You are on page 1of 18

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN


KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

----------------------

BÀI TIỂU LUẬN


MÔN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN


CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG XÃ HỘI XHCN Ở VIỆT NAM

GVHD: THS.NGUYỄN THỊ HẢI LÊN


LỚP: POS 351 AC
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 6 :
1.Trần Thị Kim Chi - 25202102353
2. Võ Đào Hoài Ngọc - 26202142006
3. Phạm Ngọc Quỳnh - 27202530661
4. Phạm Đinh Dương Sang - 27214302292
5. Trần Lê Phương Thảo - 26202132337
6. Đào Phan Chí Trung - 25214303952

NĂM HỌC 2022 - 2023


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………….3
PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………………………….4

Chương I: Cơ sở lý luận chung của chủ nghĩa Mác Lê-nin về CNXH và thời kì quá độ
lên CNXH……………………………………………………………………………………4
I - Sự ra đời của Chủ nghĩa xã hội khoa học…………………………………………….4
1.1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời của Chủ nghĩa xã hội khoa học………………………..4
1.1.1- Điều kiện kinh tế xã hội………………………………………………………4
1.1.2- Tiêu đề khoa học tự nhiên và tư tưởng lý luận……………………………….4
1.2. Vai trò của các Mác và Ăngghen………………………………………………...4
1.2.1- Sự chuyển biến lập trường triết học và lập trường chính trị………………….4
1.2.2- Ba phát kiến vĩ đại của C. Mác và Ph.Ăngghen……………………………...5
1.2.3- Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa
học…………………………………………………………………………………….5
II - Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác- Lênin…………………...5
III - Sự bổ sung và phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng
ta……………………………………………………………………………………………..6
3.1. Sự bổ sung lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta………6
3.2. Sự phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta…….8
Chương II: Thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam………………………….9
I - Vì sao Việt Nam lại chọn con đường xã hội chủ nghĩa………………………………9
1.1. Tình hình của Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX……………………………9
1.2. Quá trình hình thành……………………………………………………………..10
2. Được kế thừa kiến thức từ các nước chủ nghĩa xã hội Đông Âu và Liên
Xô…………………………………………………………………………………….11
2.1. Tình hình phát triển của các nước chủ nghĩa xã hội…………………………...11
2.2. Sự kế thừa và cải cách nhằm đi lên xã hội chủ nghĩa………….………………12
II - Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng CNXH ở Việt
Nam…………………………………………………………………………………………12
2.1. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam………………..12
2.2. Những thành tựu và những hạn chế của chủ nghĩa xã hội………………………13
III - Vận dụng kiến thức về chủ nghĩa Mác Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào công
cuộc đổi mới xấy dựng CNXH ở Việt Nam………………………………………………14
3.1. Trong đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa
Mác Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh………………………………………………14
3.2. Đổi mới là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, do đó phải phát huy quyền làm chủ
của dân, khơi dậy mạnh mẽ nội lực để công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất
nước…………………………………………………………………………………15
3.3. Kết hợp sức mạnh dân tọc với sức mạnh thời đại………………………………15
3.4. Xây dựng đảng, xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh, chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, cần kiệm xây dựng đất nước………………………………………15

1
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………………15

TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………………….16

2
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mác Lê-nin hệ thống lý luận khoa học cách mạng, tổng kết, đúc rút từ phân tích
tồn lịch sử nhân loại thực tiễn xã hội thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản, kế thừa cách có hệ
thống giá trị tư tưởng thành tựu khoa học quan trọng loài người. Nó cung cấp cho chúng ta
một thế giới quan khoa học và cách mạng, những quy luật phổ biến về sự vận động phát triển
tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Vận dụng chủ nghĩa Mác Lê-nin phải luôn hướng tới
mục tiêu cuối cùng và quan trọng nhất, đó là con người. Trogn suốt hành trình của mình, chủ
nghĩa Mác Lê-nin không bao giời rời xa mục tiêu giải phóng con người, giải phóng xã hội,
giải phóng loài người. Đó là tư tưởng khoa học, mang tính nhân văn cao cả và phù hợp với
nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động trên toàn thế giới.
Tại Việt Nam, từ những năm 20 của thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác Lê-nin thâm nhập vào thông
qua lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và một số chiến sĩ cách mạng tiền bối thời bấy giờ và ngày càng
được truyền bá rộng rãi. Chủ nghĩa Mác Lê-nin đã đem lại cho chúng ta nền tảng tư tưởng
vững chắc, những điểm tự lý luận, phương pháp luận khoa học sâu sắc giúp chúng ta nâng
cao tầm tư tưởng, tầm trí tuệ, tư duy độc lập, sáng tạo. Tìm ra con đường và giải pháp đúng
để xử lý các vấn đề quan trọng tỏng cách mạng giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác Lê-nin vào hoàn cảnh lịch sử đặc thù
của Việt Nam. Người đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội nhờ có sự giác ngộ của
chủ nghĩa Mác Lê-nin, nắm bắt được tinh thần và xu thế phát triển của thời đại, kiên định
mục tiêu độc lập dân tọc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người đã nhiều lần khẳng định rằng,
chỉ có CNXH và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập dân tộc,
mới xóa bỏ vĩnh viễn ách áp bực, bóc lột và nơ dịch, mới giả quyết tận gốc vấn đề giải phóng
xã hội, giải phóng con người.
Từ khi ra đời cho đền nay, nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng ta đã dẫn dắt cách mang
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thực tiễn công cuộc xây dụng CNXH ở
Việt Nam đã minh chứng hùng hồn: Bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn cao cả là
nguồn gốc sức mạnh của chủ nghĩa Mác Lê-nin. Công cuộc đổi mới và xây dụng CNXH ở
Việt Nam đã chứng tỏ sức sống mãng liệt của mình và ngày càng thu được những thành tựu
to lớn. Kiên định với bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác Lê-nin và vận dụng
sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam nhất định Đảng ta sẽ lạnh đạo Nhân dân ta xây
dựng thành công một nước Việt Nam XHCN “ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh “.

3
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI 

I - SỰ RA ĐỜI CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC


- Theo nghĩa rộng, Chủ nghĩa xã hội khoa học là khoa học luận giải từ các góc độ triết học,
kinh tế học chính trị và chính trị - xã hội về sự chuyển biến tất yếu của xã hội loài người từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. 
- Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa
Mác – Lênin. Trong khuôn khổ môn học này, chủ nghĩa xã hội khoa học được nghiên cứu
theo nghĩa hẹp.
1.1.Hoàn cảnh lịch sử ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học 
1.1.1. Điều kiện kinh tế xã hội
- Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp phát triển mạnh mẽ tạo
nên nền đại công nghiệp.Giai cấp công nhân đối lập với giai cấp tư sản.Sự phát triển của
phong trào công nhân đã minh chứng, lần đầu tiên, giai cấp công nhân đã xuất hiện như một
lực lượng chính trị độc lập, đòi hỏi một cách bức thiết phải có một hệ thống lý luận soi
đường và một cương lĩnh chính trị làm kim chi nam cho hành động.
1.1.2. Tiêu đề khoa học tự nhiên và tư tưởng lý luận
 Tiêu đề khoa học tự nhiên
- Học thuyết tiến hóa (Charles Robert Darwin)
- Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng ( Mikhail Vasilyevich Lomonosov,
Julius Robert Mayer )
- Học thuyết tế bào ( Matthias Jakob Schleiden, Theodor Schwann)
 Tiền đề tư tưởng lý luận
- Triết học cổ điển Đức:Ph.Hêghen: Ph.Hêghen và L. Phoiơbắc 
 - Kinh tế chính trị học cổ điển Anh với A.Smith và D.Ricardo;
-  Chủ nghĩa không tưởng phê phán mà đại biểu là Xanh Ximông, S.Phuriê và
R.Ooen.
- Những tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp thế kỉ XIX, sự kế thừa và phát
triển những mầm mống, khuynh hướng tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng thời cổ
đại, trung đại, những tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng thế kỉ XVI-XVIII có
những giá trị nhất định. Tuy nhiên những tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng phê
phán còn không ít những hạn chế hoặc do điều kiện lịch sử; hoặc do chính sự hạn chế
về tầm nhìn và thế giới quan của những nhà tư tưởng 
    => Tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
1.2. Vai trò của Các Mác và Ăngghen
1.2.1. Sự chuyển biến lập trường triết học và lập trường chính trị
- C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa “hạt nhân hợp lý”, cải tạo và loại bỏ cải vỏ thần bí
duy tâm, siêu hình để xây dựng nên lý thuyết mới chủ nghĩa duy vật biện chứng. 
- Với C.Mác, thông qua tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen - Lời nói đầu”, đã thể hiện rõ sự chuyển biến từ thế giới quan duy tâm sang
thế giới quan duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ
nghĩa . 
4
- Đối với Ph.Ăngghen, tác phẩm ‘Tình cảnh nước Anh"; “Lược khảo khoa kinh tế -
chính trị” đã thể hiện rõ sự chuyển biến từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan
duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa. 
=>Từ 1843 -1848, C.Mác và Ph.Ăngghen đã thể hiện quá trình chuyển biến 5 lập trường
triết học và lập trường chính trị và từng bước củng cố, kiên định, nhất quán và vững chắc lập
trường đó.
              1.2.2. Ba phát kiến vĩ đại của C. Mác và Ph.Ăngghen
 Chủ nghĩa duy vật lịch sử
- Là phát kiến vĩ đại thứ nhất của C.Mác và Ăngghen; là cơ sở về mặt triết học để
nghiên cứu xã hội tư bản chủ nghĩa và khẳng định sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và
sự thắng lợi của chủ nghĩa sụp đổ của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là tất yếu
như nhau
 Học thuyết về giá trị thặng dư
- Học thuyết giá trị thặng dư, phát kiến vĩ đại thứ hai của C.Mác và Ăngghen; là sự
luận chứng khoa học về phương diện kinh tế khẳng định cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân chống giai cấp tư sản diễn ra ngay từ đầu và sự diệt vong của chủ nghĩa tư
bản và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là tất yếu như nhau
- Học thuyết này đã chỉ rõ bản chất của chế độ làm thuê trong chế độ tư bản; đã chứng
minh một cách khoa học về loại “hàng hóa đặc biệt”, hàng hóa sức lao động của công
nhân mà nhà tư bản, giai cấp tư sản đã mua và có những thủ đoạn tinh vi chiếm đoạt
ngày càng lớn” giá trị thặng dư” được sinh ra nhờ bóc lột sức lao động của công nhân.
 Học thuyết về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân 
- Trên cơ sở hai phát kiến vĩ đại trên, C.Mác và Ăngghen đã có phát kiến vĩ đại thứ
ba,sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân. Học thuyết này đã luận
chứng về sâu sắc, bản chất về phương diện chính trị- xã hội của sự diệt vong không
tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội 
   1.2.3. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội
khoa học
- Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (2/1848) đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa
học: là cương lĩnh chính trị, là kim chỉ nam hành động của toàn bộ phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế.

II - Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác- Lênin
- Lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một nội dung quan trọng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, luận giải giai đoạn chuyển tiếp còn đan xen những yếu tố, đặc điểm của cả hai
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn thấp là XHCN) và hình thái kinh tế -
xã hội tư bản chủ nghĩa
- Có hai hình thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội là quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp. Các
nước tư bản ở trình độ phát triển cao đã tạo được những tiền đề về vật chất cho sự phát triển
nên thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có thể thực hiện rút ngắn
 Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Trên lĩnh vực kinh tế: tồn tại nhiều thành phần bên cạnh các thành phần kinh tế nhà
nước và tập thể còn có các thành phần kinh tế khác với nhiều hình thức sở hữu khác
về tư liệu sản xuất. V.I Lênin cho rằng thời kỳ quá độ tồn tại 5 thành phần kinh tế:

5
kinh tế gia trưởng, kinh tế hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản, kinh tế nhà nước, kinh tế xã
hội chủ nghĩa
- Trên lĩnh vực chính trị: thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội về
phương diện chính trị, là việc thiết lập, tăng cường chuyên chính vô sản mà thực chất
của nó là việc giai cấp công nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp
vô sản, tiến hành xây dựng một xã hội không giai cấp. Cuộc đấu tranh diễn ra trong
điều kiện mới- giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền, với nội dung mới-
xây dựng toàn diện xã hội mới, trọng tâm là xây dựng nhà nước có tính kinh tế và
hình thức mới- cơ bản là hòa bình tổ chức xây dựng
- Trên lĩnh vực tư tưởng- văn hóa: bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư
tưởng tư sản, tâm lý tiểu nông. Các yếu tố văn hóa cũ và mới đan xen nhau và đấu
tranh nhau
- Trên lĩnh vực xã hội: Do kết cấu của nền kinh tế nhiều thành phần quy định nên
trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác biệt giữa các tầng
lớp xã hội, các giai cấp, tầng lớp vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. 
 Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
 - Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc và
từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất, cách mạng
dân tộc - dân chủ nhân dân đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước
cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 
- Đặt dưới nhu cầu đi lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta thấy được những lợi ích trong
đổi mới kinh tế. Bên cạnh các phát triển mọi mặt và nhu cầu hợp tác toàn cầu. Do đó
tính dân chủ cần được phản ánh hiệu quả thông qua quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với
một đất nước với tính chất thuộc địa như nước ta bấy giờ, các tính dân chủ không
được phản ánh. Khi đó, người dân không đảm bảo với quyền lợi đáng ra được hưởng.
Bên cạnh các nỗ lực xây dựng kinh tế cá nhân hay kinh tế đất nước. Chủ

nghĩa xã hội sẽ mang đến các đảm bảo thông qua hệ thống pháp luật được ban hành
trên phạm vi cả nước.
- Tính dân tộc và nhu cầu độc lập dân tộc luôn tồn tại trong mong muốn của dân tộc
ta. Bên cạnh mong muốn trong dân chủ. Quyền lực phải được phản ánh thông qua ý
thức dân chủ. Đảng cộng sản mang những phản ánh trong đảm bảo tính dân chủ ấy.
Bởi sự quản lý và lãnh đạo của nhà nước chỉ mang tính chất đại diện và thể hiện tiếng
nói dân tộc. Mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Và
những mục tiêu này chỉ được xây dựng với nhu cầu đi lên chủ nghĩa xã hội.

III- Sự bổ sung và phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng
ta:
3.1. Sự bổ sung lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta

  Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ
Đại hội lần thứ VI (1986) đã thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Trên tinh
thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” Đảng Cộng sản Việt Nam

6
không chỉ thành công trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc mà còn có những đóng
góp to lớn vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
  Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn vận
dụng sáng tạo và bổ sung, phát triển lý luận về TKQĐ lên CNXH phù hợp với đặc điểm, bối
cảnh, tình hình cách mạng nước ta, thể hiện ở tổng quan chung, lịch sử và cụ thể, đó là:

- Khẳng định phương hướng, con đường tất yếu đi lên CNXH và CNCS của cách
mạng Việt Nam là theo con đường chung: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa
xã hội” như chủ nghĩa Mác - Lênin đề ra. Đó là con đường đã được Cương lĩnh đầu
tiên của Đảng xác định: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản”; và Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ ra: “Theo quy
luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”. Con
đường đó tất yếu sẽ trải qua TKQĐ lên CNXH với những dấu ấn, đặc trưng của cách
mạng Việt Nam.
- Thừa nhận tính chất khó khăn, phức tạp, lâu dài, nhưng làm rõ đặc điểm TKQĐ lên
CNXH ở Việt Nam: “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” [1]; “một thời kỳ cải biến
cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả
về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng” [2]; “là sự nghiệp
rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ” [3].
 
- Thừa nhận ở Việt Nam có một TKQĐ lên CNXH, nhưng bổ sung, xác định nội dung
mới: “quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc
xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất,
xây dựng nền kinh tế hiện đại” [4]. Lựa chọn hình thức quá độ gián tiếp, nhưng Đảng
có bước phát triển mới về nhận thức là không bỏ qua hoàn toàn CNTB với tính cách là
một hình thái kinh tế - xã hội TBCN, mà kế thừa có chọn lọc những thành tựu, trước
hết là về khoa học và công nghệ nhân loại đạt được trong CNTB, chỉ bỏ qua CNTB
với tính cách là một chế độ chính trị.
 
- Thừa nhận định tính phổ quát về kinh tế, chính trị, xã hội của TKQĐ lên CNXH như
chủ nghĩa Mác - Lênin xác định, nhưng Đảng ta lại tiến xa hơn, cụ thể hóa, xác lập
nên các mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể ở những chặng đường khác nhau của
TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam.
 
- Sau năm 1975, ở “chặng đường đầu tiên” quá độ đi lên CNXH, Đại hội IV xác định
phương hướng chung: “nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng… mà cách mạng
kỹ thuật là then chốt”; công nghiệp hóa XHCN là “nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ
quá độ, nhằm xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội” [5]. Nhờ đó,
tạo điều kiện cho Đại hội VI xác định “mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của
chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng
7
những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong
chặng đường tiếp theo” [6].
- Với nhận thức ban đầu đó, trên cơ sở đánh giá thành tựu, hạn chế của hơn 15 năm
xây dựng CNXH trên cả nước, cùng sự nhận thức rõ hơn về tính chất đặc điểm của
TKQĐ, tại Cương lĩnh năm 1991, Đảng ta đã xác định: “Mục tiêu tổng quát phải đạt
tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của
chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hoá phù hợp,
làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”; đồng thời chỉ ra:
“Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng
thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau” [7].
3.2. Sự phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta

  Từ thực tiễn 30 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra một số bài học lớn, góp
phần phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học trong thời kì mới:

 Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.
 Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân,
dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi
nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc.
 Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách
quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
 Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng
thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp
phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
 Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ
năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của cải hệ thống chính trị;
tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.

Đại hội XIII của Đảng là một cột mốc quan trọng trong lịch sử Đảng, đánh dấu cả một quá
trình hình thành, bổ sung, phát triển cũng như đúc kết những vấn đề lý luận cơ bản, toàn diện
về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Trong đó, lý luận về TKQĐ lên CNXH
của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được Đảng ta trung thành và vận dụng sáng tạo không ngừng,
đem lại nhưng tư duy, nhận thức mới về CNXH ở Việt Nam; đồng thời góp phần tạo nên sự
bổ sung, phát triển đáng kể vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin trong thời đại
mới.

CHƯƠNG II
8
THỰC TIỄN XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

I. VÌ SAO VIỆT NAM LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG XHCN ?

1.1 Tình hình của Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX.

Vào những năm đầu của thế kỷ XX, nước ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước và giải phóng dân tộc. Chính trong điều kiện đó, Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đã ra
đi tìm đường cứu nước. Sau khi bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, Người tìm thấy cơ sở lý luận
chắc chắn cho con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đó là con đường cách mạng vô sản.
Bác Hồ khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức: "Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ
nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn". "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Tư tưởng đó đã được Đảng ta khẳng
định, được cả dân tộc hưởng ứng và đi theo. Đó là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của
toàn dân tộc Việt Nam.

Sự lựa chọn này dựa trên cơ sở:

- Chỉ có chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa cộng sản mới triệt để giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, đem
lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, đem lại vị trí làm chủ chân chính cho người lao
động. Chủ nghĩa xã hội xóa bỏ triệt để chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về
tư liệu sản xuất, là nguồn gốc sinh ra tình trạng người bóc lột người, xác lập chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, cơ sở kinh tế đảm bảo cho nhân dân lao động
thoát khỏi đói nghèo, hướng tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, tạo điều kiện giải phóng và phát triển con người toàn diện.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã
hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc.

- Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi mở ra một thời
đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới. Tính tất yếu của thời đại mới đã tạo khả năng và điều kiện để các dân tộc đi lên
chủ nghĩa xã hội, đem lại những nhận thức mới trong quan niệm và giải pháp giải
quyết vấn đề giải phóng dân tộc một cách triệt để.

- Sức mạnh và thành tựu của chủ nghĩa xã hội, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ
nghĩa đã thức tỉnh nhân loại, tạo khả năng đoàn kết các dân tộc để giữ gìn hòa bình,
đẩy lùi nguy cơ chiến tranh huỷ diệt, buộc chủ nghĩa tư bản phải điều chỉnh chính
sách có lợi cho người lao động; tạo khả năng hiện thực cho các nước lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội.

- Sức mạnh và thành tựu của chủ nghĩa xã hội, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ
nghĩa đã thức tỉnh nhân loại, tạo khả năng đoàn kết các dân tộc để giữ gìn hòa bình,
đẩy lùi nguy cơ chiến tranh huỷ diệt, buộc chủ nghĩa tư bản phải điều chỉnh chính
sách có lợi cho người lao động; tạo khả năng hiện thực cho các nước lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
9
1.2 Quá trình hình thành.

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Với truyền thống yêu nước, từ cuối
thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, ở nước ta đã xuất hiện những phong trào yêu nước chống thực
dân Pháp, theo những khuynh hướng khác nhau: Phong trào yêu nước theo khuynh hướng
phong kiến, tiêu biểu là phong trào Cần Vương (1885 – 1896) và phong trào khởi nghĩa nông
dân Yên Thế; phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản, tiêu biểu là xu hướng
bạo động do Phan Bội Châu tổ chức, lãnh đạo; xu hướng cải cách do Phan Châu Trinh đề
xướng và tổ chức, khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học đứng đầu.
Tất cả những phong trào yêu nước đó đều bị thất bại, nguyên nhân chủ yếu là do thiếu một
đường lối cứu nước đúng đắn. Yêu cầu lịch sử đòi hỏi phải có một tổ chức cách mạng tiên
phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.

       Năm 1917, cuộc Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra thời đại mới trong lịch
sử loài người – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ngày 05/6/1911,
Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, tháng 7 năm 1920, Người đọc Sơ thảo Lần thứ
nhất Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin và đi đến kết luận quan trọng:
Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách
mạng vô sản.

      Vào những năm 1929 – 1930, phong trào công nhân ở nước ta phát triển mạnh mẽ đưa
đến sự ra đời các tổ chức cộng sản như: Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929); An Nam
Cộng sản Đảng (11/1929); Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (01/1930). Việc các tổ chức
cộng sản liên tiếp xuất hiện chứng tỏ phong trào công nhân của Việt Nam phát triển mạnh
mẽ, nhưng nhiều tổ chức cộng sản ra đời đã tranh giành quần chúng, ảnh hưởng không tốt
đến phong trào. Nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh về Hương Cảng, Trung
Quốc tổ chức hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản ở nước ta thành Đảng Cộng sản Việt
Nam (từ ngày 06 đến ngày 07 tháng 2 năm 1930). Hội nghị đã thông qua các văn kiện quan
trọng, trong đó có Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng, xác định Việt Nam
“Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Kể từ
đây, Đảng và dân tộc ta dứt khoát lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

      Thực hiện Cương lĩnh của Đảng, cách mạng nước ta đã giành những thắng lợi vĩ đại:
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong
kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập,
tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, bảo vệ Tổ Quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế.

      Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh đạo tiến hành xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Do chủ quan nóng vội, muốn nhanh chóng xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội dẫn đến sai lầm đường lối ở một số lĩnh vực, từ đó dẫn đến
sự khủng khoảng kinh tế - xã hội ở nước ta (1979 -1986), nước ta rơi vào hoàn cảnh cực kỳ
khó khăn, lạm phát phi mã, đời sống nhân dân cơ cực, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
không ổn định, yêu cầu khách quan đặt ra là cần phải đổi mới đất nước.Ngày 15/12/1986 tại
Đại hội VI với tinh thần nhìn thẳng sự thật, nói đúng sự thật, Đại hội đã đề ra đường lối đổi
10
mới toàn diện gồm: Đổi mới cơ cấu kinh tế, “coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là
một đặc trưng của thời kỳ quá độ”, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong đó đổi mới kế hoạch
hóa, kết hợp kế hoạch hóa với thị trường, từng bước đưa nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý kinh tế của nhà nước; đổi mới và tăng cường vai trò quản lý, điều hành
của Nhà nước về kinh tế, “Phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính – kinh tế của các cơ
quan nhà nước trung ương và địa phương với chức năng quản lý sản xuất – kinh doanh của
các đơn vị kinh tế cơ sở” đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại, trên cơ sở mở rộng và nâng
cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, tạo điều kiện cho người nước ngoài và Việt kiều về nước đầu
tư, hợp tác kinh doanh; Đổi mới tư duy lý luận và phong cách lãnh đạp của Đảng, trên cơ sở
nâng cao nhận thức lý luận, vận dụng đúng quy luật khách quan, khắc phục bệnh chủ quan,
duy ý chí hoặc bảo thủ trì trệ. 

2. Được kế thừa kiến thức từ các nước chủ nghĩa xã hội Đông Âu và Liên Xô.

2.1. Tình hình phát triển của các nước chủ nghĩa xã hội.

Trong hơn 7 thập kỷ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã
đạt thành tựu quan trọng: Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất với quy
mô và trình độ hiện đại, đảm bảo ngày càng tốt hơn về vật chất và tinh thần của nhân dân. Từ
một nước Nga nghèo nàn và lạc hậu, sau một thời gian xây dựng đã trở thành một cường
quốc của thế giới, đạt được bước tiến lớn trong nghiên cứu khoa học, chinh phục vũ trụ, có
tiềm lực quân sự và quốc phòng hùng mạnh… tạo điều kiện cho phong trào giải phóng dân
tộc phát triển. Hàng trăm nước đã giành được độc lập dân tộc góp phần quyết định vào cuộc
đấu tranh của nhân dân thế giới và hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã
khẳng định tính đúng đắn của sự lựa chọn đó.

Nhưng lịch sử loài người đã không đi theo con đường thẳng tắp và phong trào cách mạng
cũng không tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm, thậm chí có những thất bại hoặc thoái trào.
Nhưng quan trọng hơn là từ trong sai lầm, khuyết điểm đó, tìm ra những nguyên nhân, rút
kinh nghiệm để đưa phong trào cách mạng tiến lên. Đó mới là một thái độ nghiêm túc, đúng
mực.

Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ do nhiều nguyên nhân mà
nguyên nhân trực tiếp là Đảng Cộng sản phạm những sai lầm nghiêm trọng về đường lối
chính trị, tư tưởng và tổ chức bắt đầu từ sự phản bội của người lãnh đạo chủ chốt; chủ nghĩa
đế quốc can thiệp vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện "diễn biến hòa bình" ở Liên Xô và
các nước Đông Âu. Sự đổ vỡ đó không có nghĩa là sự sụp đổ của học thuyết về chủ nghĩa xã
hội, không phải là sự sụp đổ của phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới, bởi vì hiện nay một số
nước xã hội chủ nghĩa vẫn đang tiếp tục đứng vững và phát triển. Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: "Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh
co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là qui luật tiến hóa
của lịch sử".

2.2 Sự kế thừa và cải cách nhằm đi lên xã hội chủ nghĩa.


11
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bên cạnh những thành tựu, chúng ta
cũng còn có khuyết điểm, yếu kém, những vấp váp sai lầm.

Đảng ta đã sớm nhận thức ra những thiếu sót, khuyết điểm và tự nhận khuyết điểm trước
nhân dân, đã sửa chữa và sửa chữa có kết quả, đem lại lòng tin của nhân dân với Đảng. Đảng
đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện vì chủ nghĩa xã hội, với quyết tâm và
trí tuệ của toàn Đảng, sự tham gia tích cực của nhân dân, công cuộc đổi mới ở nước ta trong
hơn 17 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng, khẳng định
đường lối đổi mới là đúng đắn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định:
"Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát
vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới.
Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội".

II - LÀM THẾ NÀO VÀ BẰNG CÁCH NÀO ĐỂ TỪNG BƯỚC XÂY DỰNG CNXH Ở
VIỆT NAM.

2.1-Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam

Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu lịch sử bởi vì:

-Toàn thế giới đã bước vào thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn
đã khẳng định CNTB là chế độ xã hội  đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng
phải được thay bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là
chủ nghĩa xã hội. Cho dù hiện nay, với những cố gắng để thích nghi với tình hình mới,
CNTB thế giới vẫn đang có những thành tựu phát triển nhưng vẫn không vượt ra khỏi 
những mâu thuẫn cơ bản của nó, những mâu thuẫn này không dịu đi mà ngày càng
phát triển gay gắt và sâu sắc. CNTB không phải là tương lai của loài người. Quá trình
cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới- xã hội chủ nghĩa không phải là quá trình cải
lương, duy ý chí mà là quá trình cách mạng sôi động trải qua nhiều giai đoạn phát
triển khách quan phù hợp với quy luật của lịch sử. Chủ nghĩa xã hội khoa học, tự do,
dân chủ và nhân đạo mà nhân dân ta và loài người tiến bộ đang vươn tới luôn đại diện
cho những giá trị tiến bộ của nhân loại, đại diện lợi ích của những người lao động, là
hình thái xã  hội cao hơn CNTB. Quá trình cách mạng  đó vì sự nghiệp cao cả là giải
phóng con người, vì sự nghiệp phát triển tự do và toàn diện của con người, vì tiến bộ
chung của loài người. Đi theo dòng chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy luật phát
triển tự nhiên của lịch sử. 

- Cách mạng Việt nam phát triển theo con đường độc lập dân tộc, gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Tính tất yếu lịch sử ấy xuất hiện từ những năm 20 của thế kỷ XX. Nhờ
đi con đường ấy, nhân dân ta đã làm cách mạng tháng Tám thành công, đã tiến hành
thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày nay,
chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ vững được độc lập dân tộc, tự do cho dân tộc,
mới thực hiện được mục tiêu làm cho mọi người được ấm no, tự do hạnh phúc. Sự lựa
chọn con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta như vậy là sự lựa
chọn của chính lịch sử dân tộc lại vừa phù hợp với xu thế của thời đại. Điều đó cũng

12
thể hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta là một tất yếu
lịch sử.

Chủ nghĩa xã hội ở Việt nam, theo cách nói tóm tắt và mộc mạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
là; trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng,làm cho mọi người có công
ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Quán triệt tư  tưởng cơ bản đó của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Đảng ta đã khẳng định: “xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:

-Do nhân dân lao động làm chủ 

-Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế đọ công hữu
về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

-Có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc

-Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển cá nhân.

-Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.

-Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới

* Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở nước ta là: xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng dân chủ và văn minh. Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta phải: Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội;
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh
thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện 

2.2. Những thành tựu và những hạn chế của chủ nghĩa xã hội

Thực tiễn cho thấy, chủ nghĩa xã hội trong quá trình hình thành và phát triển đã đạt được
những thành tựu về nhiều mặt có ý nghĩa lịch sử to lớn như:

 Một là: Đã xây dựng một hệ thống giá trị riêng của mình, đã phát triển lực lượng sản
xuất, đã xoá bỏ về cơ bản chế độ người bóc lột người, đã thực hiện một chế độ phúc lợi
xã hội và giáo dục văn hoá quốc tế cho toàn dân.

Hai là: Cứu loài người ra khỏi thảm hoạ phát xít, là chỗ dựa cho phong trào hoà bình và
cách mạng thế giới, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân, góp phần quan trọng vào sự
nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
13
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, là những sai lầm và thiếu sót. Đó là sự vận dụng
không đúng đắn, thiếu sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cuộc sống, cũng như việc
chậm tổng kết những bài học từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội để bổ sung phát triển
đường lối, chính sách phát triển lý luận; Như vội vã xó bỏ mọi thành phần kinh tế hàng hoá,
thực hiện công nghiệp hoá mà không tính đến hiệu quả của các công trình được xây dựng,
coi nhẹ hoặc phủ nhận cuọc đấu tranh giai cấp, thiết chế một nền dân chủ nặng về hình thức,
chưa đảm bảo nhân dân lao động thực sự làm chủ mọi mặt của đời sống xã hội; thực hiện
chính sách bao cấp tràn lan, chậm trễ trong cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại; coi
nhẹ công tác xây dựng đảng và đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội.

Những khuyết tật mang tính giáo điều, chủ quan duy ý chí, quan liêu xa rời quần chúng nói
trên đã làm cho tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng toàn diện.

Nguyên nhân của những khuyết tật trên  bao gồm nhiều nguyên nhân mà một trong những
nguyên nhân chính là xa rời hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng không đúng đắn
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, quan điểm
toàn diện trong chủ nghĩa Mác-Lênin. Không xem xét sự việc trong mối liên hệ với sự việc
khác, quá nhấn mạnh coi trong nhiệm vụ này mà xa rời hoặc thậm chí là phủ nhận mục tiêu
khác.

III - VẬN DỤNG KIẾN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI XÂY DỰNG CNXH Ở VIỆT NAM

3.1 Trong đổi mới phải kiên trì mục tiêu đọc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng CN
Mac – Lênin và TTHCM.

    Bằng kinh nghiệp xương máu chúng ta thấy rằng chế độ thực dân phong kiến, đế quốc đã  
kềm hãm nước ta trong vùng nghèo đói, lạc hậu, tối tăm. Thấm nhuần lời dạy của Bác:
“Nước có độc lập mà dân vẫn cứ đói, vẫn cứ rét thì độc lập tự do cũng chẳng có nghĩa lý gì”.

   Muốn cho dân giàu, nước mạnh không có con đường nào khác là phải tiến lên CNXH, chỉ
có CNXH mới thực hiện được “ham muốn tột bậc” của Người và khát vọng ngàn đời của dân
tộc ta.

   Độc lập dân tộc là điều kiện để xây dựng thành công CNXH, và CNXH là cơ sở bảo đảm
cho độc lập dân tộc vững bền.

   Ngày nay, đổi mới là nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Để hoàn thành mục tiêu trên, đổi mới không bao giờ là thay đổi mục tiêu XHCN. Tự
do tư sản chỉ là cái bánh vẽ mà Liên xô và Đông âu phải trả giá, quyết không phải là sự lựa
chọn của chúng ta.

   Tuy nhiên xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở một nước nghèo nàn lạc hậu là một
nhiệm vụ cực kỳ khó khăn phức tạp, chúng ta phải khôn ngoan, sáng tạo, phải biết vận dụng
các công cụ kinh tế thị trường để phục vụ cho CNXH, sao cho đạt mục đích, nhưng không
chệch mục tiêu đã định.

14
3.2 Đổi mới là sự nghiệp của dân , do dân, vì dân, do đó phải phát huy quyền làm chủ
của dân, khơi dậy mạnh mẽ nội lực để công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

    Khai thác triệt để mọi nguồn lực ở bên trong, nhất là nguồn lực con người, phải thu hút tốt
các nguồn lực bên ngoài, phải lấy nguồn lực bên trong làm gốc, phải sử dụng có hiệu quả
nguồn lực bên ngoài. Phải quán triệt quan điểm: Tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng CNXH;
CNXH là công trình tập thể của người dân, phải đem tài dân sức dân làm lợi cho dân. Tạo
không khí dân chủ trong xã hội , thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”, phải nâng cao bản lĩnh công dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân để đi lên.

3.3 Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

    Công cuộc đổi mới của ta diễn ra trong lúc cuộc cách mạng KHCN trên thế giới phát triển
mạnh mẽ. Xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa, tác động mạnh mẽ vì thế cần tranh thủ tối đa các
nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước. Giao lưu hội nhập nhưng phải giữ gìn bản sắc
dân tộc, hòa nhập nhưng không hòa tan, hòa nhập với thế giới để khai thác tất cả những gì
tinh túy nhất, tốt đẹp nhất. Nâng cao bản lĩnh tiếp thu văn hóa nhân loại, chống văn hóa độc
hại.

3.4 Xây dựng đảng, xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh, chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, cần kiệm xây dựng đất nước

    Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên trong hệ thống chính trị, trong các doanh nghiệp trong
sạch, liêm khiết, thật sự là đầy tớ của dân, xử lý những cán bộ thoái hóa, tham nhũng.

Cũng cố quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân do dân
vì dân, quán triệt tinh thần tiết kiệm của Bác Hồ: sản xuất không tiết kiệm thì như gió vào
nhà trống. . .

KẾT LUẬN

Sau khoảng thời tập trung nghiên cứu một cách nghiêm túc, nhóm em đã hiểu rõ hơn về
bản chất của quá trình tiến lên CNXH mà Mac-Lênin đã trình bày, đồng thời hoàn toàn tin
tưởng vào con đường tiến lên xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam. Thông hiểu một cách
đúng đắn, nhất quán về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam sẽ giúp cho mỗi chúng ta có
một  cái nhìn toàn diện hơn về những thuận lợi, những khó khăn còn tồn tại; những thời cơ;
nguy cơ và thách thức để từ đó với ý chí quyết tâm chính trị cao chúng ta phải phấn đấu vượt
qua, tránh được căn bệnh chủ quan, sự nóng vội. Ý thức phải xuất phát từ thực tế khách quan,
tôn trọng và hành động phải tuân thủ theo quy luật. Tuy biết rằng con đường ấy chắc chắn sẽ
gian nan và khó có thể hoàn thành một cách tốt đẹp trong một thời gian ngắn nhưng nếu
Toàn Đảng, toàn Dân và toàn quân ta cùng nhau quyết tâm đồng lòng theo phương hướng đã
đề ra:
-         Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức.
-         Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
-         Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

15
-         Xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội.
-         Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
-         Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
-         Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại.
-         Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân.
-         Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.
thì công cuộc xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam nhất định thắng lợi vẻ vang.
Bài tiểu luận được hoàn thành với sự tâm huyết của cả nhóm, tuy nhiên, với trải nghiệm,
kinh nghiệm và vốn kiến thức còn quà ít ỏi thì không thể không tránh khỏi những thiếu sót
không đáng có, mong được sự chỉ dạy từ phía quý Thầy Cô!
Không thể không dành một lời cảm ơn chân thành gửi đến cô Nguyễn Thị Hải Lên đã dốc
lòng giúp đỡ nhóm hoàn thành tốt bài tiểu luận này!

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1) Năm hình thái kinh tế - xã hội theo C.Mác và Ph.Ăngghenlà: Hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản nguyên thủy (công xã nguyên thủy); Hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ;
Hình thái kinh tế - xã hội phong kiến; Hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và Hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
(2), (3) C.Mác và Ph.Ăngghen:Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19, tr.47,
36.
(4), (5) V.I.Lênin: Toàn tập, t.39, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1977, tr.309-310, 362.
(6) Xem: GS, PTS Nguyễn Trọng Chuẩn, PTS Phạm Văn Đức, PTS Hồ Sỹ Quý (Đồng chủ
biên), Những quan điểm cơ bản của C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội và
thời kỳ quá độ,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.162-163.
(7) V.I.Lênin:Toàn tập, t.44, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1977, tr.197.
(8) Xem: ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ 13, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa II (12-1957).
(9), (10) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội,
1986, tr.30, 41.
(11) ĐCSVN: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb
Sự Thật, Hà Nội, 1991, tr.1.
(12), (13), (19), (20), (24) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.67, 69, 71, 71, 70.

(14) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2011, tr.70.
(15) ĐCSVN: Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.67.
16
(16) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1986,
tr.42.
(17), (18), (22), (28) ĐCSVN: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1991, tr.13-14, 14, 5, 5.
(21), (25), (26), (29) Xem: ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn
phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.77-80, 20, 25, 21.
(23) Xem: ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2006, tr.68.
(27) Xem: ĐCSVN: Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3-6-2017, Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.

PHÂN CHIA CÔNG VIỆC GIỮA CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM

STT HỌ VÀ TÊN MSSV ND PHÂN TÍCH %

1 Trần Thị Kim Chi 25202102353 Chương II: mục II và III

2 Võ Đào Hoài Ngọc 26202142006 Chương I: mục III & Biên tập

3 Phạm Ngọc Quỳnh 27202530661 Lời mở đầu & word 100%

4 Phạm Đình Dương Sang 27214302292 Kết luận & photo

5 Trần Lê Phương Thảo 26202132337 Chương I : mục I và II

6 Đào Phan Chí Trung 25214303952 Chương II: mục I

17

You might also like