suất hơn.
Các hình thức của thực tiễn: Hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và
hoạt động thực nghiệm khoa học
● Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức thực tiễn biểu thị mối quan hệ của con người
với tự nhiên, là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội loài người. Không
có sản xuất vật chất, con người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển
được. Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tồn tại của các hình thức thực tiễn khác
cũng như tất cả các hoạt động sống khác của con người.
Ví dụ: Người nông dân dùng máy gặt để thu hoạch lúa trên đồng; người ngư dân
dùng lưới để đánh bắt cá trên biển...
● Hoạt động chính trị - xã hội: là hoạt động thực tiễn thể hiện tính tự giác cao của con
người nhằm biến đổi, cải tạo xã hội, phát triển các thiết chế xã hội, các quan hệ xã

24
hội…tạo ra môi trường thuận lợi cho con người phát triển. Hoạt động chính trị - xã
hội bao gồm các hoạt động như: đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu
tranh cho hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội, đấu tranh cải tạo các quan hệ chính trị - xã
hội, nhằm tạo ra môi trường xã hội dân chủ, lành mạnh, thuận lợi cho con người phát
triển. Thiếu hình thức hoạt động thực tiễn này, con người và xã hội cũng không thể
phát triển bình thường được.
Ví dụ: Nhân dân ta đấu tranh đánh đuổi thực dân Pháp & đế quốc Mỹ để giành độc
lập dân tộc.
● Hoạt động thực nghiệm khoa học: là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn. Bởi
lẽ, trong hoạt động thực nghiệm khoa học, con người chủ động tạo ra những điều kiện
không có sẵn trong tự nhiên cũng như trong xã hội để tiến hành thực nghiệm khoa học
theo mục đích mà mình đề ra. Trên cơ sở đó, vận dụng những thành tựu khoa học, kỹ
thuật, công nghệ vào sản xuất vật chất, cải tạo các quan hệ chính trị - xã hội phục vụ
con người. Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển như vũ bão thì
hình thức hoạt động thực tiễn này ngày càng đóng vai trò quan trọng, nó góp phần đẩy
nhanh sự tiến bộ xã hội.
Ví dụ: Con người nghiên cứu cơ chế hoạt động của virus corona để điều chế ra
vaccine ngừa Covid -19 tiêm chủng cho con người.
Ba hình thức thực tiễn trên có quan hệ biện chứng, tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn
nhau. Trong đó, sản xuất vật chất đóng vai trò quan trọng, quyết định hai hình thức thực tiễn
còn lại.

2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

2.1. Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức

2.1.1. Thực tiễn là cơ sở của nhận thức


Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu trúc; tính chất và các mối quan
hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối tượng. Hoạt động thực tiễn bổ sung và
điều chỉnh những tri thức đã được khái quát. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và
khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức.
Chính nhu cầu giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác động trực tiếp vào
đối tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Chính sự tác động đó đã làm cho các đối tượng
bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và các quan hệ khác nhau giữa chúng đem lại cho
con người những tri thức, giúp cho con người nhận thức được các quy luật vận động và phát
triển của thế giới. Trên cơ sở đó hình thành các lý thuyết khoa học.
Ví dụ 1: Sự xuất hiện học thuyết Macxit vào những năm 40 của thế kỷ XIX cũng bắt nguồn từ
hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp
tư sản lúc bấy giờ.
Ví dụ 2: Nhờ việc quan sát chiếc lá trên mặt nước người ta sáng tạo ra con thuyền.

25
Ví dụ 3: Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn con người cần phải “đo đạc diện tích và đo lường
sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí” mà toán học đã
ra đời và phát triển
Do đó, nếu xa rời thực tiễn, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở hiện thực
nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình. Cũng vì thế, chủ thể nhận thức không
thể có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới nếu nó xa rời thực tiễn
2.1.2. Thực tiễn là động lực của nhận thức
Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng phản ánh nhạy
bén,chính xác, nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực phản ánh của con
người đối với tự nhiên. Những tri thức được áp dụng vào thực tiễn đem lại động lực kích
thích quá trình nhận thức tiếp theo
Thực tiễn sản xuất vật chất và cải biến thế giới đặt ra yêu cầu buộc con người phải nhận thức
về thế giới
Thực tiễn làm cho các giác quan, tư duy của con người phát triển và hoàn thiện, từ đó giúp
con người nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về thế giới.
Ví dụ 1: Thực dân Pháp bóc lột nhân dân ta dã man, hàng triệu người dân Việt Nam lúc bấy
giờ bị chết đói. Thực tiễn đó đã đặt ra nhiệm vụ phải giải phóng dân tộc, đánh đuổi thực dân
Pháp
Ví dụ 2: Việc học tập đặt ra yêu cầu học sinh phải giải bài tập và học kiến thức mới, khó. Khi
giải quyết được những bài tập khó đó thì nhận thức của học sinh sẽ được nâng cao hơn
Ví dụ 3: Trong thời kỳ dịch bệnh covid-19 hoành hành, các nhà khoa học phải nghiên cứu
tìm ra các loại vaccine để phòng chống, kiểm soát dịch bệnh (nhận thức được sự nguy hiểm
của dịch bệnh để chế tạo ra vaccine)

2.2. Thực tiễn là mục đích của nhận thức


- Mục đích cuối cùng của nhận thức là giúp con người hoạt động thực tiễn nhằm cải
biến thế giới. Nhận thức không chỉ thỏa mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu
cầu nâng cao năng lực hoạt động để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng của con người. Thực tiễn luôn vận động, phát triển, nhờ đó, thực tiễn thúc
đẩy nhận thức vận động, phát triển theo.
- Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức
mạnh của mình, sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa. Bằng thực tiễn mà kiểm
chứng nhận thức đúng hay sai, khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực tiễn phát triển
và ngược lại.
VD1: Mục đích bác sĩ, nhà nghiên cứu không ngừng tìm kiếm để tìm ra vaccine là để chữa
trị, phòng chống dịch Covid-19.
VD2: Mục đích mỗi người nên tìm hiểu giá trị dinh dưỡng trong các loại thực phẩm là để có
thể chọn mua những thực phẩm giàu dinh dưỡng và vitamin, tốt cho sức khoẻ của họ.
2.3 Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý

26
- Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó
phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại. Như vậy, thực tiễn là thước đo chính xác
nhất để kiểm tra tính đúng đắn của tri thức, xác nhận tri thức đó có phải là chân lý hay
không.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn một cách biện chứng, tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối,
vừa có tính tương đối.
+ Tính tuyệt đối ở chỗ thực tiễn là cái duy nhất là tiêu chuẩn khách quan để
kiểm nghiệm chân lý, ngoài ra không có cái nào khác. Chỉ có thực tiễn mới có
khả năng xác định cái đúng, bác bỏ cái sai. Ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác
định được chân lý.
+ Tính tương đối ở chỗ thực tiễn ngay một lúc không thể khẳng định được cái
đúng, bác bỏ cái sai một cách tức thì. Hơn nữa, bản chất hiện thực luôn vận
động, phát triển liên tục. Thực tiễn có thể phù hợp ở giai đoạn lịch sử này
nhưng không phù hợp ở giai đoạn khác.
VD1: Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước đã chứng minh đường lối CM miền Nam
do Đảng đề ra hoàn toàn đúng đắn.
VD2: Nhà bác học Galileo Galilei qua nhiều thí nghiệm đã tìm ra định luật về sức cản không
khí.
3. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề đó đối với vấn đề học tập của sinh viên hiện
nay
=> Việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, học phải đi đôi với hành vì nhờ có thực
tiễn mà bản chất của nhận thức được làm rõ. Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức
và để vận dụng vào thực tiễn. Xa rời thực tiễn tới bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc,
quan liêu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh: Học để hành, học với hành phải đi đôi. Học mà không
hành thì học vô ích, hành mà không học thì hành không trôi chảy.
Thực tiễn nâng cao chất lượng học tập, nâng cao nhận thức của sinh viên
+ trải nghiệm thực tế
+ bằng chứng để kiểm chứng chân lý
- Tuy nhiên, không được tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn, lý thuyết và thực tiễn
phải luôn gắn liền với nhau, tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa
thực dụng (sự sống trên hành tinh khác) (chọn ngành nghề: IT sa thải hàng loạt)
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính tương đối và cũng có tính tuyệt đối.
Tuyệt đối ở chỗ thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý, thực tiễn
có khả năng xác định cái đúng, bác bỏ cái sai. Nhưng bên cạnh đó, thực tiễn cũng có
tính tương đối. Nó Thể hiện bằng việc ta không thể khẳng định được cái đúng, bác bỏ
cái sai một cách tức thì.Thêm vào đó, thực tiễn không đứng yên một chỗ mà biến đổi
và phát triển liên tục, nên nó không cho phép người ta hiểu biết bất kỳ một cái gì hóa
thành chân lý vĩnh viễn.Ví dụ: Các nền văn hóa tiền hiện đại đưa ra các quan điểm về
Trái Đất, người xưa cho rằng Trái Đất hình phẳng dẹt như một chiếc đĩa, được bao
bọc uốn cong giống như cái bát của bầu trời. Đến thế kỷ thứ 4 TCN, nhà học giả Hy
Lạp Aristotle sau khi quan sát bóng của quả cam theo nhiều hướng đã tổng kết rằng
trái đất có hình tròn. Nhưng vào những khoảng thời gian tiếp theo, nhiều quan điểm
về hình dạng của Trái Đất lại được đưa ra. Viện Hàn lâm khoa học Paris sau khi tiến

27
hành đo các đường kinh tuyến, lại cho rằng Trái Đất tuôn dài ở hai cực, nghĩa là giống
với hình quả dưa. Sau đó, Newton và C. Huygens cho rằng Trái Đất hơi dẹt ở hai đầu
và có hình dạng giống trái táo. Và hình dáng thực sự của Trái Đất chỉ được xác định
thực sự khi các vệ tinh được ra đời, ta kết luận rằng Trái Đất thuôn dài ở cực Bắc và
dẹt ở cực Nam. Trái Đất không phải hình tròn, cũng không phải hình elip, hình cầu
hay giống một quả táo, quả dưa nào cả. Do tính chất lồi lõm của nó trên bề mặt nên
người ta thống nhất hình dạng của nó bằng một thuật ngữ “Geoid” hay còn gọi là “địa
cầu”Những kết luận về hình thù Trái Đất được đưa ra trong suốt tiến trình phát triển
về mặt khoa học của con người, nếu xét ở thời điểm đó được xem như tuyệt đối.
Nhưng khi mọi thứ pháttriển, những chân lý đó không còn nữa mà thay vào đó là
những chân lý khác, được kiểm nghiệm một cách rõ ràng hơn. Đó chính là sự tương
đối của thực tiễn. Và có lẽ sau này,người ta sẽ đưa ra những dẫn chứng để chứng
minh về một hình dạng khác của Trái Đất,điều đó không thể biết trước được.Vì vậy,
ta không nên tuyệt đối hóa thực tiễn, nó sẽ dẫn ta rơi vào chủ nghĩa thực dụng.
Lênin: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý
luận về nhận thức”
- Cần phải có quan điểm thực tiễn: nắm rõ chương trình học và phải thấy rõ khuynh
hướng phát triển của chuyên ngành theo học trong thời gian sau đó, yêu cầu của xã
hội đối với chuyên ngành đang học tập, nghiên cứu là gì?
=> hoàn thiện bản thân, nâng cao tri thức cho phù hợp với nhu cầu xã hội
từ thực tiễn về sự đo đạc ruộng đất, đo lường vật thể mà con người bắt đầu có tri thức
về toán học và nếu không có những nhu cầu thực tiễn về sự cân đo đong đếm, thực
nghiệm thì sẽ không hình thành nên toán học, con người không thể tự tạo ra các công
thức, các định lực nếu những công thức, định luật ấy không được kiểm nghiệm qua
thực tiễn
- Không ngừng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để trau dồi vốn kiến thức của bản thân
(sau những lần thuyết trình)(đi thực tập) vì thực tiễn là mục đích của nhận thức

Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Liên hệ vấn đề đó đối với vấn đề phát triển lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

LIÊN HỆ VỚI VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY:

1. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và sự vận dụng quy luật này vào thực tiễn tại Việt Nam.
-> “Sự phù hợp của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất là trạng thái mà ở đó các yếu
tố cấu thành quan hệ sản xuất tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển. Cả 3 mặt
của quan hệ sản xuất tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa người lao động và
tư liệu sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất sẽ thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển.”

28
Thực tiễn:
+ Lực lượng lao động (người lao động) nước ta vẫn đang không ngừng được cải tiến
về cả chất lượng và số lượng từ sau năm 1986 cho tới nay: Ước tính, mỗi năm nước ta
có thêm khoảng 1 triệu lao động; đội ngũ trí thức đặc biệt là số trí thức có trình độ
thạc sĩ, tiến sĩ tăng nhanh;...
+ “Nhưng trạng thái phù hợp sẽ đến giai đoạn không phù hợp, do sự tăng lên không
ngừng của lực lượng sản xuất.” Mác viết: Có một sư vận động tăng lên không ngừng
trong những lực lượng sản xuất và có một sự vận động phá hoại không ngừng trong
những quan hệ sản xuất.” “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực
lượng sản xuất vật chất của xã hội sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có,
trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển.”

Thực tiễn:
+ Một số nhà khoa học và học giả cho rằng, kinh tế Việt Nam vẫn chưa thật sự bứt
phá đi lên. Nguy cơ tụt hậu và tụt hậu ngày càng xa so với các nước đang hiện hữu.
Nguyên nhân cốt lõi, căn bản là lực lượng sản xuất của Việt Nam vẫn còn lạc hậu,
chưa phát triển đúng tầm, xét cả về trình độ người lao động lẫn tư liệu sản xuất:
+ Trong nước, việc đào tạo, nuôi dưỡng, phát triển lực lượng lao động có tay nghề cao
còn rất hạn chế.
+ Từ chỗ là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất trở thành
xiềng xích của các lực lượng sản xuất, khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách
mạng xã hội.”

Thực tiễn:
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã tiến hành chủ trương đổi mới phương thức
quản lý kinh tế.
=> Cột mốc quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy của Đảng về xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, thể hiện qua nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
+ Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hóa nhằm phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời đã ban hành nhiều
chính sách và pháp luật để hoàn thiện các mặt của quan hệ sản xuất theo định hướng
xã hội chủ nghĩa và cùng với đó, không thể thiếu là sự năng động của nhân dân.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự đổi mới:


- Như C.Mác dự báo: Trình độ của lực lượng sản xuất càng phát triển cao thì việc sản
xuất ra sản phẩm hàng hóa càng ít phụ thuộc vào số lượng lao động và thời gian lao
động đã chi phí, mà phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học - công nghệ và sự ứng
dụng thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất.

KẾT LUẬN:
- Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã được
nhà nước ta áp dụng cho sự phát triển của đất nước ta nói chung, và nền kinh tế Việt
Nam nói riêng và đạt được những thành tích đáng kể: sự tăng lên về năng suất, chất

29
lượng sản phẩm, khiến tổng sản phẩm trong nước mỗi năm tăng cao; đẩy mạnh xuất,
nhập khẩu giúp nước ta vươn lên thành một trong những nước xuất khẩu lương thực
hàng đầu.
- Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta vẫn chưa thực sự bứt phá bởi những “xiềng xích”
như trình độ lao động chưa cao, kỹ thuật công nghệ chưa hiện đại và bắt kịp xu hướng
thời đại, đặc biệt là trong thời đại 4.0,... và bởi nhà nước ta vẫn chưa có sự “đổi mới”
tối ưu, rõ rệt trong các chính sách và đường lối, phương hướng phát triển.

Phương hướng vận dụng tối ưu và phát triển từ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của C. Mác với thực trạng nền kinh tế Việt
Nam hiện nay.

1. Với “người lao động”


+ Thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản: “một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống
bằng việc bán lao động của mình”, là “giai cấp những người hoàn toàn không có của”,
là “họ buộc phải bán lao động của mình cho nhà tư bản để đổi lấy tư liệu sinh hoạt
cần thiết cho cuộc sống của mình”.
Ngày nay:
+ Trong rất nhiều nhà máy, xí nghiệp, số lượng nhân lực khoa học - công nghệ tham
gia trực tiếp vào quá trình sản xuất chiếm tỷ lệ ngày càng cao, vượt trội hơn hẳn so
với số lượng lao động làm việc cơ bắp thông thường.
=> Sự thay đổi dần tỷ trọng của lao động phổ thông và lao động có trình độ cao.
=> Việt Nam cần biến nhiệm vụ trí thức hóa công nhân trở thành đòi hỏi bắt buộc.

2. Lực lượng sản xuất phát triển một cách có chọn lọc: không chỉ chinh
phục giới tự nhiên mà còn phải thích nghi với giới tự nhiên
+ Thay vì phát triển lực lượng sản xuất tự phát, rồi bằng mọi giá như trước kia, ngày
nay cần phải phát triển lực lượng sản xuất một cách chọn lọc, bởi mối quan hệ
giữa con người và tự nhiên ngày càng trở nên xung khắc, biểu hiện qua những thiên
tai, lũ lụt, biến đổi khí hậu..., và “lực lượng sản xuất là khái niệm thể hiện không chỉ
hoạt động đấu tranh mà còn thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa con người và giới tự
nhiên”.
=> Việt Nam cần có các chính sách, biện pháp bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên hợp
lý để không chỉ phát triển liên tục mà còn phát triển bền vững.

3. Hiện đại hóa, toàn cầu hóa lực lượng sản xuất
+ Ở thời của C. Mác, ông đã đề cập đến xu hướng phát triển tất yếu của nền sản xuất là
“thiết lập mối quan hệ ở khắp mọi nơi trên thế giới”.
+ Vì vậy, đầu ra của lực lượng sản xuất hiện đại không còn là sản phẩm riêng của lao
động ở một quốc gia nữa, mà là sản phẩm mang tính toàn cầu.
=> Lực lượng sản xuất hiện đại trở thành một yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc đẩy
mạnh quá trình toàn cầu hóa.
=> Việt Nam cần đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất ngang tầm với yêu cầu của
thời đại, đặc biệt đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học-

30
công nghệ.

Nguồn gốc, kết cấu của giai cấp. Tính tất yếu và vai trò của đấu tranh
giai cấp. Đặc điểm của đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam

Đấu tranh giai cấp có tính tất yếu, tức là:


1, Đấu tranh giai cấp là tất yếu do sự đối lập về lợi ích căn bản không thể điều hoà
được của các giai cấp
2, Đấu tranh giai cấp là đấu tranh giữa các tập đoàn người to lớn có lợi ích căn bản
khác nhau trong một phương thức sản xuất xã hội nhất định
3, Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng lao động bị áp
bức, bóc lột chống lại giai cấp áp bức, bóc lột nhằm lật đổ sự thống trị của chúng.
Tuy nhiên đấu tranh giai cấp không còn là hiện tượng lịch sử vĩnh viễn. Cuộc đấu
tranh giữa các giai cấp trong lịch sử tất yếu phát triển là cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản. Đó là cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng của loài người khi giai cấp này đứng lên
lật đổ chế độ cũ và xây dựng nền chuyên chính của mình-xã hội cộng sản chủ nghĩa
-Trong đấu tranh giai cấp, liên minh giai cấp là tất yếu nhằm tập hợp và phát triển lực
lượng. Đó là sự liên kết giữa các giai cấp khác nhau trên cơ sở chung những lợi ích cơ
bản. Liên minh giai cấp là sách lược tạm thời khi dựa trên những lợi ích trước mắt
không căn bản và là chiến lược lâu dài khi các giai cấp thống nhất về lợi ích căn bản.
Ví dụ: Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn và sáng
tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp. Theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, liên minh công - nông - trí thức là một tất yếu lịch sử khách quan, được chế
định bởi các cơ sở xã hội hiện thực và được hiện thực hóa qua đường lối tập hợp lực
lượng của Đảng Cộng sản. Chủ trương của Đảng nhằm tập hợp lực lượng dân tộc
trong một liên minh trên cơ sở lợi ích căn bản thống nhất là độc lập nhằm chống lại kẻ
thù nguy hiểm nhất của dân tộc là chủ nghĩa đế quốc. Đối với quan hệ giữa giai cấp
lãnh đạo và lực lượng cách mạng đông đảo nhất trong dân cư, Hồ Chí Minh xác định:
“Chỉ có giai cấp công nhân lãnh đạo thì nông dân mới được giải phóng. Cũng chỉ có
thắt chặt liên minh với nông dân thì giai cấp công nhân mới lãnh đạo cách mạng đến
thắng lợi.” Trải qua nhiều thời kỳ, liên minh công nông trí trưởng thành và ngày một
mở rộng: mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương (36-38). Mặt trận Dân
chủ Đông Dương (38-40), Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế (40-41), Mặt trận
Việt Minh (41),... và đến nay là Mặt trận Tổ quốc VN đang và sẽ tiếp tục phát huy
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
4, Vai trò của đấu tranh giai cấp: là động lực trực tiếp, quan trọng của lịch sử

31
T1, đấu tranh giai cấp kết thúc khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất được giải quyết
T2, Đấu tranh giai cấp lật đổ chính quyền cũ, xác lập chính quyền mới, cùng với quá
trình đó kết cấu xã hội-giai cấp cũ bị xoá bỏ, kết cấu-xã hội mới được hình thành và
làm cho xã hội phát triển
Gthich: Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn xảy ra khi các giai cấp có lợi ích đối lập
nhau trong một phương thức sản xuất. Ví dụ như mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản
trong quan hệ SX TBCN. Về mặt sản xuất, so với chế độ phong kiến thì chế độ tư bản
là một tiến bộ. Chủ nghĩa tư bản tận dụng những tiến bộ trong công nghệ, mang máy
móc vào các công xưởng, nhà máy, làm cho năng suất lao động tăng gấp nhiều lần mà
người ta lại ít khó nhọc hơn. Thế nhưng nó trở thành xiềng xích kìm hãm giai cấp vô
sản khi họ bị bóc lột nặng nề trên nền lợi ích của tư sản. “Có mâu thuẫn ắt có đấu
tranh”, khi ấy một giai cấp đại biểu cho các lực lượng sản xuất bị áp bức đứng lên xoá
bỏ quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ SX mới nhằm tạo địa bàn cho sự phát triển
của lực lượng sản xuất ấy. Khi điều kiện kinh tế thay đổi sẽ dẫn đến những thay đổi
trong kiến trúc thượng tầng, đi tới hình thái xã hội tiến bộ hơn, phù hợp với sự phát
triển của xã hội: từ TBCN->XHCN. Có thể nói XHCN là phủ định của TBCN vì nó kế
thừa những tiến bộ của quan hệ sản xuất trước đó (công nghệ, KH-KT, LLSX tiên
tiến) song nó còn giải phóng con người khỏi mọi ách bóc lột về kinh tế và nô dịch về
tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện trên nguyên tắc phân phối
theo lao động.

T3, đấu tranh giai cấp tái tạo giai cấp cách mạng để giai cấp đó có đủ năng lực lãnh
đạo xã hội
T4, thông qua đấu tranh giai cấp thì các lĩnh vực văn hoá tư, tưởng, nghệ thuật, đạo
đức cũng phát triển phù hợp với sự tiến bộ của xã hội
VD: Trong quá trình vận động và phát triển, đấu tranh, bản thân giai cấp vô sản VN đã
có sự trưởng thành nhất định về nhận thức, tư tưởng chính trị, lối sống nhằm đáp ứng
yêu cầu lịch sử. Việc xây dựng nhà nước theo định hướng CNXH cũng là quá trình
từng bước triển khai, thay đổi, đồng bộ hoá của các cấp bộ, ngành lãnh đạo thông qua
các phong trào cách mạng dân tộc dân chủ, qua các Hội nghị TW Đảng, Đại hội Đại
biểu toàn quốc cả trong thời chiến và thời bình. Đến nay, nhà nước trong CNXH là
nhà nước dân chủ kiểu mới, thể hiện bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích,
quyền lực và ý chí của nhân dân lao động. Nhân dân được làm chủ thông qua các hình
thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp, thể hiện tính ưu việt về chế độ chính trị
của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng. Trên cơ sở ấy, nhân dân có điều kiện tham
gia vào các lĩnh vực phù hợp, từ kinh tế, văn hoá, nghệ thuật, thể thao,.. dưới sự tôn
trọng và bảo vệ của luật pháp.
Đặc điểm đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam hiện nay

32
- Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc và
từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và thống nhất, khi cách mạng dân
tộc - dân chủ nhân dân đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Chúng ta có thể đưa ra một kết luận rằng: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam hiện nay đấu tranh giai cấp có tính tất yếu do chính các đặc điểm kinh
tế -xã hội của thời kỳ quá độ quy định, với mục tiêu cuối cùng là xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội chưa hoàn thành. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
quá độ gián tiếp từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất còn thấp, tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
*Điều kiện mới:
- Cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay được diễn ra trong điều kiện mới với
những thuận lợi song cũng có không ít các khó khăn.
· Những biến đổi to lớn về kinh tế - xã hội, cơ cấu xã hội - giai cấp, địa vị
của các giai cấp trong xã hội => tạo ra so sánh lực lượng có lợi cho sự
nghiệp cách mạng: điển hình như giai cấp công nhân Việt Nam trở thành
giai cấp lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và có sự phát triển mạnh mẽ cả về số
lượng và chất lượng hay khối liên minh giai cấp mới công nhân - nông dân -
trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam được củng cố vững
chắc và trở thành nền tảng của chế độ xã hội mới.
· Sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 30 năm qua đã đạt được những thành tựu
to lớn và có ý nghĩa lịch sử, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục phát
triển. Những thành quả cách mạng và các tiền đề kinh tế - vật chất đã tạo
dựng được là cơ sở để thực hiện thắng lợi mục tiêu của cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa, điển hình có thể kể đến Cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại; xu hướng toàn cầu hoá; hội nhập và hợp tác quốc tế, khu vực
phát triển đang tạo ra cho cách mạng Việt Nam không chỉ thời cơ, vận hội
mà còn là các thách thức trên con đường phát triển của mình. Vậy đó là
những thách thức nào??
· Trước hết, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến
hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân
quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam.
· Bên cạnh đấy, Sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội thế giới và sự điều
chỉnh để thích nghi của chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng như là sự điều chỉnh
chiến lược của các nước lớn đã có tác động không nhỏ đến cuộc đấu tranh
giai cấp ở Việt Nam hiện nay
*Nội dung mới:
- Nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay là thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

33
Về thực chất đây là cuộc đấu tranh giữa các nhân tố thúc đẩy đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa với các nhân tố tác động cản trở đất nước theo mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
- Để thực hiện thắng lợi mục tiêu trên nhân dân Việt Nam phải thực hiện thắng lợi
hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ vững chắc Tổ quốc mới tạo ra được môi
trường và điều kiện thuận lợi để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Có tạo lập đầy
đủ cơ sở kinh tế - vật chất, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mới có điều kiện để
nâng cao sức mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, tạo lập cơ sở
vật chất - kỹ thuật để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ trung tâm,
xuyên suốt của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
*Hình thức mới:
- Đa dạng, phong phú là 2 từ khóa tiêu biểu cho các cuộc đấu tranh giai cấp trong
thời kỳ này đồng thời các cuộc đấu tranh cũng đòi hỏi phải sử dụng tổng hợp và kết
hợp các hình thức, biện pháp linh hoạt: bằng hành chính và giáo dục; giữa cải tạo và
xây dựng; sử dụng các hình thức kinh tế trung gian, quá độ; phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mở cửa và hội nhập để tranh thủ các vận hội,
thời cơ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội
với tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh.v.v...
- Để thực hiện thắng lợi nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay,
đòi hỏi khách quan phải giải quyết tốt các phương hướng và nhiệm vụ cụ thể của
sự nghiệp cách mạng hiện nay, là nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng; đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước; phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc
phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
giữ vững ổn định chính trị - xã hội đất nước.
*Kết luận:
- Như vậy, cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, được diễn ra trong điều kiện mới, với nội dung và hình thức mới với tính chất
phức tạp, khó khăn và lâu dài.

Nguồn gốc, bản chất, đặc trưng, chức năng của nhà nước. Tính tất yếu
và đặc điểm của nhà nước vô sản. Đặc trưng của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quan điểm của Đảng về xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quan điểm của Đảng về xây dựng xã hội chủ nghĩa pháp quyền Việt Nam

I . Quan điểm và nhiệm vụ

34
- Hồ Chí Minh cho rằng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm
những đặc trưng cơ bản:

o Một là Nhà nước Việt Nam mới là nhà nước quyền lực thuộc về nhân dân.
Đó là nhà nước mà trong đó các quyền tự do của con người được ghi nhận
được đảm bảo

o Hai là, Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân được thể hiện ở hai
phương diện:

§ Nhà nước ta chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

§ Nhà nước ta mang tính nhân dân đại diện cho ý chí nguyện vọng của
nhân dân dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nòng cốt là
liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức, do
giai cấp công nhân lãnh đạo

§ Nhà nước Việt Nam quản lý xã hội bằng Hiến Pháp và pháp luật

- Cùng với sự phát triển nhận thức lý luận, tổng kết kinh nghiệm xây dựng nhà
nước, quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được
hình thành và phát triển. Nghị quyết Trung ương 7 ( khóa I), đã nhấn mạnh:

o Đảng Cộng sản đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất dân tộc Việt Nam
không phải bằng cách quỵ lụy mặc cả với để quốc, xin đế quốc ban cho
một ‘’Hiến pháp’’. Trái lại, bằng cách liên hiệp tất cả các dân tộc, các giai
cấp các đảng phái phản đế để đánh đổ đế quốc làm cách mạng giải phóng
dân tộc, Đảng Cộng sản luôn chú ý bênh vực quyền lợi của vô sản quần
chúng lao động và Đảng sẽ lãnh đạo cuộc cách mạng để giải phóng giai
cấp vô sản và quần chúng lao động

- Đồng thời Nghị quyết Trung ương 7 ( khóa I), đề ra nhiệm vụ: ‘’ Ban bố Hiến
pháp dân chủ, ban bố quyền tự do dân chủ cho nhân dân : Tự do ngôn luận, tự do tư
tưởng, tự do tín ngưỡng, tự do hội họp, ….

II. Giai đoạn 1930- 1945

- Trong giai đoạn 1930-1945, Đảng đề ra mục tiêu xây dựng và từng bước hoàn
thiện nhà nước kiểu mới, nhà nước công – nông, nhà nước được xây dựng dựa trên Hiến
pháp dân chủ có tính nhân văn sâu sắc. Sau khi giành chính quyền vào tháng 8/1945,
Đảng và nhân dân ta đã bắt tay xây dựng Nhà nước Việt Nam mới, trong đó có nhiều yếu
tố phấp quyền thể theo tư tưởng Hồ Chí Minh

- Tại Đại hội II của Đảng, khi bàn về ‘’ Chính quyền nhân dân’;, chính cương của
Đảng Lao động Việt Nam đã nêu lên ba quan điểm cơ bản:

35
o Thể hiện chính quyền dân chủ nhân dân nghĩa là công nhân nông dân tiểu
tư sản thành thị tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc.

o Nguyên tắc tổ chức của chính quyền là dân chủ tập trung, lấy liên minh
công nhân nông dân lao động trí thức làm nền tảng và do giai cấp công
nhân lãnh đạo.

o Nhà nước cách mạng Việt Nam sau năm 1945 đã phải trải qua 30 năm lãnh
đạo tổ chức các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược. Vì
vậy nhận thức về Nhà nước pháp quyền chưa được bổ sung hoàn thiện

III. Từ năm 1986 đến nay

- Từ năm 1986, quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền ngày càng được
hoàn chỉnh với việc đẩy mạnh cải cách, mở cửa, hội nhập quốc tế, hướng đến việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: ‘’ Nhà nước ta là công cụ của chế độ làm
chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, … Trong thời kỳ quá độ , đó là nhà nước chuyên chính thực
hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa . Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chức năng của Nhà
nước ta là thể chế hóa bằng pháp luật quyền hạn lợi ích nghĩa vụ của nhân dân lao động
và quản lý kinh tế, xã hội theo pháp luật, quản lý nhà nước bằng pháp luật chứ không phải
đạo lý.

- Đại hội VII của Đảng đã đề ra chủ trương tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước ; sửa
đổi Hiến pháp, cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, sửa đổi cơ cấu tổ chức và
phương thức hoạt động của Chính phủ, của chính quyền địa phương các cấp

o Sự ra đời của Hiến pháp năm 1992 là bước tiến quan trọng trong nhận thức
về nhà nước pháp quyền, nhưng khái niệm Nhà nước pháp quyền chưa
được đề cập trong hiến pháp này.

o Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì ( Khóa VII), lần đầu tiên
Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ ‘’ Nhà nước pháp quyền ‘’ và nêu cụ
thể, toàn diện những quan điểm nguyên tắc, nội dung xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân.

- Nghị quyết Trung ương 8 ( khóa VII) nêu 5 quan điểm cơ bản cần nắm vững trong
quá trình xây dựng Nhà nước:

o Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân lấy liên
minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm
nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ
của nhân dân giữ nghiêm kỷ cương xã hội chuyên chính với mọi hành
động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân

36
o Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền : lập pháp, hành
pháp, tư pháp

o Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

o Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục
nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa

o Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.

- Đại hội VIII của Đảng , tiếp tục khẳng định các quan điểm về xây dựng nhà nước
pháp quyền như trong Nghị quyết Trung ương 8 ( Khóa 7).Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương Đảng ( Khóa VIII) nhấn mạnh 3 yêu cầu

o Tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân qua
các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp

o Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong sạch vững mạnh và hoạt động có hiệu lực hiệu quả

o Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, nhấn mạnh các yêu
cầu có quan hệ chặt chẽ với nhau dựa trên nền tảng chung là xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân thực hiện đại
đoàn kết dân tộc mà nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công nhân nông
dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.

- Ngày 18/02/1998. Bộ chính trị( khóa VIII) đưa ra chỉ thị số 30 CT/TW về xây
dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đáp ứng việc củng cố và hoàn thiện chính
quyền , thực hiện dân chủ theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Các quan điểm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được Đảng ta nêu
ra đã định hình bộ khung lý luận về Nhà nước pháp quyền Việt Nam với những nội dung
cụ thể toàn diện.

- Quan điểm về Nhà nước pháp quyền tiếp tục được bổ sung hoàn thiện tại Đại hội
IX của Đảng khi xác định : ‘’Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát
huy dân chủ, tăng cường pháp chế ‘’ với các nội dung : ‘’ Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng’’ ; ‘’ Cải cách thể chế và phương thức
hoạt động của Nhà nước’’; ‘’ Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường
pháp chế’’.

- Để hoàn thành một bước nhiệm vụ trên, Ban chấp hành Trung ương ( Khóa X ) đã
ban hành nghị quyết trung ương 4 về đổi mới , kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt

37
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Như vậy theo quan điểm của Đảng ta, xây
dựng Nhà nước Pháp quyền phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và gắn chặt với việc đổi
mới tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, đồng thời gắn bó chặt chẽ với đẩy mạnh cải
cách trên các lĩnh vực cũng như việc đấu tranh phòng chống tham nhũng.

III. Kết luận, quan điểm của Đảng về xây dựng xã hội chủ nghĩa pháp quyền Việt
Nam

- Như vậy từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặt lên hàng đầu
những quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Quá trình đổi mới tư duy, bổ sung, hoàn thiện cả về lý luận cũng
như thực tiễn về xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta đã được xác định ngày càng rõ
hơn. Đồng thời, với việc xây dựng nhà nước, Đảng ta coi trọng việc xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật – phương tiện quan trọng trong quản lý nhà nước. Những thành
quả to lớn mà Việt Nam đã đạt được trong thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền
trong những năm qua đã góp phần hoàn thiện hơn nữa những quan điểm lý luận về Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

ĐỀ CƯƠNG 15 CÂU

Câu 1: Sản xuất vật chất là gì? Phân tích vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát
triển của xã hội?
A. Định nghĩa
Cách 1:
-Các nhà triết học duy tâm giải thích nguyên nhân, động lực phát triển của xã hội là từ ý thức tư tưởng
của con người hay là lực lượng siêu nhiên nào đó. Các nhà duy vật trước Mác cũng giải thích một
cách duy tâm về sự phát triển của xã hội.
-Riêng Mác thì cho rằng sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và của xã hội loài
người đó là cái để phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa xã hội loài người với loài vật, đó là quá trình
hoạt động có mục đích và không ngừng sáng tạo của con người. Sự sản xuất xã hội bao gồm: Sản xuất
vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra chính bản thân con người. Ba quá trình này không tách rời
nhau trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội và xét đến cùng,
quyết định đến cùng toàn bộ sự vận động đời sống xã hội.
→Từ đó ta đi đến định nghĩa: Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của tự nhiên để tạo ra
của cải vật chất xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Cách 2:
-Sản xuất: hoạt động không ngừng sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần nhằm mục đích thỏa
mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
-Sự sản xuất xã hội: sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực, bao gồm 3 phương diện không tách
rời nhau đó là:
● Sản xuất vật chất: quá trình mà trong đó con người sử dụng công cụ lao động tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự
nhiên để tạo ra của cải xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con
người.
● Sản xuất tinh thần: sáng tạo ra các giá trị tinh thần nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại,
phát triển của con người, xã hội
● Sản xuất ra bản thân con người:

38
○ Phạm vi cá nhân, gia đình: sự sinh đẻ, nuôi dạy con cái để duy trì nòi giống
○ Phạm vi xã hội: sự tăng trưởng dân số, phát triển con người với tư cách là
thực thể sinh học – xã hội
→Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, quyết định toàn bộ
sự vận động, phát triển của đời sống xã hội.

B. Vai trò
Theo quan điểm duy vật lịch sử, sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát
triển của con người và xã hội loài người, là hoạt động nền tảng làm phát sinh phát triển những mối
quan hệ của con người. Nó chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài
người.
- Khác với các quan điểm duy tâm về lịch sử, C.Mác đã xuất phát từ “ Con người hiện thực” và đi đến
kết luận rằng : “... tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người và do đó là tiền đề của mọi lịch sử
đó là: người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử, nhưng muốn sống được thì
trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi
lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản
thân đời sống vật chất…”. Cũng vì vậy, có thể khẳng định: con người với tư cách “Người” được bắt
đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của
mình.
- Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội,
đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật chất không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản
xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã
hội từ thấp đến cao. Như vậy, sự vận động phát triển của toàn bộ đời sống xã hội, suy đến cùng có
nguyên nhân từ tình trạng phát triển của nền sản xuất xã hội. Do đó, để giải thích và giải quyết đúng
đắn các vấn đề của đời sống xã hội thì cần phải tìm nguyên nhân cuối cùng của nó từ tình trạng phát
triển của nền sản xuất vật chất của xã hội đó, mà căn bản là từ trình độ phát triển phương thức sản
xuất của nó. Sản xuất vật chất không những là cơ sở cho mọi sự sinh tồn của xã hội mà còn là cơ sở
để hình thành nên tất cả các hình thức quan hệ xã hội khác như nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ
thuật,… Theo C.Mác “ việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính, mỗi một
giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó mà
người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật, và thậm chí cả những
quan niệm tôn giáo của con người ta”.
- Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội, không phải lúc nào sản xuất cũng ở trong trình
độ cũ mà nói chung là không ngừng tiến lên từ thấp đến cao, mỗi khi sản xuất đến giai đoạn mới cách
thức sản xuất cũng thay đổi theo, kỹ thuật được cải tiến, năng suất lao động được nâng cao các quan
hệ sản xuất đều biến đổi theo. Như chúng ta đã biết: trong quá trình tồn tại và phát triển của xã hội
loài người, con người luôn phải nỗ lực sản xuất để tạo ra của cải vật chất để phục vụ cuộc sống và
thúc đẩy sự phát triển trong xã hội.
- Từ thời nguyên thủy đến nay con người đã trải qua rất nhiều hình thức lao động từ thô sơ lạc hậu
nhưng qua quá trình biến đổi trong xã hội đến ngày nay con người đã sáng tạo ra được nhiều hình
thức lao động hết sức tinh xảo và hiện đại. Ở tất cả các hình thức lao động mà con người đã tạo ra đó
cũng chỉ nhằm mục đích biến đổi tự nhiên để tạo ra những sản phẩm xã hội phục vụ cho nhu cầu
chính yếu cho họ và nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Trong quá trình phát triển, loài người đã
vượt qua nhiều nấc thang lịch sử, cơ sở của việc chuyển từ nấc thang lịch sử này sang nấc thang lịch
sử khác, rồi cơ sở của tiến bộ xã hội là gì?
C.Mác và Ăngghen đã có một phát minh vĩ đại đó là: “sản xuất vật chất là cơ sở cho sự phát triển của
xã hội loài người” vì: Muốn sống trước hết con người phải có thức ăn, nhà ở và những của cải vật chất
khác.

39
- Những tư liệu sinh hoạt cho con người không có sẵn trong tự nhiên mà chúng được tạo ra thông qua
lao động của con người. Vì vậy sản xuất vật chất là cơ sở của tồn tại và phát triển của xã hội loài
người. Việc chuyển từ nấc thang này sang nấc thang khác của sự phát triển ấy trước hết gắn liền với
sự phát triển của quá trình sản xuất.
-Kết luận trên đây có ý nghĩa to lớn động viên sự hình thành giai cấp vô sản nói chung và kinh tế
chính trị của giai cấp vô sản nói riêng. Ngày nay ý nghĩa của các nhân tố xã hội và tinh thần ngày
càng được đề cao trong xã hội. Lĩnh vực không sản xuất vật chất phát triển nhanh chóng nhưng vai trò
của sản xuất vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội vẫn còn nguyên giá trị. Một dân
tộc, một đất nước sẽ bị diệt vong không phải trong một năm mà chỉ trong vòng một tuần nếu ngừng
sản xuất.
-Sản xuất vật chất không chỉ tạo ra sản phẩm xã hội cần thiết phục vụ cho nhu cầu của con người mà
nó còn tạo ra sản phẩm thặng dư. Sản phẩm cần thiết dùng để duy trì khả năng lao động và đào tạo thế
hệ lao động mới để thay thế những người mất khả năng lao động, rồi dùng để bù đắp những chi phí về
ăn, mặc, ở, để thỏa mãn các nhu cầu về văn hóa, xã hội và các nhu cầu kinh tế khác.
-Sản phẩm thặng dư là kết quả và cũng là nguồn gốc của tiến bộ xã hội, là điều kiện quyết định để
nâng cao mức sống của nhân dân và mở rộng khả năng phát triển của kinh tế xã hội trong tương lai.
Nó bắt nguồn từ trình độ của năng suất lao động tăng lên với quy cách là một quy luật kinh tế chung
cho các xã hội có trình độ sản xuất phát triển nhất định.
-Qua sự phân tích trên ta có thể kết luận rằng: Sản xuất vật chất có vai trò hết sức quan trọng. Nó có
thể tạo ra tư liệu sản xuất, tạo ra các mặt các quan hệ xã hội, rồi nó có thể cải biến tự nhiên - xã hội -
bản thân con người và cuối cùng nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
→Tóm lại, dù được xét trong toàn bộ lịch sử của sự hình thành và phát triển của xã hội loài người
hay trong giai đoạn lịch sử cụ thể thì sản xuất vật chất vẫn luôn đóng vai trò là cơ sở, là nền tảng
của sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Câu 2: Trong kết cấu của lực lượng sản xuất yếu tố nào giữ vai trò quyết định nhất? Tại sao?
A. Định nghĩa:
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất và năng
lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con
người và xã hội.
Về cấu trúc, lực lượng sản xuất được xem xét trên cả hai mặt, đó là mặt kinh tế - kỹ thuật (tư liệu sản
xuất) và mặt kinh tế - xã hội (người lao động). Lực lượng sản xuất chính là sự kết hợp giữa “lao động
sống” với “lao động vật hóa” tạo ra sức sản xuất, là toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản
xuất của xã hội ở các thời kỳ nhất định.
Như vậy, lực lượng sản xuất là một hệ thống gồm các yếu tố (người lao động và tư liệu sản xuất) cùng
mối quan hệ (phương thức kết hợp), tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức sản xuất) để cải biến giới tự nhiên,
sáng tạo ra của cải vật chất theo mục đích của con người. Đây là sự thể hiện năng lực thực tiễn cơ
bản nhất - năng lực hoạt động sản xuất vật chất của con người.

B. Vì sao?

40
Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò quyết định, bởi vì người lao
động là chủ thể sáng tạo và sử dụng công cụ lao động. Suy đến cùng, các tư liệu sản xuất chỉ là sản
phẩm lao động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc
và trình độ sử dụng của người lao động. Hơn nữa, trong quá trình sản xuất, nếu như công cụ lao động
bị hao phí và di chuyển dần giá trị vào sản phẩm, thi do bản chất sáng tạo của mình, trong quá trình
lao động người lao động không chỉ sáng tạo ra giá trị đủ bù đắp hao phí lao động, mà còn sáng tạo ra
giá trị mới lớn hơn giá trị bỏ ra ban đầu. Người lao động là nguồn gốc của mọi sáng tạo trong sản xuất
vật chất, nguồn gốc của sự phát triển sản xuất. Bên cạnh đó, người lao động là chủ thể của quá trình
sản xuất, quyết định tới mục đích, nhiệm vụ, phương hướng, quy mô, năng suất, hiệu quả... của quá
trình sản xuất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người
ngày càng tăng lên, đặc biệt là hàm lượng trí tuệ, do đó làm cho họ trở thành yếu tố quyết định của
lực lượng sản xuất.

Câu 3: Trong kết cấu của lực lượng sản xuất, yếu tố nào đông nhất, cách mạng nhất? Tại sao?
Trong kết cấu của lực lượng sản xuất, yếu tố đông nhất, cách mạng nhất là công cụ lao động. Công cụ
lao động giữ vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất cũng như lực lượng sản xuất vì công cụ lao động
nhân sức mạnh của con người trong quá trình chinh phục giới tự nhiên. Công cụ lao động càng phát
triển cao thì kỹ năng lao động của con người càng cao, nên trình độ phát triển của sản xuất đều do
trình độ phát triển của công cụ lao động quyết định. Sự phát triển công cụ sản xuất là thước đo trình
độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế với nhau.

Câu 4: Tại sao khoa học là lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội hiện nay? Cho ví dụ?
A. Lý giải:
Ngày nay, khoa học công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và trở thành yếu tố
trực tiếp của lực lượng sản xuất.
-Bằng những nghiên cứu khoa học, C. Mác đã đưa ra một phán đoán: “Sự phát triển của tư bản cố
định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến (wissen knowledge) đã chuyển hóa đến mức độ nào
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, do đó nó cũng là chỉ số cho thấy những điều kiện của chính quá
trình sống của xã hội đã phục tùng đến một mức độ nào sự kiểm soát của trí tuệ phổ biến và đã được
cải tạo đến mức độ nào cho phù hợp với quá trình ấy; những lực lượng sản xuất xã hội đã được tạo ra
đến mức độ nào cho phù hợp với quá trình ấy; những lực lượng sản xuất xã hội đã được tạo ra đến
mức độ nào không những dưới hình thức tri thức, mà cả như là những cơ quan thực hành xã hội trực
tiếp, những cơ quan trực tiếp của quá trình sống hiện thực”
-Theo luận điểm nói trên của C. Mác, tri thức khoa học đã làm cho tư bản cố định như nhà xưởng,
máy móc được dùng trong sản xuất chuyển hóa đến một mức độ nhất định nào đó thì trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Nói cách khác, tri thức khoa học được ứng dụng, được vật hóa thành máy
móc, thành công cụ sản xuất và được người lao động sử dụng trong quá trình sản xuất, do đó, nó trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp

-Khoa học đi vào hợp lý hoá quá trình tổ chức, quản lý sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Những
thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra bước phát triển nhảy vọt của đời sống
xã hội nói chung và lực lượng sản xuất nói riêng, làm biến đổi to lớn trong sản xuất tạo ra những
ngành sản xuất mới, hiện đại; những lĩnh vực kĩ thuật mũi nhọn; những phương pháp sản xuất mới…
đặc biệt là sự tác động trực tiếp của công nghệ số, công nghệ in 3D, Big Data, kết nối vạn vật với
Internet vạn vật, điện toán đám mây, robot tự động,... đã tạo nên sự bùng nổ trong mọi lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội, chuyển hóa toàn bộ thế giới thực thành thế giới số với tốc độ rất nhanh, quy
mô rất lớn, tích hợp nhiều lĩnh vực, tương tác đa chiều.

41
-Khoa học không phải là yếu tố lý thuyết đứng ngoài quá trình sản xuất vật chất, mà trở thành mặt bên
trong của hệ thống sản xuất vật chất. Tri thức khoa học được vật hóa, kết tinh, thâm nhập vào các yếu
tố của lực lượng sản xuất nhanh và hiệu quả như ngày nay. Những phát minh, sáng chế của khoa học
trong thời gian ngắn biến thành kỹ thuật, công nghệ, công cụ mới, tạo ra những vật liệu không có sẵn
trong tự nhiên.

B. Ví dụ
-Những năm qua, việc ứng dụng khoa học công nghệ vào các hoạt động giáo dục để cải tiến
phương pháp, hình thức và công cụ giảng dạy, học tập đã được phát triển khá rộng rãi. Điều
này đã được thể hiện rõ nét nhất trong thời gian chuyển việc dạy và học trực tiếp sang dạy và học trực
tuyến do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Trên cơ sở khai thác tối đa các ứng dụng KHCN, đặc biệt là
các phần mềm dạy học trực tuyến, như: Microsoft Teams, Zoom, Google Classroom,... đã giúp giáo
viên và học sinh đều tham gia một cách dễ dàng vào lớp học được mở trên hệ thống thông qua máy
tính, máy tính bảng, điện thoại thông minh có kết nối internet. Trong quá trình giảng dạy đó, giáo viên
có thể lựa chọn cho mình công cụ soạn bài điện tử, công cụ tạo bài kiểm tra … để trực tiếp giảng dạy
cho học sinh hoặc giao bài tập, lưu trữ bài giảng, tài liệu học tập dưới nhiều định dạng khác nhau,
như: word, PDF, video… Những ứng dụng này tạo thuận lợi cho giáo viên cả về việc tổ chức, quản lý
lớp học cũng như đánh giá chất lượng học tập của học sinh.
-Một ví dụ khác của việc khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là trong quá trình giáo
dục và đào tạo kết hợp với khoa học, những người lao động mới đã được tạo ra. Họ là những lao
động trí tuệ sáng tạo, vừa có tri thức chuyên sâu và có hiểu biết rộng. Là một sinh viên ngành truyền
thông, bản thân em cũng cần có sự hiểu biết và vận dụng khoa học trong việc học tập hiện tại cũng
như trong công việc sau này. Trong quá trình học, bản thân em cũng như nhiều bạn học khác trong
ngành đã được tiếp cận với công nghệ AI (trí tuệ nhân tạo) nhằm hỗ trợ việc tìm kiếm thông tin.
Chúng em coi AI như một công cụ đồng hành trong việc tự học nhưng không phụ thuộc vào nó. Từ
những thông tin thu thập từ AI, em đã có thể tự tư duy ra các ý tưởng sáng tạo riêng của mình cũng
như triển khai các ý tưởng đó. Cụ thể, ở học phần Tin học (Kỹ thuật công nghệ truyền thông), chúng
em đã nhận được đề bài thiết kế bộ nhận diện thương hiệu và quay video quảng bá du lịch Hà Nội.
Với đề bài này, chúng em đã phần nào được tiếp cận với công việc tương lai của mình trong ngành
truyền thông là thiết kế và quay dựng. Đầu tiên, với AI, chúng em đã nghiên cứu tìm hiểu và lựa chọn
tệp khách hàng, nhu cầu của họ để xác định mô hình dự án của mình. Sau đó, chúng em sử dụng
Pinterest - công cụ khám phá trực quan - để tìm các hình ảnh và ý tưởng liên quan rồi dùng các phần
mềm Adobe Illustrator và Photoshop để thiết kế như những gì đã học ở trên lớp. Đối với việc quay
dựng, máy ảnh và Adobe Premiere - phần mềm chỉnh sửa video - được sử dụng.

Câu 5: Vì sao nói đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có giai
cấp? Liên hệ thực tiễn đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ nên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay
A. Đấu tranh giai cấp là gì:
Khái niệm đấu tranh giai cấp được V.I.Lênin định nghĩa một cách khoa học như sau: “Đấu tranh giai
cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống một bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần
chúng bị tước các quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và ăn bám,
cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu
sản hay giai cấp tư sản” .
Cần hiểu đấu tranh giai cấp qua định nghĩa này như thế nào ?

-Một là, cũng như giai cấp trong định nghĩa giai cấp của V.I.Lênin, đấu tranh giai cấp không phải là
xung đột cá nhân hay xung đột của các nhóm nhỏ, mà là đấu tranh trên qui mô rộng lớn của xã hội
(đặc trưng về lượng).

42
-Hai là, đấu tranh giai cấp có nguyên nhân xã hội từ xung đột về lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế
giữa các giai cấp đối kháng – dù cho các thành viên của các giai cấp nhận thức được hay không. Xét
đến cùng, cội nguồn vật chất của đấu tranh giai cấp là mâu thuẫn ngày càng sâu sắc và chín muồi giữa
lực lượng sản xuất mới đòi được giải phóng với quan hệ sản xuất lỗi thời. →Như vậy, nếu đặc trưng
bản chất của giai cấp (được phân tích từ định nghĩa của V.I.Lênin) vốn mang tính vật chất – khách
quan, thì đấu tranh giai cấp qua định nghĩa vừa được phân tích cũng mang tính vật chất – khách quan
một cách tương ứng. Nói vắn tắt: đấu tranh giai cấp là biểu hiện tất yếu về mặt xã hội của mâu thuẫn
trong lòng phương thức sản xuất.
-Ba là, trong định nghĩa đấu tranh giai cấp, V.I.Lênin không quên nhấn mạnh cuộc đấu tranh giữa giai
cấp vô sản với giai cấp tư sản như là cuộc đấu tranh cao nhất, điển hình nhất và cũng là cuối cùng của
lịch sử đấu tranh giai cấp. Các cuộc đấu tranh giai cấp trước kia từ thời chiếm hữu nô lệ tới thời phong
kiến là kém điển hình, vì thường diễn ra dưới hình thức đẳng cấp hơn là giai cấp.
-Bốn là, trong những bối cảnh lịch sử nhất định, có thể có đối kháng về lợi ích giữa các giai cấp, các
tập đoàn bóc lột - thống trị, nhưng chúng vẫn có thể dễ dàng cấu kết với nhau để đàn áp cuộc đấu
tranh chính nghĩa của quần chúng lao động và các dân tộc bị áp bức.
-Năm là, cần lưu ý liên minh giai cấp là vấn đề đặc biệt quan trọng trong đấu tranh giai cấp, là một
hình thức tập hợp lực lượng thêm bạn, bớt thù trong đấu tranh giai cấp, đặc biệt khi mà đấu tranh giai
cấp phát triển tới giai đoạn quyết định: nó có thể và cần phải lôi cuốn ngày càng đông đảo các giai
cấp, tầng lớp vào bên này hay bên kia trận tuyến. Có liên minh tạm thời giữa các giai cấp hay tầng lớp
có lợi ích căn bản đối lập nhau. Có liên minh lâu dài giữa các giai cấp hay tầng lớp có lợi ích căn bản
phù hợp nhau. Liên minh giai cấp cùng với liên minh dân tộc có thể diễn ra từ quy mô trong nước tới
quốc tế để hình thành nên các tầng mặt trận thống nhất dân tộc, khu vực và toàn thế giới. Đương
nhiên, không phải vì vậy mà ảo tưởng rằng đấu tranh giai cấp bị xóa nhòa trong các liên minh hay
trong các mặt trận. Xưa nay, không một liên minh hay mặt trận nào khiến cho các giai cấp khác nhau
tự nguyện vứt bỏ lợi ích cơ bản sống còn của mình.

B. Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển chủ yếu của xã hội có giai cấp.
CNDV lịch sử khẳng định động lực phát triển chân chính và chủ yếu nhất của lịch sử xã hội có giai
cấp là đấu tranh cách mạng của các giai cấp bị áp bức, bị bóc lột chống lại các giai cấp thống trị, áp
bức, bóc lột. Cùng với thời gian, cuộc đấu tranh này sẽ phát triển tới đỉnh cao là các cuộc cách mạng
xã hội. Kết cục vật chất của những biến cố lịch sử phi thường này là sự chiến thắng của các quan hệ
sản xuất mới đối với các quan hệ sản xuất cũ, giải phóng và phát triển vượt bậc lực lượng sản xuất nói
riêng, thúc đẩy tiến bộ xã hội nói chung trên mọi mặt của đời sống xã hội.

Vai trò động lực của đấu tranh giai cấp không chỉ thể hiện rõ nhất qua các cuộc cách mạng xã hội
long trời lở đất, mà còn được triết học Mác-Lênin nhìn nhận dưới một loạt các khía cạnh dưới
đây:
-Thứ nhất, đấu tranh giai cấp còn là động lực phát triển xã hội trong thời bình. C.Mác nêu ví dụ điển
hình ở nước Anh, rằng “… kể từ 1925 (nổ ra khủng hoảng “thừa” đầu tiên trong lịch sử phát triển
TBCN – chú thích của chúng tôi), sự phát sinh và sử dụng máy móc chỉ là do kết quả của đấu tranh
của các chủ xí nghiệp và công nhân” . Xét đến cùng thì điều đó vẫn đúng đối với cả cách mạng khoa –
công nghệ trong điều kiện của CNTB hiện đại ngày nay.
-Thứ hai, các cải cách xã hội tiến bộ nhất định mà các giai cấp thống trị lỗi thời thực hiện không phải
là “ban ơn”, mà chính là kết quả đấu tranh bền bỉ của quần chúng lao động cùng với các lực lượng
tiến bộ trong nước và trên thế giới.
-Thứ ba, đấu tranh giai cấp đặc biệt để lại những dấu ấn sâu sắc trong lĩnh vực tinh thần tinh tế và
nhạy cảm của đời sống xã hội là lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật, và cũng là động lực mạnh mẽ của lĩnh
vực này.
-Thứ tư, đấu tranh giai cấp chẳng những có tác động cải tạo xã hội, xóa bỏ các lực lượng lỗi thời và
phản động, mà còn cải tạo chính bản thân các giai cấp cách mạng.

43
-Thứ năm, đấu tranh giai cấp không phải là động lực duy nhất của xã hội có giai cấp, nhưng là động
lực mạnh mẽ nhất và trực tiếp nhất của xã hội có giai cấp. Các cuộc đấu tranh khác như đấu tranh dân
tộc, đấu tranh tôn giáo… như nhận xét của Ăngghen – đều phản ánh ít nhiều đấu tranh giai cấp.

C. Liên hệ thực tiễn đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay:
Khái quát chung về tính chất của đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay trong thời kỳ quá độ:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam hiện nay đấu tranh giai cấp là tất yếu, tính tất
yếu của nó do chính đặc điểm kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ quy định.-Mục tiêu cuối cùng của
cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội chưa hoàn thành.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quá độ gián tiếp từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, tiến lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản.
Trong thời kỳ này còn cơ sở kinh tế để nảy sinh giai cấp bóc lột và mâu thuẫn giai cấp vẫn tồn tại. Với
đặc điểm nền kinh tế sản xuất nhỏ là phổ biến và bản thân trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường đòi hỏi tất yếu phải đấu tranh chống lại khuynh
hướng tự phát đi lên chủ nghĩa tư bản, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực phát
triển của đất nước.
Những khó khăn, thách thức phải đối mặt trong đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ lên xhcn ở
Việt Nam hiện nay:

-Hiện nay, các thế lực phản động trong nước đang bằng nhiều âm mưu và thủ đoạn chống phá sự
nghiệp cách mạng của đất nước. Chúng đang ra sức tập hợp lực lượng, lôi kéo các phần tử bất mãn
với chế độ, lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo… để chống phá sự nghiệp cách
mạng. Để thực hiện các mưu đồ phản động đó, chúng đang tìm mọi cách câu kết với chủ nghĩa đế
quốc, ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
-Bên cạnh đó trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, những tàn dư về tư
tưởng, tâm lý lạc hậu nảy sinh chính trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, đó là những tiêu cực
do mặt trái của nền kinh tế thị trường sinh ra. Tất cả những yếu tố và tàn dư lạc hậu đó không tự động
mất đi, mà chỉ có thể thông qua cuộc đấu tranh giai cấp mới loại bỏ được nó.
Cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra gay go, phức tạp trên tất cả lĩnh vực
của đời sống xã hội.Cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời kỳ mới:
● Chính vì những lý do đó, cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra trong điều kiện
mới với những thuận lợi rất cơ bản song cũng có không ít các khó khăn.
○ Cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế - xã hội, cơ cấu xã hội – giai cấp, địa vị của
các giai cấp trong xã hội ta có biến đổi căn bản, tạo ra so sánh lực lượng có lợi cho sự
nghiệp cách mạng. Giai cấp công nhân Việt Nam trở thành giai cấp lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng và có sự phát triển mạnh mẽ về cả số lượng và chất lượng.
○ Khối liên minh giai cấp mới công nhân – nông dân – trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam được củng cố vững chắc và trở thành nền tảng của chế độ
xã hội mới.
○ Dù bối cảnh quốc tế hiện nay phức tạp, song vai trò lãnh đạo của Đảng vẫn được giữ
vững và tăng cường. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục được
củng cố, hoàn thiện và trở thành công cụ chính trị mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh giai
cấp của giai cấp vô sản và nhân dân lao động.
○ Sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 30 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục phát triển. Những thành quả
của sự nghiệp cách mạng và các tiền đề kinh tế - vật chất đã tạo dựng được là cơ sở
để thực hiện thắng lợi mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa

44
○ Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập và
hợp tác quốc tế, khu vực phát triển đang tạo ra cho cách mạng Việt Nam cả thời cơ,
vận hội và cả các thách thức trên con đường phát triển của mình
● Bên cạnh những điều kiện thuận lợi cơ bản trên, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách
mạng Việt Nam còn gặp không ít, thời cơ và thách thức đan xen nhau.
○ Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo
loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ
chính trị ở Việt Nam.
○ Ngoài ra sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa trên thế giới cũng tác động
không nhỏ đến cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay.
→Bởi vậy xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một nhiệm vụ trong đại, phức tạp
và lâu dài cần sự góp sức của toàn xã hội.

Câu 6: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng? Đảng
Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng mối quan hệ này như thế nào trong thời kỳ đổi mới
A. Mối quan hệ biện chứng CSHT & KTTT
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một quy luật cơ bản của sự
vận động, phát triển lịch sử xã hội. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cơ bản của xã
hội gắn bó hữu cơ, có quan hệ biện chứng, trong đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng,
còn kiến trúc thượng tầng tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng. Thực chất là sự
hình thành, vận động và phát triển của các quan điểm tư tưởng cùng với những thể chế chính trị -
xã hội tương ứng xét đến cùng phụ thuộc vào quá trình sản xuất và tái sản xuất các quan hệ kinh
tế.

B. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
-Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, bởi vì, quan hệ
vật chất quyết định quan hệ tinh thần; tính tất yếu kinh tế xét đến cùng quyết định tính tất yếu chính
trị - xã hội.
-Trong đời sống hiện thực của xã hội, kiến trúc thượng tầng luôn được biểu hiện ra một cách phong
phú, phức tạp và đôi khi dường như không trực tiếp gắn với cơ sở hạ tầng. Nhưng đó chỉ là những
biểu hiện bề ngoài, còn trong thực tế tất cả những hiện tượng của kiến trúc thượng tầng đều có nguyên
nhân sâu xa trong những điều kiện kinh tế - vật chất của xã hội. Bất kỳ một hiện tượng nào thuộc kiến
trúc thượng tầng, như chính trị, pháp luật, đảng phái, triết học, đạo đức, v.v. đều không thể giải thích
được từ chính bản thân nó mà tất cả xét đến cùng phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết
định.
→Vì vậy, vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện trước hết ở chỗ,
cơ sở hạ tầng với tư cách là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội sẽ quyết định kiểu kiến trúc
thượng tầng của xã hội ấy. Cơ sở hạ tầng không chỉ sản sinh ra một kiểu kiến trúc thượng tầng tương
ứng - tức là quyết định nguồn gốc, mà còn quyết định đến cơ cấu, tính chất và sự vận động, phát triển
của kiến trúc thượng tầng.
+Nếu cơ sở hạ tầng có đối kháng hay không đối kháng, thì kiến trúc thượng tầng của nó cũng có tính
chất như vậy. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì
cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống chính trị, tinh thần của xã hội; mâu thuẫn trong lĩnh vực
kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng của xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ tầng như
thế nào thì cơ cấu, tính chất của kiến trúc thượng tầng là như thế ấy.

45
+Những biến đổi căn bản của cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản trong kiến
trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình thái kinh tế - xã hội, cũng như khi chuyển từ
một hình thái kinh tế - xã hội này sang một hình thái kinh tế - xã hội khác. C. Mác khẳng định: “Cơ sở
kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”[2].
Nguyên nhân của những biến đổi đó xét cho cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy
nhiên, sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và đến
lượt nó, sự biến đổi của cơ sở hạ tầng làm cho kiến trúc thượng tầng biến đổi một cách căn bản. Sự
biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp trong quá trình chuyển từ một
hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời sang một hình thái kinh tế - xã hội mới, tiến bộ hơn. Trong xã hội có
đối kháng giai cấp, sự biến đổi đó tất yếu phải thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
→Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng đưa tới sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng. Nhưng sự thay đổi
của kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp, có những bộ phận của kiến trúc thượng tầng thay đổi
nhanh chóng cùng với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng như chính trị, luật pháp, v.v.; có những nhân tố
riêng lẻ của kiến trúc thượng tầng thay đổi chậm hơn như tôn giáo, nghệ thuật, v.v.. Cũng có những
nhân tố nào đó của kiến trúc thượng tầng cũ vẫn được kế thừa để xây dựng kiến trúc thượng tầng mới.

C. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
-Kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định nhưng có sự tác
động trở lại to lớn đối với kiến trúc thượng tầng. Bởi vì kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương
đối so với cơ sở hạ tầng. Lĩnh vực ý thức, tinh thần khi ra đời, tồn tại thì có quy luật vận động nội tại
của nó. Vai trò của kiến trúc thượng tầng chính là vai trò tích cực, tự giác của ý thức, tư tưởng. Vai trò
của kiến trúc thượng tầng còn do sức mạnh vật chất của bộ máy tổ chức - thể chế luôn có tác động
một cách mạnh mẽ trở lại cơ sở hạ tầng. Ph. Ăngghen khẳng định: “Quan điểm tư tưởng, đến lượt
mình, nó tác động trở lại đến cơ sở hạ tầng kinh tế và có thể biến đổi cơ sở hạ tầng ấy trong những
giới hạn nhất định”
-Kiến trúc thượng tầng củng cố, hoàn thiện và bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra nó; ngăn chặn cơ sở hạ
tầng mới, đấu tranh xóa bỏ tàn dư cơ sở hạ tầng cũ; định hướng, tổ chức, xây dựng chế độ kinh tế của
kiến trúc thượng tầng. Thực chất vai trò kiến trúc thượng tầng là vai trò bảo vệ duy trì, củng cố lợi ích
kinh tế của giai cấp thống trị xã hội. Mặt khác, kiến trúc thượng tầng trong các xã hội có giai cấp còn
đảm bảo sự thống trị về chính trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị về kinh tế. Nếu giai cấp
thống trị không xác lập được sự thống trị về chính trị và tư tưởng, cơ sở kinh tế của nó không thể
đứng vững được.
-Tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều hướng. Kiến trúc
thượng tầng tác động cùng chiều với sự phát triển của cơ sở hạ tầng sẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát
triển và nếu tác động ngược chiều với sự phát triển của cơ sở hạ tầng, của cơ cấu kinh tế nó sẽ kìm
hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng, của kinh tế. Nghĩa là, khi kiến trúc thượng tầng phản ánh đúng
tính tất yếu kinh tế, các quy luật kinh tế khách quan sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. Và ngược lại, khi
kiến trúc thượng tầng không phản ánh đúng tính tất yếu kinh tế, các quy luật kinh tế khách quan sẽ
kìm hãm sự phát triển của kinh tế và đời sống xã hội.

46
-Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng thì kiến trúc thượng tầng về chính trị có vai trò quan
trọng nhất, trong đó nhà nước có vai trò tác động to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà nước là tổ chức
đặc biệt của quyền lực chính trị, không chỉ dựa trên hệ tư tưởng, mà còn dựa trên những hình thức
nhất định của sự kiểm soát xã hội. Nhà nước sử dụng sức mạnh của bạo lực để tăng cường sức mạnh
kinh tế của giai cấp thống trị và củng cố vững chắc địa vị của quan hệ sản xuất thống trị. Với ý nghĩa
đó Ph. Ăngghen khẳng định: “Bạo lực (tức là quyền lực nhà nước) - cũng là một sức mạnh kinh
tế”[4]. Và chỉ rõ, tác động ngược lại của quyền lực nhà nước đối với sự phát triển kinh tế theo hai
chiều hướng cơ bản, nếu tác động cùng hướng với sự phát triển kinh tế sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển
nhanh hơn; nếu tác động ngược lại hướng phát triển kinh tế sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế; và
nó có thể ngăn cản một vài hướng phát triển nào đấy của nền kinh tế, thúc đẩy sự phát triển đó theo
những hướng khác - trong trường hợp này theo Ph. Ăngghen, rốt cuộc nó cũng dẫn đến một trong hai
trường hợp trên.
-Tuy nhiên, trong thực tiễn của đời sống xã hội, không phải chỉ có quyền lực nhà nước mới có sự
tác động to lớn đến cơ sở hạ tầng, mà các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học,
đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,... cũng đều tác động mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng bằng những hình
thức khác nhau, với các cơ chế khác nhau. Ph. Ăngghen viết: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật,
triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, v.v. đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả
chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”[5]. Song thường thường những
sự tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp luật, các thể chế tương ứng và chỉ qua đó chúng mới
phát huy được hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng, cũng như đối với toàn xã hội.
-Sự vận động của quy luật này dưới chủ nghĩa xã hội có những đặc điểm riêng. Cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa không hình thành tự phát trong lòng xã hội cũ. Để xác lập cơ sở hạ
tầng xã hội chủ nghĩa thì đòi hỏi tất yếu là phải xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ thông qua cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Sự thiết lập kiến trúc thượng tầng chính trị xã hội chủ nghĩa là tiền đề cho sự hình
thành, phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa. Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa có mầm
mống nảy sinh ngay từ cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và quần chúng lao động nhằm chống lại
giai cấp thống trị bóc lột, lật đổ trật tự xã hội cũ. Song, sự hình thành và vai trò của nó được phát huy
một cách đầy đủ, chủ yếu từ khi giai cấp vô sản giành được chính quyền. Kiến trúc thượng tầng xã hội
chủ nghĩa chỉ có thể được củng cố, phát triển dựa trên cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa và trong chính
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, xây dựng và hoàn thiện kiến trúc thượng tầng xã hội
chủ nghĩa phải xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời,
phải tích cực, chủ động đấu tranh khắc phục mọi tàn dư tư tưởng lạc hậu của xã hội cũ và đánh bại
mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.
-Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng xã hội chủ nghĩa phải được tiến hành từng bước với những hình thức, quy mô thích hợp.
Cơ sở hạ tầng còn mang tính chất quá độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen nhau của
nhiều loại hình kinh tế - xã hội. Vì vậy, phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là vấn đề có tính quy luật để phát triển cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, phải biết
phát huy cao độ vai trò của kiến trúc thượng tầng trong phát triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Để xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa cần phải tránh khuynh
hướng chủ quan duy ý chí, nôn nóng bất chấp các quy luật khách quan.
-Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa khi đã phát triển một cách đầy đủ và hoàn
thiện sẽ có bản chất ưu việt, tốt đẹp nhất trong lịch sử. Cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không còn mâu
thuẫn đối kháng, trong kết cấu kinh tế không bao hàm sự đối lập về lợi ích căn bản. Đặc trưng của
kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa là sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong toàn xã hội. Tính
ưu việt của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa được biểu hiện ở hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân, là hệ tư tưởng tiến bộ và cách mạng nhất trong lịch sử. Nó còn được biểu hiện ở vai trò của nhà
nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa; ở sự phát triển các hình thái ý thức xã hội một cách phong phú, đa
dạng chứa đựng đầy đủ các giá trị của chủ nghĩa xã hội.

47
D. Sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của Đảng
Cộng sản Việt Nam ở nước ta hiện nay.
Dưới chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng và kiến thức thượng tầng thuần nhất và thống nhất.
Vì cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không có tính chất đối kháng, không bao hàm những lợi ích kinh tế
đối lập nhau. Hình thức sở hữu bao trùm là sở hữu toàn dân và tập thể, hợp tác tương trợ nhau trong
quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm theo lao động, không còn chế độ bóc lột.
-Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc và triệt
để, là một giai đoạn lịch sử chuyển tiếp nó.Bởi vì, cơ sở hạ tầng mang tính chất quá độ với một kết
cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen của nhiều loại hình kinh tế xã hội khác nhau. Còn kiến trúc
thượng tầng có sự đối kháng về tư tưởng và có sự đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản
trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá.
-Bởi vậy công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một quá trình mang tính cách
mạng lâu dài. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế như: kinh tế nhà
nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, cùng các kiểu
quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong
một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất
-Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa, vì vậy mà có sự
thống trị về chính trị và tinh thần Nhà nước phải thực hiện biện pháp kinh tế có vai trò quan trọng
nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với hình thức và bước đi thích hợp theo hướng như : kinh tế
quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu
hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp , công ty cổ
phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng cơ sở kinh tế hợp lý. Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức
năng, tính chất, vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất mà còn cạnh
tranh nhau, liên kết và bổ xung cho nhau.
-Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải sử dụng tổng thể
các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục, trong dó thì biện pháp kinh tế là quan trọng nhất nhằm
từng bước xã hội hóa nền sản xuất với hình thức và thích hợp theo hướng kinh tế quốc doanh được
củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn
những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp, công ty cổ phần phát triển
mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây
dựng kinh tế hợp lý.
-Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột thoát khỏi
nỗi nhục của mình là đi làm thuê bị đánh đập, lương ít.Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ : ”xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà nước của dân,
do dân và vì dân, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền
tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo”.

E. Kết luận:

48
Những thành tựu mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã đem lại một lần nữa chứng minh một sự đúng
đắn của mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Không thể nào
có được một đất nước mà cơ sở hạ tầng phát triển song kiến trúc thượng tầng, ngược lại không có sự
phát triển thích ứng với cơ sở hạ tầng và cũng như không có được một kiến trúc thượng tầng được coi
là hoàn hảo mà lại đứng trên một cơ sở hạ tầng lạc hậu thấp kém, ta không thể coi đó như là một sự
phát triển bình thường mà là một sự phát triển sai lệch què cụt. Mỗi chúng ta tự hào về công cuộc đổi
mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Song chúng ta hiểu rõ rằng vẫn còn nhiều thiếu sót mà chưa
giải quyết hết được. Đó là những tác động tiêu cực của chủ nghĩa quan liêu, của chế độ quan liêu bao
cấp đã xâm nhập vào tổ chức bộ máy và hoạt động của nhà nước trong một thời gian dài. Đặc quyền,
đặc lợi, tham nhũng ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, nhân viên… gây nên những tổn thất nặng nề về
kinh tế và văn hoá, ảnh hưởng xấu về chính trị, tinh thần và đạo đức trong xã hội ta. Cho dù đâu đó
vẫn còn những thiếu sót mà chúng ta chưa làm được, song chúng ta tin rằng sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng và Nhà Nước ta mà nền tảng của nó là chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
chúng ta sẽ thành công. Bởi chúng ta có niềm tin và biết vận dụng linh hoạt đúng đắn quy luật phát
triển của xã hội mà Mác – Lênin là những người tiên phong vạch ra con đường đi theo nhân loại

Câu 7: Hình thái kinh tế - xã hội là gì? Tại sao nói sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã
hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên?
A. Định nghĩa
-Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở
từng nấc thang lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với
một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng
trên những quan hệ sản xuất ấy.
-Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội, bao gồm ba yếu tố cơ bản, phổ biến: Lực lượng sản xuất: quan hệ
sản xuất (cơ sở hạ tầng); kiến trúc thượng tầng.
+Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các thời đại
kinh tế khác nhau, yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động, phát triển của hình thái kinh tế - xã
hội.
+Quan hệ sản xuất là quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối và quyết định mọi quan hệ xã hội, đồng
thời là tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt bản chất các chế độ xã hội khác nhau.
+Kiến trúc thượng tầng là sự thể hiện các mối quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực tinh thần,
tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội.

B. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên
-Tiến trình lịch sử xã hội loài người là kết quả của sự thống nhất giữa logic và lịch sử. Xu hướng cơ
bản, xu hướng chung của sự vận động, phát triển lịch sử loài người là do sự chi phối của quy luật
khách quan, xét đến cùng là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Logic của toàn bộ tiến trình lịch sử
loài người là sự kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Đó là con đường tất
yếu của tiến bộ lịch sử.
-Sự thống nhất giữa logic và lịch sử trong tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người bao hàm
cả sự phát triển tuần tự đối với lịch sử phát triển toàn thế giới và sự phát triển “bỏ qua” một hay vài
hình thái kinh tế - xã hội đối với một số quốc gia, dân tộc cụ thể.
-Sự phát triển phong phú, nhiều vẻ, đa dạng, phức tạp của các hình thái kinh tế - xã hội cụ thể của các
giai đoạn xã hội, các quốc gia, dân tộc cụ thể. Bao gồm cả những bước quanh co, thậm chí những
bước thụt lùi lớn, khả năng rút ngắn, bỏ qua những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh toàn bộ lịch sử xã hội loài người phát triển tuần tự qua tất cả các giai
đoạn của các hình thái kinh tế - xã hội đã có. Nhưng do đặc điểm về lịch sử, về không gian, thời gian,
về sự tác động của nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan, có những quốc gia phát triển tuần tự,
nhưng có những quốc gia phát triển bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó.

49
-Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là tất yếu khách quan của lịch sử xã hội. Phát
triển là xu hướng tất yếu, cơ bản của lịch sử xã hội loài người. Chủ nghĩa tư bản không phải là nấc
thang phát triển cuối cùng của xã hội loài người. Chính những mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội tư
bản đã quyết định sự vận động phát triển của xã hội loài người.
→Những tiền đề vật chất cho sự vận động phát triển xã hội đã xuất hiện ngay trong lòng xã hội tư
bản. Đó là lực lượng sản xuất hiện đại với tính chất xã hội hóa cao và giai cấp vô sản tiên tiến,
cách mạng, đã phát triển cả về số lượng và chất lượng.

Câu 8: Phân tích các đặc trưng cơ bản trong định nghĩa về giai cấp của Lênin
Trước C.Mác, các sử gia tư tưởng tiến bộ Pháp (Chie, Ghidô, Minhê…) đã thừa nhận sự tồn tại của
các giai cấp cùng với đấu tranh giai cấp. Hầu hết các học giả tư sản ngày nay cũng không bác bỏ sự
tồn tại của các giai cấp. Nhưng trả lời câu hỏi giai cấp là gì? thì các lý thuyết xã hội phi Mácxít chỉ
đưa ra những định nghĩa mơ hồ, thiếu căn cứ khoa học. Chẳng hạn, giai cấp là tập hợp những người
“cùng chức năng xã hội”, hoặc “cùng một lối sống”, “cùng mức sống”, “cùng một địa vị và uy tín xã
hội”v.v.. Các lý thuyết đó đều tránh đụng tới các đặc trưng cơ bản của giai cấp, đặc biệt là vấn đề sở
hữu tư liệu sản xuất.
A. Khái niệm:
-Khái niệm giai cấp được Lênin định nghĩa một cách toàn diện và sâu sắc trong tác phẩm “Sáng kiến
vĩ đại” như sau: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn người to lớn khác nhau về địa vị của họ
trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường
thường các quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với các tư liệu sản xuất, về vai trò
của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của
cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm
đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế
xã hội nhất định”.
-Khái niệm giai cấp vốn hết sức phức tạp, do đó, định nghĩa giai cấp của Lênin cũng phức tạp một
cách tương ứng cả về nội dung lẫn hình thức cấu trúc của định nghĩa. Cách tiếp cận truyền thống định
nghĩa này (bằng cách liệt kê 4 sự khác nhau với tư cách là bốn đặc trưng của giai cấp ở mệnh đề thứ
nhất) là không thỏa đáng, là chưa lột tả được cả chiều rộng lẫn chiều sâu của tư duy V.I.Lênin trong
định nghĩa mang tính kinh điển này.
-Phân tích thấu đáo định nghĩa này của V.I.Lênin, chúng ta cần lưu ý một loạt khía cạnh phương pháp
luận như sau: Thứ nhất, cần phân biệt đặc trưng về lượng với các đặc trưng về chất của giai cấp; Thứ
hai, cần phân biệt đặc trưng tổng quát với các đặc trưng từng mặt quan hệ sản xuất ở mệnh đề thứ
nhất; Thứ ba, cần phân biệt các đặc trưng về chất ở mệnh đề thứ nhất với mệnh đề thứ hai; Thứ tư,
cần lưu ý cả hai đặc trưng về trình độ ý thức của giai cấp.
B. Phân tích kỹ ta thấy:
+Trước khi đề cập tới các đặc trưng về chất của giai cấp, ở cả hai mệnh đề, V.I.Lênin đều lưu ý trước
tiên đặc trưng về lượng của giai cấp với tư cách là “những tập đoàn người”, “tập đoàn người to lớn”
dù đó là giai cấp thiểu số hay đa số trong dân cư. Điều đó chứng tỏ vấn đề giai cấp cũng như vấn đề
đấu tranh giai cấp là vấn đề lớn lao của đời sống xã hội, chứ không phải vấn đề của những nhóm nhỏ
hay cá nhân.
+Ở mệnh đề thứ nhất, chủ ý của V.I.Lênin tiếp cận vấn đề giai cấp trước hết từ lĩnh vực sản xuất kinh
tế – đúng như tư tưởng cơ bản thứ nhất của C.Mác về giai cấp đã dạy: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ
gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất” .
-Theo đó, đặc trưng tổng quát về chất của giai cấp là sự “khác nhau về địa vị của họ trong một hệ
thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử”, hoặc là thống trị, hoặc là bị trị (đương nhiên có thể có
bộ phận nào đó đóng vai trò trung gian) trong kinh tế. Khái quát này của Lênin, thứ nhất, bác bỏ mọi
cách giải thích duy tâm về giai cấp từ các nguồn gốc phi kinh tế; thứ hai, chỉ ra tính lịch sử cụ thể của

50
giai cấp ở những điều kiện lịch sử cụ thể; thứ ba, đòi hỏi xem xét giai cấp trong tính chỉnh thể phức
tạp vốn có của “một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử”.
-Mặt khác, V.I.Lênin đã đi sâu cụ thể hóa đặc trưng tổng quát nói trên của giai cấp thành ba đặc trưng
tương ứng với ba mặt cấu thành các quan hệ sản xuất. Đó là ba sự khác nhau: về quan hệ sở hữu đối
với tư liệu sản xuất; về quan hệ tổ chức lao động xã hội; và về quan hệ phân phối. Hiển nhiên là sự
khác nhau về quan hệ sở hữu tự nó có vai trò quyết định bản chất đối với hai mối quan hệ còn lại,
cũng như quyết định cả địa vị các giai cấp trong một hệ thống sản xuất xã hội nói chung. Trong mệnh
đề thứ nhất này, V.I.Lênin còn có hai lưu ý vừa tinh tế vừa sâu sắc đối với vấn đề sở hữu và phân
phối.
+Thứ nhất, như Lênin vạch rõ, quan hệ sở hữu “thường được pháp luật quy định và công nhận”. Điều
đó chứng tỏ rằng các quan hệ giai cấp không tách rời quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng (kinh tế)
với kiến thức thượng tầng (chính trị – pháp lý), bác bỏ mọi luận điệu cho rằng chính trị, nhà nước,
pháp quyền “vô tư” đối với sở hữu khác nhau của mọi giai cấp.
+Thứ hai, trước khi nói tới sự khác nhau về “phần của cải xã hội ít hoặc nhiều” trong quan hệ phân
phối, Lênin đã lưu ý đến sự “khác nhau về cách thức hưởng thụ” của các giai cấp. Ai cũng biết cách
thức hưởng thụ của giai cấp bóc lột thống trị xưa nay là hết sức xa hoa, lãng phí, thậm chí không tính
nổi bằng tiền mà bằng bao xương máu của người lao động (ví dụ các kim tự tháp, các lăng tẩm của
vua chúa).
Với mức độ khái quát sâu nhất và rộng nhất có thể có ở mệnh đề thứ hai, Lênin chỉ nêu hai đặc
trưng cơ bản của giai cấp có quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau: Một là, “tập đoàn này có thể
tước đoạt lao động của tập đoàn khác”; Hai là, “các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một
chế độ kinh tế xã hội nhất định”.
-Ở mệnh đề ngắn gọn và vô cùng súc tích này, Lênin đã thâu tóm cái bản chất sâu xa nhất, cốt lõi
nhất, và cũng là phản nhân văn nhất của các quan hệ giai cấp đối kháng xưa nay - đó là vấn đề “chiếm
đoạt lao động”. Chính chiếm đoạt lao động là đặc trưng bao trùm và chi phối tất cả các đặc trưng khác
của giai cấp ở cả hai mệnh đề, và sâu xa hơn, nó cắt nghĩa cả nguồn gốc của giai cấp và của đấu tranh
giai cấp. Hơn nữa, không phải đặc trưng nào ở mệnh đề thứ nhất về giai cấp cũng đồng nghĩa với
xung đột, với đối kháng. Nhưng chừng nào và ở đâu còn chiếm đoạt lao động thì tất còn xung đột, còn
đối kháng. Trong xã hội phân chia giai cấp, thực chất của quan hệ giai cấp là quan hệ xung đột đối
kháng. Nếu hiểu khác đi là mơ hồ về giai cấp. Triết lý nổi tiếng của C.Mác và Ph.Ăngghen “tước đoạt
kẻ đi tước đoạt” không chỉ đúng với quy luật phủ định của phủ định chi phối toàn bộ chu kỳ phát triển
trọn vẹn của lịch sử loài người (sở hữu xã hội – sở hữu tư nhân – sở hữu xã hội trên hình thức cao
hơn), mà còn hợp với cả đạo lý sống cơ bản nhất của loài người.
-Ở đặc trưng còn lại của giai cấp trong mệnh đề thứ hai, V.I.Lênin đã gắn liền đặc trưng chiếm đoạt
lao động không phải với “hệ thống sản xuất xã hội” (như định nghĩa thứ nhất) mà với cả “chế độ kinh
tế xã hội” – nghĩa là với toàn bộ tòa nhà xã hội, cơ thể xã hội. Vì rằng, với nhiều lý do khác nhau, có
những bộ phận xã hội chiếm đoạt lao động không phải do quan hệ sở hữu trong sản xuất kinh tế, mà
do lợi dụng trực tiếp địa vị chính trị – xã hội. Đặc quyền đặc lợi của tầng lớp quý tộc dưới chính thể
quân chủ – lập hiến là một ví dụ. Nạn hối lộ – tham nhũng xưa nay trong bộ máy nhà nước cũng là
một ví dụ.
+ Ngoài các đặc trưng của giai cấp vốn mang tính vật chất được khái quát trong hai mệnh đề trên,
Lênin còn nhiều lần nói tới đặc trưng về trình độ ý thức của giai cấp: Một “giai cấp tự nó” hay “tự
phát” là chưa ý thức được lợi ích căn bản sống còn của mình. Còn một “giai cấp cho mình” hay “tự
giác” là giai cấp đã trưởng thành tới mức ý thức được lợi ích căn bản – sống còn của mình. Chẳng
hạn, trong quá trình đấu tranh chống phong kiến, giai cấp tư sản đã từng trải qua hai trình độ ý thức
như vậy. Và đến lượt mình, trong quá trình đấu tranh chống CNTB và xây dựng CNXH, CNCS, giai
cấp vô sản cũng không thể không trải qua hai trình độ tự phát và tự giác như vậy.

51
→Tóm lại, phân tích kỹ định nghĩa giai cấp của Lênin, chúng ta hiểu ra rằng quan hệ giai cấp
thực chất và trước hết là những quan hệ sản xuất, là “những quan hệ cơ bản, ban đầu, quyết
định” – như C.Mác tổng kết – đối với tất cả các quan hệ xã hội khác. Đương nhiên, không vì thế
mà có thể giản đơn quy tất cả các quan hệ xã hội khác vào quan hệ giai cấp.

Câu 9: Phân tích nguồn gốc, bản chất, đặc trưng và chức năng cơ bản của Nhà nước.
Nhà nước là một hiện tượng xã hội, tồn tại trong các xã hội có giai cấp và đấu tranh giai
cấp. Do nhận thức, lợi ích giai cấp khác nhau, phương pháp tiếp cận khác nhau nên trong lịch sử tư
tưởng nhân loại đã có nhiều cách hiểu khác nhau về nhà nước xoay quanh những vấn đề cơ bản như:
nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước, các kiểu và hình thức nhà nước... Quan điểm về nhà
nước trong lịch sử được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin kế thừa, bổ sung và phát triển đã
đạt được giá trị khoa học.
A. Nguồn gốc
-Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhà nước là một phạm trù lịch sử, chỉ ra đời và tồn tại
trong một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội và sẽ mất đi khi những cơ sở cho sự tồn tại và phát
triển của nó không còn nữa.
-Trong thời kỳ nguyên thủy, kinh tế còn thấp kém, xã hội tồn tại theo chế độ tự quản với cộng đồng
thị tộc, bộ lạc, nên chưa có cơ quan quyền lực của giai cấp, duy trì sự thống trị của giai cấp, đối lập
với nhân dân. Tuy nhiên, vào giai đoạn cuối của xã hội cộng sản nguyên thủy, trong xã hội xuất hiện
chế độ tư hữu, sự bất bình đẳng và phân hóa giai cấp: thống trị và bị trị. Sự phân chia giai cấp dẫn đến
quan hệ áp bức bóc lột, nền dân chủ công xã trở thành nền độc tài; từ đó dẫn đến những mâu thuẫn
giai cấp gay gắt, các cuộc đấu tranh nổi dậy của giai cấp bị trị diễn ra thường xuyên. Do đó, nhà nước
ra đời như một phương thức để giai cấp thống trị bảo vệ địa vị và quyền lợi của mình, giai cấp thống
trị sử dụng công cụ bạo lực để đàn áp các cuộc đấu tranh của giai cấp bị trị. Nhà nước đầu tiên trong
lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ. Tiếp đó là nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản.
-Nhà nước ra đời đáp ứng yêu cầu duy trì trật tự và thống trị xã hội của giai cấp thống trị, để cho cuộc
đấu tranh giai cấp không đi đến tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội. Có thể khẳng định
nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện nhà nước là do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến
sự dư thừa tương đối của cải, từ đó xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và của cải ; còn
nguyên nhân trực tiếp là do mâu thuẫn giai cấp gay gắt không thể điều hòa được.
→Như vậy, sự ra đời của nhà nước là một tất yếu khách quan để làm cho mâu thuẫn giai cấp diễn ra
trong vòng “trật tự”, có thể duy trì chế độ kinh tế - xã hội và giai cấp thống trị mới.

B. Bản chất
Theo quan điểm của Triết học Mác-Lênin, bản chất nhà nước có hai thuộc tính: bản chất giai
cấp và bản chất xã hội.
● Bản chất giai cấp
-Bản chất nhà nước là bộ máy trấn áp đặc biệt, là công cụ bạo lực của một giai cấp này đối với giai
cấp khác và đối với toàn xã hội. Nhờ có bộ máy nhà nước, giai cấp thống trị (chiếm thiểu số) duy trì
được sự áp bức, bóc lột của mình đối với giai cấp bị trị (chiếm đa số). Sự thống trị giai cấp, xét về nội
dung, thể hiện ở ba mặt: kinh tế, chính trị và tư tưởng.
+Quyền lực về kinh tế: Giai cấp thống trị nắm trong tay quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của xã hội
nên của cải của xã hội làm ra họ có quyền phân phối, định đoạt, bắt các giai cấp khác lệ thuộc vào giai
cấp mình về kinh tế.
+Quyền lực về chính trị: Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị về
chính trị. Ý chí của giai cấp thống trị được hợp pháp hóa thành ý chí của nhà nước, buộc các giai cấp
khác phải tuân theo. Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước để trấn áp các giai cấp khác.

52
+Quyền lực về tư tưởng: Quyền lực về tư tưởng được tạo ra từ quyền lực về kinh tế và quyền lực về
chính trị. Bất kỳ một nhà nước nào cũng tạo cho mình một hệ thống tư tưởng phục vụ cho giai cấp
cầm quyền. Giai cấp thống trị thông qua nhà nước để xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp mình thành
hệ tư tưởng thống trị trong xã hội.
● Bản chất xã hội:
-Nhà nước ra đời và tồn tại trong xã hội với cơ cấu bao gồm giai cấp thống trị và các giai cấp, tầng
lớp dân cư khác. Bản thân giai cấp thống trị cũng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các giai cấp, tầng
lớp dân cư khác. Do vậy, nhà nước ngoài tính chất là công cụ duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích của
giai cấp thống trị, còn là một tổ chức quyền lực công (hay tổ chức công quyền), là phương thức bảo
đảm lợi ích chung của toàn xã hội. Nhà nước không chỉ phục vụ lợi ích cho giai cấp thống trị mà
trong chừng mực nhất định còn phải giải quyết những vấn đề nảy sinh từ trong đời sống xã hội, thực
hiện chức năng quản lý toàn xã hội, đảm bảo trật tự chung, sự ổn định để xã hội phát triển.
-Từ sự phân tích nguồn gốc, bản chất của nhà nước có thể định nghĩa về nhà nước như sau: Nhà nước
là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực
hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của
giai cấp thống trị trong xã hội.
1. Đặc trưng cơ bản
Nhà nước có năm đặc trưng cơ bản:
-Nhà nước phân chia và quản lý dân cư theo đơn vị hành chính lãnh thổ nhất định. Nhà nước thiết
lập quyền lực trên các đơn vị hành chính lãnh thổ, quản lý dân cư theo đơn vị hành chính lãnh thổ mà
không phụ thuộc vào huyết thống, giới tính, tôn giáo…
-Nhà nước thiết lập quyền lực công để quản lý xã hội và nắm quyền thống trị thông qua việc thành
lập bộ máy chuyên làm nhiệm vụ quản lý nhà nước và bộ máy chuyên thực hiện cưỡng chế (quân đội,
nhà tù, cảnh sát…) để duy trì địa vị của giai cấp thống trị. Còn các tổ chức khác trong xã hội như tổ
chức nghiệp đoàn, công đoàn, phụ nữ, đoàn thanh niên,… không có quyền lực này.
-Nhà nước có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia thể hiện ở quyền tối cao của quốc gia trong
phạm vi lãnh thổ của mình. Nhà nước tự quyết định về chính sách đối nội và đối ngoại, không phụ
thuộc vào lực lượng bên ngoài.
-Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện quản lý buộc các thành viên trong xã hội phải tuân theo
và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế. Thông qua pháp luật, ý chí của giai cấp thống trị trở
thành ý chí của nhà nước, buộc mọi chủ thể phải tuân theo. Trong xã hội, chỉ có nhà nước mới có
quyền ban hành luật và áp dụng pháp luật.
-Nhà nước quy định và thực hiện thu thuế dưới hình thức bắt buộc. Thu thuế là một nguồn tài chính
quan trọng cho nhà nước, đóng góp vào nguồn kinh phí để thực hiện các chính sách và dự án công
cộng. Nhà nước có quyền thiết lập các quy định liên quan đến thuế, xác định mức thuế, quyền lợi
thuế, thu thập thuế từ cá nhân, tổ chức và các hoạt động kinh tế.
→Năm đặc trưng trên nhằm phân biệt nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội khác (đảng phái
chính trị, hiệp hội…), đồng thời cũng là để phân biệt với các hình thức tổ chức cộng đồng người
trong xã hội công xã nguyên thủy. Qua đó cho thấy vị trí, vai trò đặc biệt của nhà nước trong hệ
thống chính trị mà các tổ chức khác không có.

C. Chức năng
Chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước nhằm để
thực hiện những nhiệm vụ cơ bản của nhà nước. Chức năng của nhà nước được xác định xuất phát
từ bản chất của nhà nước, do cơ sở kinh tế và cơ cấu giai cấp của xã hội quyết định.
-Theo tính chất của quyền lực nhà nước có: chức năng thống trị chính trị của giai cấp (bạo lực trấn
áp) và chức năng xã hội (tổ chức xây dựng)

53
+Chức năng thống trị chính trị của giai cấp là chức năng nhà nước làm công cụ chuyên chính của
một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị giai cấp đó đối với toàn thể xã hội. Nhà nước sử dụng bộ máy
quyền lực từ trung ương đến cơ sở duy trì trật tự xã hội, đàn áp sự phản kháng của lực lượng chống
đối thông qua hệ thống chính sách và pháp luật.
+Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng nhà nước thực hiện sự quản lý những hoạt động
chung vì sự tồn tại của xã hội, thỏa mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự
quản lý của nhà nước.
→Trong hai chức năng trên, chức năng thống trị chính trị của giai cấp là cơ bản nhất có vai trò
chi phối chức năng xã hội và chỉ thực hiện được thông qua chức năng xã hội.
-Theo phạm vi tác động của quyền lực có: chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
+Chức năng đối nội là những phương diện, những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ
đất nước, thường giới hạn trong lãnh thổ quốc gia như giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo an toàn xã
hội, bảo vệ trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của giai cấp cầm quyền ; tổ chức và quản lý
nền kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ…
+Chức năng đối ngoại là những phương diện, những mặt hoạt động chủ yếu thể hiện vai trò của nhà
nước trong quan hệ với các nhà nước, vùng lãnh thổ và các dân tộc trên thế giới. Trong xã hội hiện
đại, chính sách đối ngoại được các quốc gia xem trọng, xem đó như là điều kiện cho sự phát triển của
mình. Các nhà nước không chỉ thiết lập quan hệ với nhau mà còn với các tổ chức quốc tế, tổ chức phi
chính phủ,...
→Hai chức năng này có mối quan hệ mật thiết với nhau, thực hiện tốt chức năng đối nội sẽ tạo
thuận lợi cho thực hiện chức năng đối ngoại và ngược lại.

Câu 10: Cách mạng xã hội là gì? Phân tích vai trò của cách mạng xã hội đối với sự phát triển
của xã hội?
A. Định nghĩa:
Nguồn gốc của cách mạng xã hội
-Cách mạng xã hội là một hiện tượng lịch sử, có nguồn gốc sâu xa từ mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất tiến bộ đòi hỏi được giải phóng, phát triển với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu, đang là trở
ngại cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
-Trong Lời tựa tác phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, C. Mác viết: "Từ chỗ là những
hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực
lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội"'. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện dưới dạng xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị, đại diện cho lực
lượng sản xuất mới, tiến bộ với giai cấp thống trị, đại diện cho quan hệ sản xuất đã lạc hậu so với sự
phát triển của trình độ lực lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn đó trở nên gay gắt, quyết liệt, đòi hỏi phải
được giải quyết, thì sẽ nổ ra cách mạng xã hội.
(-Khi cách mạng xã hội nổ ra thì chế độ xã hội cũ bị xóa bỏ. C. Mác cho rằng: "mỗi một cuộc cách
mạng đều phá hủy xã hội cũ, và vì thế nó mang tính chất xã hội. Mỗi cuộc cách mạng đều lật đổ chính
quyền cũ, và bởi vậy nó có tính cách chính trị".
→Như vậy, trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cách mạng
xã hội. Trong lịch sử xã hội có hai cuộc cách mạng xã hội mang tính điển hình, có quy mô rộng lớn và
tính chất triệt để, đó là cách mạng tư sản và cách mạng vô sản.
Tuy nhiên, trong lịch sử nhân loại không phải chỉ trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp môi có
cách mạng xã hội. Theo Ph. Ăngghen, trong xã hội cộng sản nguyên thủy cũng đã diễn ra cách mạng
xã hội. Sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy sang hình thái kinh tế - xã
hội chiếm hữu nô lệ là một bước phát triển nhảy vọt làm thay đổi về chất mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Đó là một cuộc cách mạng xã hội thật sự, thậm chí, theo Ph. Ăngghen, sự thay thế chế độ mẫu
quyền bằng chế độ phụ quyền cũng là một cuộc cách mạng -"một trong những cuộc cách mạng triệt
để nhất mà nhân loại đã trải qua")

54
Bản chất của cách mạng xã hội
-Cách mạng là khái niệm chỉ sự thay đổi căn bản về chất của một sự vật, hiện tượng nào đó trong thế
giới. Từ đó có thể hiểu, cách mạng xã hội là sự thay đổi căn bản về chất toàn bộ các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Theo học thuyết hình thái kinh - tế xã hội của C. Mác thì cách mạng xã hội là sự thay đổi
có tính chất căn bản về chất của một hình thái kinh tế - xã hội, là bước chuyển từ một hình thái kinh tế
- xã hội này lên một hình thái kinh tế - xã hội mới tiến bộ hơn.
-Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp, là cuộc đầu tranh lật đổ chính
quyền, thiết lập một chính quyền mới tiến bộ hơn.
-Cách mạng xã hội khác với tiến hóa xã hội. Nếu cách mạng xã hội được thực hiện là do bước nhảy
đột biến, làm thay đổi về chất, thay đổi toàn bộ đời sống xã hội thì tiến hóa xã hội là sự thay đổi dần
dần, thay đổi từng bộ phận, từng yếu tố, từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Giữa cách mạng xã hội và
tiến hóa xã hội có mối liên hệ hữu cơ với nhau trong sự phát triển của xã hội. Tiến hóa xã hội tạo ra
tiền đề cho cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội là cơ sở để tiếp tục có những tiến hóa xã hội trong
giai đoạn phát triển sau của xã hội.
-Cách mạng xã hội có sự khác nhau với cải cách xã hội.
+Cải cách xã hội chỉ tạo nên những thay đổi bộ phận, lĩnh vực riêng lẻ của đời sống xã hội. Cải cách
xã hội là kết quả đấu tranh của các lực lượng xã hội tiến bộ. Nhiều khi cải cách xã hội là bộ phận hợp
thành của cách mạng xã hội.
+Khi các cuộc cải cách xã hội được thực hiện thành công ở những mức độ khác nhau, chúng đều tạo
ra sự phát triển xã hội theo hướng tiến bộ. Không phải cuộc cải cách xã hội nào cũng được thực hiện,
do nhiều lý do chủ quan hoặc khách quan.
+Cũng cần chú ý rằng: "khái niệm cải cách đối lập với khái niệm cách mạng; nếu quên sự đối lập đó,
quên cái ranh giới phân biệt hai khái niệm đó, thì sẽ luôn luôn mắc những sai lầm hết sức nghiêm
trọng trong tất cả những lập luận về vấn đề lịch sử. Nhưng sự đối lập đó không phải là tuyệt đối, cái
ranh giới đó không phải là cứng nhắc, đó là một ranh giới sinh động, linh hoạt mà ta phải biết xác
định theo từng trường hợp cụ thể".
+Trong phong trào công nhân quốc tế đã từng có khuynh hướng tả khuynh, khi chỉ coi trọng cách
mạng xã hội mà coi thường cải cách xã hội và khuynh hướng hữu khuynh, chỉ coi trọng cải cách xã
hội, sợ cách mạng xã hội nổ ra sẽ có nhiều tổn thất. Hai khuynh hướng này đều bị
V.I. Lênin phê phán, xem đó là chủ nghĩa xét lại hoặc là chủ nghĩa cơ hội trong phong trào công nhân
thế giới.
+V.I. Lênin kịch liệt phê phán chủ nghĩa cải lương - một trào lưu chính trị phản động ở châu Âu khá
thịnh hành vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa cải lương chủ trương từ bỏ đấu tranh giai
cấp và cách mạng xã hội, tuyệt đối hóa việc giành chính quyền bằng đấu tranh nghị trường.
-Cách mạng xã hội cũng khác với đảo chính. Đảo chính là phương thức tiến hành của một nhóm
người với mục đích giành chính quyền, song không làm thay đổi căn bản chế độ xã hội. Đảo chính
không phải là phong trào cách mạng. Nó thường được thực hiện bằng bạo lực,
Lật đổ của các phe, nhóm có khuynh hướng chính trị đối lập với chính quyền đương thời. Đảo chính
chỉ có ý nghĩa cách mạng khi nó thực sự là một bộ phận của phong trào cách mạng.

B. Vai trò
Các cuộc cách mạng xã hội có vai trò to lớn trong đời sống xã hội. Chỉ có cách mạng xã hội
mới thay thế được quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển, mới thay thế được hình thái kinh tế – xã hội cũ bằng hình thái kinh tế – xã hội
mới cao hơn. Cách mạng xã hội là bước chuyển vĩ đại trong đời sống xã hội về kinh tế – chính trị –
văn hoá – tư tưởng. Trong thời kỳ cách mạng xã hội, năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân
được phát huy một cách cao độ như C.Mác coi cách mạng xã hội là “đầu tàu” của lịch sử.

55
-Lịch sử xã hội loài người đã trải qua các quá trình chuyển biến cách mạng xã hội: Thứ nhất, từ cộng
đồng nguyên thuỷ lên chế độ chiếm hữu nô lệ; Thứ hai, từ chế độ chiếm hữu nô lệ lên chế độ phong
kiến; Thứ ba, từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản chủ nghĩa; Thứ tư, từ chế độ tư bản chủ nghĩa
lên chế độ xã hội chủ nghĩa. Và lịch sử càng tiến lên thì đặc trưng và vai trò của cách mạng xã hội
càng trở nên đầy đủ và rõ rệt hơn.
-Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo, thực hiện mục đích cao cả là giải
phóng giai cấp vô sản và quần chúng lao động khác. Đó cũng là sự giải phóng con người nói chung
khỏi sự bóc lột, áp bức và bất công. Tất cả các cuộc cách mạng trước chỉ là sự thay thế hình thức
người bóc lột người. Cách mạng vô sản có mục đích cuối cùng là xóa bỏ mọi hình thức người bóc lột
người, xây dựng một xã hội không còn giai cấp. Đó là sự chuyển biến sâu sắc nhất trong lịch sử phát
triển nhân loại. Vì vậy, khác với các cuộc cách mạng trước, đối với cách mạng vô sản, việc giành
được chính quyền mới chỉ là bước mở đầu cho quá trình biến đổi cách mạng toàn bộ đời sống xã hội;
cách mạng vô sản không thể không dẫn đến sự chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. Song,
nếu như nền chuyên chính do các cuộc cách mạng trước tạo ra chỉ có thể bị thủ tiêu bằng cách mạng,
thì chuyên chính vô sản chỉ là bước quá độ để đi tới xóa bỏ giai cấp và chuyên chính giai cấp

C. Liên hệ:
-Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng thành công những bài học, giá trị lý
luận của Cách mạng Tháng Mười và những chỉ dẫn của V. I. Lê-nin để hoàn thành giải phóng dân tộc,
hoàn thành trọn vẹn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc từ năm 1954 và trên cả nước từ năm 1975. Trong lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa,
Đảng đã khắc phục bệnh chủ quan, nóng vội, duy ý chí, giáo điều khi học tập kinh nghiệm nước
ngoài. Với tư duy mới, Đảng đã nhận thức đúng đắn hơn những luận điểm của V. I. Lê-nin về thời đại
cách mạng xã hội chủ nghĩa, vận dụng đúng đắn những đặc trưng và quy luật của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội vào thực tiễn Việt Nam để đề ra đường lối đổi mới và Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

-Thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhất là công cuộc đổi mới đã làm cho nhận thức về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Sáng tỏ hơn về mục
tiêu và mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với 8 đặc trưng mà Cương lĩnh bổ sung, phát
triển tại Đại hội XI của Đảng (tháng 1-2011) đã xác định. Mô hình đó đã thể hiện bản chất tốt đẹp của
chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng; thể hiện rõ cơ sở kinh tế và
kiến trúc thượng tầng, quyền làm chủ của nhân dân, lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ; quyền sống và điều kiện phát triển con người; những vấn đề về văn hóa, xã hội và quan hệ
quốc tế. Mô hình đó là sự phát triển hoàn chỉnh khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng về cơ bản.
Thực tiễn cũng làm sáng tỏ hơn những vấn đề về quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bước phát
triển quá độ đó về kinh tế là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều chế độ sở hữu và
nhiều loại thị trường khác nhau. Về chính trị là tăng cường vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
Cộng sản Việt Nam; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa. Về xã hội, củng cố
đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước đi và chính sách thích
hợp. Về văn hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con
người Việt Nam trong thời kỳ mới. Thời kỳ quá độ ở Việt Nam cũng được nhận thức là một thời kỳ
dài và phải trải qua nhiều chặng đường với hình thức, bước đi khác nhau.

56
-Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hoàn toàn có khả năng bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa: bỏ
qua việc xác lập kiến trúc thượng tầng và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và có thể kế thừa nhiều
thành quả của nhân loại đã được tạo ra dưới chủ nghĩa tư bản, nhất là khoa học, công nghệ. Trong thời
đại ngày nay, mỗi quốc gia, dân tộc có quyền lựa chọn con đường phát triển riêng của mình nhưng
vẫn có thể tham gia chủ động, tích cực và có trách nhiệm vào quá trình hội nhập quốc tế. Trên cơ sở
học thuyết lý luận về chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh đã tổng kết, đồng thời, từ những kinh nghiệm và thành quả thực tiễn của công
cuộc đổi mới, Đảng và nhân dân ta luôn vững tin vào con đường xã hội chủ nghĩa - con đường tất yếu
của lịch sử mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn ngay từ năm 1930.

Câu 11: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội? Đảng Cộng Sản
Việt Nam đã vận dụng mối quan hệ này như thế nào trong thời kỳ đổi mới
A. Khái niệm và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
Khái niệm tồn tại xã hội
-Khái niệm: Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ đời sống vật chất và những điều kiện sinh hoạt
vật chất của xã hội. Trong các quan hệ xã hội vật chất ấy thì quan hệ giữa con người với giới tự nhiên
và quan hệ giữa con người với con người là những quan hệ cơ bản nhất.
-Khi định nghĩa tồn tại xã hội, cần chú ý tới hoạt động sống của con người trong sản xuất và tiêu dùng
của cải, nhưng cũng không được quên những quan hệ vật chất trong quá trình sản xuất và trong đời
sống thực tiễn, thực tế của con người.
Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
-Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản là phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên, hoàn
cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số, v.v., trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản
nhất.
-Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động lẫn nhau tạo thành điều kiện
sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó, phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất. Ngoài ra, cần
phải thấy được tầm quan trọng của các quan hệ vật chất: Cộng đồng quốc tế, giai cấp, dân tộc, gia
đình,... trong thời đại ngày nay. C.Mác đã khắc phục triệt để chủ nghĩa duy tâm, xây dựng quan điểm
duy vật lịch sử về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội, ý thức xã hội, về vai trò quyết định của tồn tại xã
hội đối với ý thức xã hội.
B. Khái niệm và kết cấu của ý thức xã hội
.Khái niệm ý thức xã hội
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm tình cảm, phong tục, truyền thống, quan
điểm, tư tưởng,… nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát
triển nhất định.
Kết cấu của ý thức xã hội
- Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận:
+Ý thức xã hội thông thường hay ý thức thường ngày là những tri thức, những quan niệm của con
người hình thành một cách trực tiếp trong các hoạt động trực tiếp hằng ngày nhưng chưa được hệ
thống hóa, chưa được tổng hợp và khái quát hóa.
+Ý thức lý luận hay ý thức khoa học là những tư tưởng, những quan điểm được tổng hợp, được hệ
thống hóa và khái quát hóa thành các học thuyết xã hội dưới dạng các khái niệm, các phạm trù và các
quy luật.
- Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng:
+Tâm lý xã hội là ý thức xã hội thể hiện trong ý thức cá nhân. Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tư
tưởng, tình cảm, tâm trạng, thói quen, nếp sống, nếp nghĩ, phong tục, tập quán, ước muốn, v.v. của
một người, một tập đoàn người, một bộ phận xã hội hay của toàn thể xã hội hình thành dưới tác động
trực tiếp của cuộc sống hằng ngày của họ và phản ánh cuộc sống đó.
+Hệ tư tưởng là giai đoạn phát triển cao hơn của ý thức xã hội, là sự nhận thức lý luận về tồn tại xã
hội. Hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào bản chất của mọi mối quan hệ xã hội; là kết quả của sự tổng
kết, sự khái quát hóa các kinh nghiệm xã hội để hình thành nên những quan điểm, những tư tưởng về

57
chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, v.v.. Hệ tư tưởng có 2 loại: khoa học và
phản khoa học.
Tính giai cấp của ý thức xã hội
-Trong những xã hội có giai cấp thì các giai cấp khác nhau có điều kiện vật chất khác nhau, có lợi ích
và địa vị xã hội khác nhau thì ý thức xã hội của các giai cấp đó cũng khác nhau.
-Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện cả ở tâm lý xã hội lẫn ở hệ tư tưởng. Nếu ở trình độ tâm lý
xã hội mỗi giai cấp xã hội đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen, thiện cảm hay ác cảm riêng thì ở
trình độ hệ tư tưởng tính giai cấp thể hiện rõ rệt và sâu sắc hơn nhiều.
-Giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị
trong xã hội. Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư
liệu sản xuất tinh thần.
Các hình thái ý thức xã hội
* Ý thức chính trị
Ý thức chính trị là một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa
các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước
* Ý thức pháp quyền
Ý thức pháp quyền là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của
pháp luật, về quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà nước, của các tổ chức xã hội và của công dân,
về tính hợp pháp và không hợp pháp của hành vi con người trong xã hội. Ý thức pháp quyền ra đời
trong xã hội có giai cấp và nhà nước, vì vậy nó cũng mang tính giai cấp, có quan hệ chặt chẽ với ý
thức chính trị.
* Ý thức đạo đức
Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ,
công bằng, hạnh phúc, v.v. và về những quy tắc đánh giá, những chuẩn mực điều chỉnh hành vi cùng
cách ứng xử giữa các cá nhân với với nhau và giữa các cá nhân với xã hội. .
* Ý thức nghệ thuật hay ý thức thẩm mỹ.
-Ý thức nghệ thuật, hay ý thức thẩm mỹ, hình thành rất sớm từ trước khi xã hội có sự phân chia giai
cấp, cùng với sự ra đời của các hình thái nghệ thuật.
-Giống như các hình thái ý thức xã hội khác, ý thức thẩm mỹ phản ánh tồn tại xã hội. Tuy nhiên, nếu
khoa học và triết học phản ánh thế giới bằng khái niệm, bằng phạm trù và quy luật, thì nghệ thuật
phản ánh thế giới bằng hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật là sự nhận thức, sự lĩnh hội cái
chung trong cái riêng; là sự nhận thức cái bản chất trong các hiện tượng, cái phổ biến trong cái cá biệt
nhưng mang tính điển hình.
* Ý thức tôn giáo
Tôn giáo có trước triết học; nó là một hình thái ý thức xã hội trực tiếp thể hiện thế giới quan của con
người, tôn giáo là sự phản ánh hư ảo sức mạnh của giới tự nhiên bên ngoài lẫn các quan hệ xã hội vào
đầu óc con người. Những sức mạnh của tự nhiên và các lực lượng xã hội hiện thực được thần bí hóa
chính là nguồn gốc thật sự của tôn giáo. Sự sợ hãi trước sức mạnh của tự nhiên, sự bất lực trước các
thế lực xã hội đã tạo ra thần linh.
* Ý thức khoa học
Khoa học là sự khái quát cao nhất của thực tiễn, là phương thức nắm bắt tất cả các hiện tượng của
hiện thực, cung cấp những tri thức chân thực về bản chất các hiện tượng, các quá trình, các quy luật
của tự nhiên và của xã hội.
* Ý thức triết học
Hình thức đặc biệt và cao nhất của tri thức cũng như của ý thức xã hội là triết học. Với tư cách là một
hình thái ý thức xã hội, triết học nói chung và nhất là triết học duy vật biện chứng, có sứ mệnh trở
thành thế giới quan, là cơ sở và hạt nhân của thế giới quan chính là tri thức. Chính thế giới quan đó
giúp con người trả lời cho các câu hỏi được nhân loại từ xưa đến nay thường xuyên đặt ra cho mình.
Chẳng hạn thế giới xung quanh ta là gì? Thế giới ấy có điểm bắt đầu và điểm kết thúc hay không? Sức
mạnh nào chi phối sự tồn tại và sự biến đổi đó? Con người là gì và sinh ra từ đâu và có quan hệ như
thế nào với thế giới ấy? Cuộc sống của con người có ý nghĩa gì? Con người có vị trí nào trong thế giới
đó? v.v.

58
Như vậy, thế giới quan triết học bao hàm trong nó cả nhân sinh quan. Trong thời đại hiện
nay, thế giới quan khoa học chân chính nhất chính là thế giới quan triết học duy vật biện chứng.

B. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Vai trò quyết định của tồn tại xã hội với ý thức xã hội
-Công lao to lớn C. Mác và Ph.Ăngghen là phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao,
xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử và lần đầu tiên giải quyết một cách khoa học vấn đề sự hình
thành và phát triển của ý thức xã hội. Các ông đã chứng minh rằng: Đời sống tinh thần của xã hội hình
thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, rằng không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm
lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là không thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện
thực vật chất. Sự biến đổi của một thời đại nào đó sẽ không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý
thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giả thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất,
bằng sự xung đột giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội.
-Những luận điểm trên đây đã bác bỏ quan niệm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm muốn đi tìm nguồn
gốc của ý thức tư tưởng trong bản thân ý thức tư tưởng, xem tinh thần, tư tưởng là nguồn gốc của mọi
hiện tượng xã hội, quyết định sự phát triển của xã hội và trình bày lịch sử các hình thái ý thức xã hội
tách rời cơ sở kinh tế - xã hội.
-Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Tồn tại xã hội như thế
nào thì ý thức xã hội sẽ tương ứng như vậy, ý thức xã hội là sự phản ánh đối với tồn tại xã hội và phụ
thuộc vào tồn tại xã hội. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, do những điều kiện khác nhau của đời
sống vật chất quyết định cho nên những lý luận, quan điểm cũng sẽ khác nhau. Mỗi khi tồn tại xã hội
thay đổi, đặc biệt là sự thay đổi của phương thức sản xuất thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những
quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật tất yếu sẽ biến đổi theo ở những
mức độ khác nhau.
-Tuy nhiên, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải một cách giản đơn, trực tiếp mà thường
thông qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội
nào cũng phản ánh rõ ràng trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi nào xét đến cùng
thì chúng ta mới thấy được những mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác
trong các tư tưởng ấy.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
-Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
đã khẳng định: Ý thức xã hội không phải là yếu tố thụ động hoặc tiêu cực. Mặc dù chịu sự quy định
và sự chi phối của tồn tại xã hội nhưng ý thức xã hội luôn có tính độc lập tương đối. Tính độc lập
tương đối của ý thức xã hội thể hiện ở năm điểm sau đây:
+Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.
● Lịch sử xã hội đã chứng minh, nhiều khi tồn tại xã hội cũ đã mất đi, thậm chí đã mất rất lâu,
nhưng ý thức xã hội do nó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng hoặc khi xã hội mới ra đời, nhưng ý
thức xã hội không biến đổi kịp để phản ánh nó.
● Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội là do các nguyên nhân sau:
■ Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực
tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người, thường diễn ra với tốc độ
nhanh và ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn
nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi
sau khi có sự biến đổi của tồn tại hội, nhất là phản ánh các hiện tượng xã hội
đòi hỏi phải có thời gian.
■ Do sức mạnh của thói quen, tập quán, truyền thống... cũng như tính bảo thủ
của một số hình thái ý thức (tôn giáo, đạo đức...).
■ Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người,
những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy những tư tưởng cũ lạc hậu
thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm
chống phá các lực lượng xã hội tiến bộ.
○ Tuy nhiên, những ý thức lạc hậu tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Vì vậy,
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công
tác tư tưởng, đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của các lực

59
lượng thù địch, kiên trì xóa bỏ những tàn dư ý thức cũ, đồng thời ra sức phát huy
những truyền thống, tư tưởng tốt đẹp.
+Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
● Triết học Mác - Lênin thừa nhận rằng, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội nhưng
cũng có thể vượt trước tồn tại xã hội. Thực tế là nhiều tư tưởng khoa học và triết học trong
những điều kiện nhất định có thể vượt trước tồn tại xã hội của thời đại rất xa. Sở dĩ ý thức xã
hội có khả năng đó là do nó phản ánh đúng được những mối liên hệ logic, khách quan, tất
yếu, bản chất của tồn tại xã hội.
● Trong những điều kiện lịch sử nhất định, tư tưởng khoa học của con người có thể vượt trước
sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và góp phần chỉ đạo hướng dẫn con
người trong hoạt động thực tiễn cải tạo biến đổi thế giới.
● Song, khi nói tư tưởng tiên tiến có khả năng phản ánh vượt trước tồn tại xã hội thì điều đó
không có nghĩa là nó bị ý thức xã hội quyết định hay do một lực lượng thần bí nào sinh ra. Tư
tưởng khoa học tiên tiến xét cho cùng vẫn là do tồn tại xã hội quyết định.
+Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình.
Ý thức xã hội của mỗi giai đoạn lịch sử vừa là sự phản ánh tồn tại xã hội của mỗi giai đoạn
lịch sử đó lại vừa là sự kế thừa ý thức xã hội của mỗi giai đoạn lịch sử trước đó. Sự kế thừa đó chính
là sự phát triển của ý thức xã hội dựa trên những tiền đề của ý thức xã hội trong các giai đoạn trước.
Không có những tiền đề đó thì không thể có ý thức mới.
+Thứ tư, sự tác động qua lại của của hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng.
● Các hình thái ý thức xã hội gồm có: chính trị, triết học, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn
giáo... Ở mỗi giai đoạn lịch sử, có thể có một hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu tác
động đến hình thái ý thức xã hội khác.
● Trong xã hội có đối kháng giai cấp, thông thường ý thức chính trị có vai trò đặc biệt quan
trọng, chi phối các hình thái ý thức xã hội khác, nó định hướng cho các hình thái ý thức xã hội
khác phát triển phù hợp với lợi ích của các giai cấp, các lực lượng xã hội nhất định.
+ Thứ năm, sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.
● Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội. Vai trò tác động của
ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính
chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vai trò lịch sử của giai cấp
mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu
phát triển xã hội; vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng nhân dân…
● Sự tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội theo hai hướng: Nếu ý thức xã hội phản
ánh đúng quy luật vận động của hiện thực khách quan, của tồn tại xã hội, sẽ góp phần thúc
đẩy tồn tại xã hội phát triển. Nếu ý thức xã hội phản ánh không đúng quy luật vận động của
hiện thực khách quan, của tồn tại xã hội, sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội.
C. Ý nghĩa phương pháp luận
Trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận cơ bản như sau:
Nghiên cứu vấn đề ý thức xã hội, không được dừng lại ở các hiện tượng ý thức mà
phải đi sâu phát hiện những mâu thuẫn của đời sống xã hội – cơ sở làm nảy sinh các hiện
tượng ý thức.
Muốn khắc phục các hiện tượng ý thức cũ và xây dựng ý thức mới phải chú ý tất cả các lĩnh
vực, nhưng về cơ bản lầu dài, triệt để phải chú ý tạo lập một hiện thực cuộc sống để nó là mảnh đất tốt
nảy sinh, tồn tại và phát triển của ý thức tốt đẹp
Cần coi trọng và đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa.
Tư tưởng tác động rất mạnh trở lại hiện thực cuộc sống. Văn hóa là “gương soi của dân tộc” và là yếu
tố nội sinh của đời sống xã hội. Cần thấy được tầm quan trọng và ý nghĩa của ý thức đối với quá trình
hình thành nền văn hóa mới và con người mới.
D. Vận dụng mối quan hệ này trong thời kỳ đổi mới của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng ý thức xã hội mới là vấn đề bức thiết. Xây dựng
ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở xây dựng và
phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa

60
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng ý thức xã hội mới đáp ứng nhu
cầu phát triển đất nước trên cả hai mặt đời sống tinh thần và đời sống vật chất trong thời kỳ đổi mới
và hội nhập, kèm theo là chống những biểu hiện cản trở sự nghiệp xây dựng đó.
Trong điều kiện hiện nay, cùng với sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
Đảng ta thấy được sự cần thiết trong việc tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên
nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư. Quá trình này tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật làm thay đổi những điều kiện kinh tế cũng như
tạo ra cơ sở và môi trường xã hội để thay đổi tư duy, nếp nghĩ, thay đổi thói quen, lối sống... của từng
cá nhân và cả cộng đồng xã hội. Đồng thời, chủ thể của quá trình CNH, HĐH chính là con người. Cho
nên, khi tham gia vào quá trình CNH, HĐH, thực tiễn của quá trình này đòi hỏi những con người đó
buộc phải thay đổi, phải từ bỏ những tư tưởng, thói quen, nếp nghĩ, tập quán... cũ, không còn phù hợp
để hình thành nên những tư tưởng, quan điểm, lối sống... mới, đáp ứng được yêu cầu của đời sống
kinh tế - xã hội hiện nay.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, việc phát huy vai trò của ý thức xã
hội mới có ý nghĩa rất quan trọng. Phát huy vai trò của ý thức xã hội mới hiện nay là tổng hợp những
biện pháp, cách thức làm cho ý thức xã hội mới được ăn sâu, bám rễ, thẩm thấu vào đời sống tinh
thần, tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân. Với hạt nhân tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước, có thể nói,
ý thức xã hội mới đóng vai trò quan trọng nhất trong việc định hướng tư tưởng, văn hóa xã hội; góp
phần xây dựng đạo đức, lối sống mới, tiến bộ cho nhân dân trong bối cảnh sự suy thoái đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân hiện nay đang có những diễn biến nghiêm trọng;
góp phần đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch đang chống phá Đảng và Nhà nước,
công kích, xuyên tạc nhằm bác bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng ta là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Trong hoạt động phòng, chống dịch bệnh Covid-19 vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã biết vận
dụng linh hoạt và sáng tạo mối quan hệ giữa hai phạm trù này, để nâng cao đời sống tồn tại xã hội,
cho người dân, cần có sự đoàn kết, nhất trí của cả hệ thống chính trị. Để hiện thực hóa quan điểm của
Đảng, Nhà nước, lời kêu gọi của Tổng Bí Thư, đòi hỏi cần phải phát huy được “liều vắc-xin hữu hiệu
nhất” trong các liều vắc-xin hữu hiệu - đó là “ý thức công dân”. Đồng thời, cần phải luôn luôn cảnh
giác với các thế lực thù địch, những tư tưởng phản động tác động xấu đến ý thức, đời sống tinh thần
của người dân, góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Tóm lại, trong hệ thống lý luận của triết học Mác - Lênin, vấn đề ý thức xã hội là một nội
dung quan trọng góp phần tạo cơ sở lý luận cho quan điểm duy vật về lịch sử, và cùng với học thuyết
giá trị thặng dư, đã trở thành hai phát kiến vĩ đại của chủ nghĩa Mác. Nhận thức sâu sắc những vấn đề
lý luận về ý thức xã hội của triết học Mác và vận dụng hợp lý chúng trong xây dựng ý thức xã hội mới
nói riêng và đời sống tinh thần nói chung sẽ góp phần thiết thực vào thành công của công cuộc xây
dựng đất nước theo định hướng XHCN.

Câu 12: Tính vượt trước của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội. Ý nghĩa của nó trong việc xây
dựng đời sống tinh thần của Việt Nam hiện nay.
A. Tính vượt trước của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội.
Khái niệm tồn tại xã hội: Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội. Tồn tại xã hội của con người là thực tại xã hội khách quan, là một kiểu vật chất xã
hội, là các quan hệ xã hội vật chất được ý thức xã hội phản ánh. Trong các quan hệ xã hội vật chất thì
quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và quan hệ giữa con người với con người là những quan hệ
cơ bản nhất.
Khái niệm ý thức xã hội: Ý thức xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng để
giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội. Ý thức xã hội chính là xã hội tự nhận thức
về mình, về sự tồn tại xã hội của mình và về hiện thực xung quanh mình. Nói cách khác, ý thức xã hội
là mặt tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận hợp thành của văn hoá tinh thần của xã hội. Văn hoá
tinh thần xã hội mang nặng dấu ấn đặc trưng của hình thái kinh tế - xã hội, của các giai cấp đã tạo ra
nó.

61
-Triết học Mác – Lênin thừa nhận rằng, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội nhưng cũng có
thể vượt trước tồn tại xã hội. Thực tế trong nhiều điều kiện nhất định, nhiều tư tưởng khoa học và triết
học có thể vượt trước tồn tại xã hội của thời đại rất xa. Sở dĩ ý thức xã hội có khả năng đó là do nó
phản ánh đúng những mối liên hệ logic, khách quan, tất yếu, bản chất của tồn tại xã hội.
-Ý thức xã hội chính là xã hội tự nhận thức về mình, về sự tồn tại xã hội của mình và về hiện thực
xung quanh mình. Chính vì thế, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội. Bên cạnh đó, sự phản ánh này
không phải là sự phản ánh thụ động, bất động mà là một quá trình biện chứng phức tạp, là kết quả của
mối quan hệ hoạt động, tích cực của con người đối với hiện thực. Nhờ vậy mà ý thức xã hội có thể
nhận thức được cái bản chất, cốt lõi, những mâu thuẫn trong lòng xã hội, từ đó phân tích, vạch định
xu hướng vận động, phát triển của tồn tại xã hội.
-Lịch sử đã cho thấy nhiều dự báo của các nhà tư tưởng lớn phải sau một thời gian, có thể ngắn hoặc
rất dài mới được thực tiễn xác nhận. Nhiều dự báo của C.Mác đang trở thành sự thật trong thời đại
chúng ta đã hoàn toàn khẳng định điều đó. Chẳng hạn, dự báo tri thức trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp đang được thực tiễn của cuộc cách mạng chuyển đối công nghệ số, thời đại trí tuệ nhân tạo
hay cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, thời đại kinh tế tri thức xác nhận. Đặc biệt, khi đánh
giá rằng, xã hội tư bản "hoàn toàn không phải là một khối kết tinh vững chắc, mà là một cơ thể có
khả năng biến đổi" thì chính C.Mác đã chỉ ra các quy luật vận động tất yếu của xã hội và cũng đã dự
báo về sự thay thế không thể tránh khỏi của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng phương thức
sản xuất cao hơn – phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Biểu hiện:
● Khoa học: Thuyết nguyên tử của Đêmôcrit đã có từ thời kì cổ đại nhưng mãi đến sau này,
cùng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, người ta mới chứng minh, khẳng định được
quan điểm đó là đúng, là hiện thực
● Triết học: Chủ nghĩa Mác ra đời đã nhận thức được những mâu thuẫn trong lòng xã hội và dự
báo về sự thay thế của CNTB bằng một hình thái xã hội tiến bộ hơn là CNXH
Liên hệ
Chủ nghĩa Mác ra đời những năm 40 TK XIX. Vào thời điểm ấy, C.Mác đã nhìn thấy hiện thực và
mâu thuẫn trong lòng TBCN. Đó là mâu thuẫn giữa LLSX mang tính xã hội hoá cao với QHSX dựa
trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX. Mâu thuẫn ấy biểu hiện ở lĩnh vực chính trị - xã hội,
ở mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Xuất phát từ hiện thực mâu thuẫn cơ bản
trong lòng chủ nghĩa tư bản, các nhà kinh điển Mácxít đã đưa ra dự báo về cách mạng vô sản hay cách
mạng xã hội chủ nghĩa về sau là tất yếu nổ ra và giành thắng lợi. Dự báo này khi đặt bối cảnh vào thời
kì C.Mác, Ăngghen chưa trở thành hiện thực. Thế nhưng, xuất phát từ mâu thuẫn xã hội, họ đã chỉ ra
một tất yếu lịch sử, CNXH sẽ ra đời trên sự phát triển của CNTB. Mãi cho đến CMT10 Nga, lời "tiên
đoán" của C.Mác mới thành hiện thực đã chứng tỏ những dự báo của C.Mác đã đi trước thời đại của,
dựa trên cơ sở căn cứ vào hiện thực khách quan.
Tư tưởng khoa học, lý luận triết học vượt trước so với tồn tại xã hội dự báo sự phát triển tồn tại xã hội
nếu xuất phát từ hiện thực, từ thực tiễn. Tư tưởng, lý luận khoa học dự báo xu hướng vận động phát
triển của tồn tại xã hội chỉ khi nó xuất phát từ hiện thực xã hội. Tuy nhiên, cũng có tư tưởng vượt
trước lại là phản khoa học nếu nó xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người.
B. Ý nghĩa của nó trong việc xây dựng đời sống tinh thần của Việt Nam hiện nay.

62
Trong bối cảnh hiện nay với những điều kiện mới, cùng với sự phát triển của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, Đảng ta nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên
nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư...”. Quá trình này tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật làm thay đổi những điều kiện kinh tế cũng
như tạo ra cơ sở và môi trường xã hội để thay đổi tư duy, nếp nghĩ, thay đổi thói quen, lối sống... của
từng cá nhân và cả cộng đồng xã hội. Đồng thời, chủ thể của quá trình CNH, HĐH chính là con
người. Cho nên, khi tham gia vào quá trình CNH, HĐH, thực tiễn của quá trình này đòi hỏi những con
người đó buộc phải thay đổi để hình thành nên những tư tưởng, quan điểm, lối sống mới, đáp ứng
được yêu cầu của đời sống kinh tế - xã hội hiện nay. Như vậy, ý thức xã hội cần có sự điều chỉnh phù
hợp.

Câu 13: Tại sao ý thức xã hội lại thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Cho ví dụ chứng
minh?
A. Khái niệm:
● Tồn tại xã hội: Là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội
● Ý thức xã hội: Là phương diện sinh hoạt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm các quan
điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống... của cộng đồng xã hội, nảy sinh từ tồn tại
xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội bởi vì những nguyên nhân sau:
● Do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp từ những hoạt động thực tiễn của con
người, tồn tại xã hội thường diễn ra với tốc độ nhanh. Mà ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn
tại xã hội nên nó chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Dẫn đến không phản
ứng kịp và trở nên lạc hậu
● Do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của
một số hình thái xã hội. V.I.Lênin cũng cho rằng: sức mạnh của tập quán được tạo ra qua
nhiều thế kỷ là sức mạnh ghê gớm nhất.
● Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp
nhất định trong xã hội. Vì vậy những tư tưởng lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản
động lưu trữ và truyền bá nhằm chống lại những lực lượng xã hội tiến bộ.

B. Ví dụ minh hoạ(Liên hệ)


● Quan điểm xưa: Người phụ nữ sau khi kết hôn phải làm việc nội trợ ở nhà, không được phát
triển sự nghiệp cá nhân nữa mà phải chăm sóc cho gia đình
● Quan điểm nay: Người phụ nữ độc lập, có khả năng làm điều mình muốn, vừa chăm lo gia
đình vừa gầy dựng sự nghiệp cá nhân.
→ Tuy nhiên, vẫn bắt gặp những quan điểm xưa tồn tại đâu đó trong xã hội:
● Quan điểm xưa: đàn ông không được vào bếp, đàn bà không được can dự chính trị, việc lớn,..
● Quan điểm nay: bình đẳng, bất kì ai cũng có thể vào bếp, nam nữ đều tham gia vào các hoạt
động của nhà nước, địa phương,.... Thế nhưng, ở một vài nơi, một vài cá nhân vẫn còn giữ
quan niệm này: Hủ tục ma chay, cưới hỏi tư tưởng trọng nam khinh nữ, phụ quyền, gia
trưởng, hủ tục bắt vợ. Công cụ lao động mới ra đời, nhiều người chưa cập nhật thông tin nên
chưa hiểu và chưa sử dụng được.

63
-Quan điểm triết học Mác - Lênin đã chỉ rõ, sự lạc hậu trong quá trình phát triển của ý thức xã
hội là điều không tránh khỏi. Ở nước ta hiện nay, sự tồn tại của những tư tưởng, phong tục, tập quán
lạc hậu vẫn còn khá phổ biến, với những biểu hiện như trọng nam khinh nữ, gia trưởng...; là sự tồn tại
của tâm lý tiểu nông với biểu hiện rất đa dạng như thói tự do, tùy tiện, tâm lý “ăn xổi, ở thì”, thiếu
nhìn xa, trông rộng...; của tâm lý làng xã, biểu hiện ở thói cục bộ địa phương cũng như những tư
tưởng, thói quen, tập quán tiêu cực được hình thành trong thời kỳ tập trung bao cấp... Những tư tưởng,
phong tục, tập quán lạc hậu này vẫn đang tác động tới đời sống xã hội. Bên cạnh đó, những hình thái
khác của ý thức xã hội cũng có thể ảnh hưởng đến chế độ XHCN mà Đảng và Nhà nước ta đang từng
bước xây dựng. Do vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng của việc xây dựng đời sống tinh thần
nói chung và ý thức xã hội mới nói riêng hiện nay ở nước ta là tiến hành đấu tranh hạn chế và khắc
phục các loại hình tư tưởng, phong tục, tập quán cũ, lạc hậu đó. Nhận thức được tầm quan trọng của
vấn đề này, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Chúng ta phải thay đổi triệt để những
nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm... chúng ta phải biến một
nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”. Tuy nhiên, do
những tư tưởng, phong tục, tập quán này đã tồn tại lâu dài, đã len lỏi vào những khía cạnh sâu xa
trong đời sống xã hội cũng như ở mỗi con người nên quá trình khắc phục những biểu hiện tiêu cực
không hề đơn giản mà là cả một quá trình khó khăn, lâu dài. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng (năm
2021) cũng xác định: “Từng bước hạn chế, tiến tới xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu” chứ không thể
nhanh chóng xóa bỏ ngay được các hủ tục, tập quán đó.
-Nhờ có sự lãnh đạo kịp thời, sáng suốt của Đảng và Nhà nước mà xã hội trong những năm gần
đây đã có nhiều biến chuyển. Ý thức xã hội càng phát triển, tư tưởng, nhận thức quan điểm của người
dân lại càng có nhiều thay đổi. Đảng và Nhà nước đã, đang cố gắng nhằm định hướng ý thức xã hội
theo hướng tích cực, ủng hộ chế độ XHCN, tránh sự lệch lạc về nhận thức và hành vi, đe dọa đến sự
phát triển của nhà nước XHCN Việt Nam. Việc phát huy vai trò của ý thức xã hội mới hiện nay là
tổng hợp những biện pháp, cách thức làm cho ý thức xã hội mới được ăn sâu, bám rễ, thẩm thấu vào
đời sống tinh thần, tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân. Với hạt nhân tư tưởng là chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
có thể nói, ý thức xã hội mới đóng vai trò quan trọng nhất trong việc định hướng tư tưởng, văn hóa xã
hội, góp phần xây dựng đạo đức, lối sống mới, tiến bộ cho nhân dân trong bối cảnh sự suy thoái đạo
đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân hiện nay đang có những diễn biến
nghiêm trọng và góp phần đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch đang chống phá Đảng
và Nhà nước, công kích, xuyên tạc nhằm bác bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng ta là chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tóm lại, nhận thức sâu sắc những vấn đề lý luận về ý thức xã hội của triết học Mác và vận dụng hợp
lý chúng trong xây dựng ý thức xã hội mới nói riêng và đời sống tinh thần nói chung sẽ góp phần thiết
thực vào thành công của công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng XHCN.

Câu 14: Tại sao nói quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo chân chính ra lịch sử? Phê phán
những quan điểm sai lầm về vấn đề này?
A. Quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo chân chính ra lịch sử
-Quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo chân chính ra lịch sử, bởi vì: Mọi lý tưởng giải phóng xã
hội, giải phóng con người chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng
nhân dân. Hơn nữa, tư tưởng xã hội không bao giờ là tư tưởng thuần tuý của một cá nhân mà là phản
ánh điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội dưới các dạng và trình độ khác nhau, được tổng hợp lại qua
một số nhà tư tưởng nào đó. Tư tưởng chỉ có tác dụng tích cực đến lịch sử khi nó phản ánh được
nguyện vọng, lợi ích của quần chúng trong những giai đoạn lịch sử nhất định; và sức mạnh, tính chân
lý của nó chỉ được chứng tỏ thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng. Mặt khác, tư tưởng tự
nó không biến đổi được xã hội mà phải thông qua hoạt động cách mạng của quần chúng.

64
→Như vậy, chính quần chúng nhân dân mới là người kết hợp lý luận với thực tiễn cải tạo xã hội,
hiện thực hóa những tư tưởng, quan điểm xã hội phù hợp với tiến trình phát triển xã hội. Lãnh tụ
dù uyên bác, tài giỏi nhưng không có uy tín, không được quần chúng ủng hộ, hoặc do tác phong quan
liêu, hách dịch, coi khinh quần chúng thì bản thân lãnh tụ đó cũng sẽ đánh mất vai trò lãnh tụ của
mình.

B. Phê phán những quan điểm sai lầm về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử
Quan điểm tôn giáo cho rằng, mọi sự thay đổi trong lịch sử xã hội là do ý chí của Đấng tối cao, do
mệnh trời quy định và trao quyền cho các cá nhân – vĩ nhân thực hiện.
-Chủ nghĩa duy tâm tiếp tục đề cao vai trò của các vĩ nhân, coi thường quần chúng nhân dân, coi
quần chúng nhân dân chỉ là công cụ, là phương tiện để các vĩ nhân lập nên những chiến tích lịch sử.
-Chủ nghĩa duy vật trước Mác vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm về xã hội khi cho rằng, nhân
tố quyết định sự phát triển của xã hội là các chân lý vĩnh cửu - tư tưởng đạo đức, pháp luật…, là các
vĩ nhân và chỉ có họ mới sớm nhận thức được chân lý vĩnh cửu thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
→Tóm lại, các trường phái triết học triết Mác đều chưa nhận thức đúng đắn về vai trò của
quần chúng nhân dân trong lịch sử. Bằng cách này hay cách khác, họ đã phủ nhận vai trò của quần
chúng nhân dân, coi thường quần chúng nhân dân, coi quần chúng nhân dân là “đàn cừu ngoan
ngoãn”, để các vĩ nhân sai khiến, lợi dụng; coi quần chúng nhân dân chỉ là vật liệu, phương tiện, bệ tỳ
của lịch sử. Các quan điểm trên hoàn toàn xa lạ với quan điểm của triết học Mác – Lênin.

Câu 15: Phân tích vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử. Ý nghĩa của vấn đề
này trong việc quán triệt bài học “Lấy dân làm gốc”.
A. Khái niệm và vai trò:
Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò trong lịch sử:
-Khái niệm quần chúng nhân dân: Quần chúng nhân dân là thuật ngữ chỉ tập hợp đông đảo những con
người hoạt động trong một không gian và thời gian xác định, bao gồm nhiều thành phần, tầng lớp xã
hội và giai cấp đang hoạt động trong một xã hội xác định. Đó có thể là toàn bộ quần chúng nhân dân
của một quốc gia, một khu vực lãnh thổ xác định. Họ có chung lợi ích khoa học cơ bản liên hiệp với
nhau, chịu sự lãnh đạo của một tổ chức, một đảng phái, cá nhân xác định để thực hiện những mục tiêu
kinh tế, chính trị, văn hóa hay xã hội xác định của một thời kỳ lịch sử nhất định.
-Vai trò của quần chúng nhân dân:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử,
vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở 3 nội dung sau:
● Thứ nhất: quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra
của cải vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội.
● Thứ hai: Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
● Thứ ba: Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần .
Như vậy, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Tuy nhiên, tùy vào điều
kiện lịch sử mà vai trò chủ thể của quần chúng nhân dân cũng biểu hiện khác nhau. Chỉ có trong
chủ nghĩa xã hội, quần chúng nhân dân mới đủ điều kiện phát huy tài năng và sáng tạo của mình.

Khái niệm lãnh tụ và vai trò của lãnh tụ trong lịch sử:
-Khái niệm lãnh tụ:

65
Lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất, xuất hiện trong phong trào quần chúng nhân dân, nhận thức được
một cách đúng đắn, nhanh nhạy, kịp thời những yêu cầu, những vấn đề căn bản nhất của một lĩnh vực
hoạt động nhất định của đời sống xã hội hoặc là kinh tế, hoặc là chính trị, hoặc là văn hóa, khoa học,
nghệ thuật v.v…, dám quên mình vì lợi ích của quần chúng nhân dân, có năng lực nhận thức và hoạt
động thực tiễn. Ngoài phẩm chất cá nhân, lãnh tụ còn phải có những phẩm chất xã hội như được quần
chúng tín nhiệm, gắn bó mật thiết với quần chúng, đặt lợi ích của quần chúng nhân dân lên trên lợi ích
cá nhân, có khả năng tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất nhận thức, ý chí và hành động của
nhân dân. Như vậy, lãnh tụ phải là người có những phẩm chất cơ bản sau đây:
● Thứ nhất, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động của dân tộc, quốc tế
và thời đại.
● Thứ hai, có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần
chúng nhân dân vài nhiệm vụ của dân tộc, quốc tế và thời đại.
● Thứ ba, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh quên mình vì lợi ích của dân tộc,
quốc tế và thời đại
-Vai trò của lãnh tụ trong lịch sử:
Lãnh tụ có vai trò to lớn đối với phong trào quần chúng nhân dân. Điều này được thể hiện ở ba điểm
chủ yếu sau: Một là, hoạt động của lãnh tụ có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của phong trào
quần chúng nhân dân, từ đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển xã hội. Hai là, lãnh tụ là
người sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội, là linh hồn của các tổ chức đó. Ba là, lãnh tụ của mỗi
thời đại, chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra của thời đại đó. Không có lãnh tụ cho mọi thời
đại.

B. Về việc quán triệt bài học “Lấy dân làm gốc”


-Tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh có vị trí đặc biệt quan trọng, là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta. Tư tưởng đó là sự kế thừa, phát huy truyền
thống lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc và quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin về vai trò của nhân dân trong lịch sử.
-Trong mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ, chủ nghĩa Mác -
Lênin khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đồng thời đánh giá cao vai trò của lãnh
tụ. Quần chúng nhân dân là lực lượng đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của lịch sử xã hội,
là động lực của sự phát triển đó. Lãnh tụ là người dẫn dắt, định hướng cho phong trào, thúc đẩy phong
trào phát triển, do đó mà thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội.
-Quần chúng nhân dân và phong trào của họ tạo nên các lãnh tụ và những điều kiện, tiền đề khách
quan để các lãnh tụ xuất hiện và hoàn thành các nhiệm vụ mà lịch sử đặt ra cho họ. Lãnh tụ là sản
phẩm của thời đại, của cộng đồng, của phong trào. Sự xuất hiện của họ và khả năng giải quyết được
các nhiệm vụ của lịch sử nhanh hoặc chậm, nhiều hoặc ít sẽ thúc đẩy sự vận động, phát triển của
phong trào quần chúng nhân dân.
-Mục đích và lợi ích của quần chúng nhân dân và lãnh tụ là thống nhất. Quan hệ lợi ích là cầu nối liên
kết các nhân, quần chúng nhân dân, lãnh tụ với nhau thành một khối thống nhất ý chí và hành động.
-Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, lợi
ích chính đáng của nhân dân; phải tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, vì nhân dân
phục vụ. Bởi lẽ, nhân dân là người chủ thực sự của đất nước, là lực lượng lao động cơ bản của xã hội,
chủ thể sáng tạo lịch sử; là lực lượng quyết định sự thành bại của cách mạng; nếu không có quần
chúng nhân dân thì không có lịch sử nào cả.
-Người chỉ rõ: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân
anh hùng nào”. Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn đã nói, “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ
bền gốc. Đó là thượng sách giữ nước”; Nguyễn Trãi khẳng định, “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng
là dân”. Trong thời đại Hồ Chí Minh, tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” của Người là gốc rễ, là cơ sở,
nền tảng hình thành đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, độc đáo, sáng tạo, góp phần
quan trọng vào việc phát huy sức mạnh tổng hợp để đánh bại mọi kẻ thù xâm lược.

66
-Bởi quần chúng nhân dân là lực lượng đóng vai trò là động lực của sự phát triển của lịch sử xã hội, là
thành phần tạo nên lãnh tụ, do đó cần quán triệt bài học “Lấy dân làm gốc”, lãnh tụ phải tôn trọng và
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, vì nhân dân phục vụ.

67

You might also like