You are on page 1of 30

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI


----

BÀI THẢO LUẬN


CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Đề tài: Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân. Liên hệ vai trò của giai cấp công nhân thế giới và
Việt Nam trong thời đại ngày nay.

Giảng viên : Tạ Thị Vân Hà


Lớp HP : 2270HCMI0121
Nhóm : 03

Hà Nội, tháng 10 năm 2022


MỤC LỤC
MỤC LỤC......................................................................................................................... 1
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................3
2. Mục tiêu nghiên cứu................................................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................................4
4. Ý nghĩa việc nghiên cứu đề tài.................................................................................4
PHẦN I. QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ-NIN VỀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ
CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN........................................................................................4
1.1. Khái niệm giai cấp công nhân theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin................................4
1.2. Đặc điểm của giai cấp công nhân.........................................................................4
1.2.1. Trên phương diện kinh tế - xã hội........................................................................4
1.2.2. Trên phương diện chính trị - xã hội.....................................................................5
1.3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân...............................................................5
1.3.1. Định nghĩa sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân........................................5
1.3.2. Điều kiện cơ bản quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân..............5
1.3.3. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân............................................7
1.4. Những điều kiện quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.....................9
1.4.1. Điều kiện khách quan............................................................................................9
1.4.2. Điều kiện chủ quan..............................................................................................11
PHẦN II. VAI TRÒ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN THẾ GIỚI TRONG THỜI ĐẠI
NGÀY NAY ........................................12
2.1. Giai cấp công nhân thời đại ngày nay.................................................................12
2.1.1. Những điểm tương đối ổn định so với thế kỉ XIX.............................................12
2.1.2. Sự khác biệt và những biến đổi của giai cấp công nhân trên thế giới ngày
nay ................................................................................................................................13
2.2. Vai trò của giai cấp công nhân trên thế giới ngày nay........................................14
2.2.1. Về kinh tế...............................................................................................................14
2.2.2. Về chính trị - xã hội.............................................................................................15
2.2.3. Về văn hóa, tư tưởng...........................................................................................15
PHẦN III. VAI TRÒ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY............15
3.1. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam.......................................................15

1
3.1.1. Khái niệm................................................................................................16
3.1.2. Đặc điểm lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam................................16
3.1.3. Những biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam..................................18
3.2. Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam...........................................................20
3.2.1. Về kinh tế...............................................................................................................20
3.2.2. Về chính trị - xã hội.............................................................................................22
3.2.3. Về văn hóa, tư tưởng............................................................................................24
3.3. Phương hướng và một số giải pháp xây dựng giai cấp công nhân ở Việt Nam
thành lực lượng đi đầu trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa..............................24
3.3.1. Phương hướng.........................................................................................24
3.3.2. Một số giải pháp chủ yếu.........................................................................24
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................28

2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại xã hội nào, những người lao động sản xuất trong các ngành sản xuất
công nghiệp, dịch vụ công nghiệp hay những người công nhân đều có vai trò sáng tạo
chân chính ra lịch sử và là những người giữ vai trò quyết định sáng tạo công cụ sản xuất,
giá trị thặng dư và chính trị xã hội. Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận
cấu thành của chủ nghĩa Mác-Lênin đã nghiên cứu một cách toàn diện về các quy luật
chính trị xã hội của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển của các hình thái kinh tế
xã hội chủ nghĩa. Trong đó chủ nghĩa xã hội khoa học đã tập trung nghiên cứu những
nguyên tắc căn bản, những điều kiện, con đường, hình thức, phương pháp đấu tranh của
giai cấp công nhân để thực hiện chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội.

Trong giai đoạn mới hiện nay, công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đang diễn ra
trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở trong thời kì thoái trào, thời đại ngày nay vẫn
đang là thời đại quá độ từ chủ nghĩa cơ bản lên chủ nghĩa xã hội còn có nhiều biến động
và có nhiều tiêu cực thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được
đặt ra trở nên bức thiết hơn bao giờ hết.

2. Mục tiêu nghiên cứu


Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa
xã hội khoa học, do đó nó đã được C. Mác - Ph. Ăngghen và Lênin nghiên cứu và phát
triển hết sức hoàn thiện trong quá trình phát triển của lịch sử thế giới. Xét trên phương
diện lịch sử, những nhận định và lý luận của các ông về giai cấp công nhân có tác dụng to
lớn và đúng đắn. Còn đối với nước ta, vấn đề trên được Đảng ta rất chú trọng. Vì thế, sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ thể hiện rõ trong các văn kiện đại hội đại
biểu toàn quốc, mà đây còn là một trong những đề tài nghiên cứu khoa học của nhiều nhà
lý luận, nhà nghiên cứu lịch sử, và của nhiều thế hệ công nhân, sinh viên. Sự tác động của
sứ mệnh lịch sử không chỉ ảnh hưởng tới sự chuyển biến của lịch sử thế giới là thay đổi từ
hình thái kinh tế này sang hình thái kinh tế khác, thay đổi từ chế độ kinh tế này sang chế
độ kinh tế khác, mà còn làm thay đổi tình hình kinh tế chính trị xã hội trên toàn thế giới,
nó tác động tới quá trình sản xuất cụ thể, tới bộ mặt phát triển của thế giới.

Mục tiêu của đề tài nghiên cứu này hướng tới việc phổ rộng cho ngườiđọc kiến thức
và có được chiều sâu hiểu biết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, từ đó trang bị

3
một khung liên kết với vai trò của những người công nhân không chỉ trên thế giới mà còn
cụ thể hơn là ở Việt Nam - một đất nước đang đi theo con đường Chủ nghĩa xã hội.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


- Đối tượng : Giai cấp công nhân.
- Phạm vi nghiên cứu: Trên thế giới và ở Việt Nam ngày nay.

4. Ý nghĩa việc nghiên cứu đề tài


Sự tác động của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ ảnh hưởng tới sự
chuyển biến của lịch sử thế giới là thay đổi từ hình thái kinh tế nàysang hình thái kinh tế
khác, thay đổi từ chế độ này sang chế độ khác mà còn làm thay đổi tình hình kinh tế chính
trị xã hội, nó tác động đến quá trình sản xuất cụ thể, tới bộ mặt phát triển của thế giới. Từ
những vai trò to lớn trên việc nghiên cứu sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân có ý
nghĩa quan trọng về lý luận lẫn thực tiễn.

PHẦN I. QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ-NIN VỀ SỨ MỆNH LỊCH
SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN.

1.1. Khái niệm giai cấp công nhân theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin.
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng quá
trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại; Là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất
tiên tiến; Là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội; Ở nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người không có hoặc
về cơ bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản
bóc lột giá trị thặng dư; Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp côngnhân cùng nhân dân
lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích
chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của mình.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ giai cấp công nhân
như giai cấp vô sản; giai cấp vô sản hiện đại; giai cấp công nhân hiện đại; giai cấp công
nhân đại công nghiệp...Dù diễn đạt bằng những thuật ngữ khác nhau, song giai cấp công
nhân được các nhà kinh điển xác định trên hai phương diện cơ bản: kinh tế - xã hội và
chính trị - xã hội.

4
1.2. Đặc điểm của giai cấp công nhân
1.2.1. Trên phương diện kinh tế - xã hội
Thứ nhất, giai cấp công nhân với phương thức lao động công nghiệp trong nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa: đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các
công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao.

Thứ hai, giai cấp công nhân trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đó là giai cấp
của những người lao động không sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Họ phải bán
sức lao động cho nhà tư bản, công nhân là những người lao động tự do, với nghĩa là tự do
bán sức lao động của mình để kiếm sống. Chính điều này khiến giai cấp công nhân trở
thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản.

1.2.2. Trên phương diện chính trị - xã hội


Những đặc điểm chủ yếu của giai cấp công nhân bao gồm:
- Lao động bằng phương thức công nghiệp với đặc trưng công cụ lao động là máy
móc, tạo ra năng suất lao động cao, quá trình lao động mang tính chất xã hội hóa.
- Giai cấp công nhân là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp, là chủ thể của
quá trình sản xuất vật chất hiện đại. Do đó, giai cấp công nhân là đại biểu cho lực
lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất tiên tiến, quyết định sự tồn tại
và phát triển của xã hội hiện đại.
- Đó là một giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, phẩm chất đặc biệt về tính tổ
chức, kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác và tâm lý lao động công nghiệp.

1.3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân


1.3.1. Định nghĩa sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, sứ mệnh lịch sử tổng quát của giai cấp công nhân là
thông qua chính đảng tiền phong, giai cấp công nhân tổ chức, lãnh đạo nhân dân lao động
đấu tranh xoá bỏ các chế độ người bóc lột người, xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai
cấp công nhân, nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, xây
dựng xã hội cộng hoà chủ nghĩa văn minh.

1.3.2. Điều kiện cơ bản quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
a) Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất phát từ những tiền đề kinh tế - xã hội
của sản xuất mang tính xã hội hoá với hai biểu hiện nổi bật là:

5
Thứ nhất, xã hội hoá sản xuất làm xuất hiện những tiền đề vật chất, thúc đẩy sự phát
triển của xã hội, thúc đẩy sự vận động của mâu thuẫn cơ bản trong lòng phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Sự xung đột giữa tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất với
tính chất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất là nội dung kinh tế - vật
chất của mâu thuẫn cơ bản đó trong chủ nghĩa tư bản.

Thứ hai, quá trình sản xuất mang tính xã hội hoá đã sản sinh ra giai cấp công nhân
và rèn luyện nó thành chủ thể thực hiện sứ mệnh lịch sử. Do mâu thuẫn về lợi ích cơ bản
không thể điều hoà được giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, nên mâu thuẫn này trở
thành động lực chính cho cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội hiện đại.

Giải quyết mâu thuẫn cơ bản về kinh tế và chính trị trong lòng phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa chính là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đó là tính quy định
khách quan, yêu cầu khách quan của sự vận động, phát triển của lịch sử từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

b) Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự nghiệp cách mạng của
bản thân giai cấp công nhân cùng với đông đảo quần chúng nhân dân và mang lại lợi ích
cho đa số.

Đây là một cuộc cách mạng của đại đa số mưu lợi ích cho tuyệt đại đa số, nhờ việc
hướng tới xây dựng một xã hội mới dựa trên chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ
yếu của xã hội. Sự thống nhất cơ bản về lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích của
nhân dân lao động tạo ra điều kiện để đặc điểm quan trọng này về sứ mệnh lịch sử giai
cấp công nhân được thực hiện.

Lực lượng sản xuất xã hội hoá cao, ở trình độ phát triển hiện đại và chế độ công hữu
sẽ tạo ra cơ sở kinh tế để chấm dứt vĩnh viễn chế độ người bóc lột người. Giai cấp công
nhân chỉ có thể tự giải phóng mình thông qua việc đồng thời giải phóng các giai cấp bị áp
bức bóc lột khác, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

Giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản sẽ thực hiện
sứ mệnh lịch sử bằng một cuộc cách mạng triệt để không chỉ x bỏ sự thống trị áp bức của
chủ nghĩa tư bản mà còn xây dựng thành công chế độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa, tiến tới một xã hội không còn giai cấp. Thực hiện cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ

6
nghĩa cộng sản, để xác lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa (mà giai đoạn đầu
là chủ nghĩa xã hội) - đó là con đường, phương thức để thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới
của giai cấp công nhân. Đó là một tiến trình lịch sử lâu dài gắn với vai trò, trọng trách
lãnh đạo của Đảng cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đến lúc đó giai cấp
công nhân mới hoàn thành được sứ mệnh lịch sử thế giới của mình.

c) Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là thay thế chế độ sở hữu tư
nhân này bằng một chế độ sở hữu tư nhân khác mà là xoá bỏ triệt để chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất.

Đối tượng xoá bỏ ở đây là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là nguồn gốc sinh ra
những áp bức, bóc lột, bất công trong xã hội hiện đại. Sự xoá bỏ này hoàn toàn bị quy
định một cách khách quan từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

d) Việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực thống trị xã hội là tiền đề để cải tạo
toàn diện, sâu sắc và triệt để xã hội cũ và xây dựng thành công xã hội mới với mục tiêu
cao nhất là giải phóng con người.

Cuộc cách mạng của giai cấp công nhân nhằm xóa bỏ tình trạng bóc lột, áp bức và
nô dịch con người, xoá bỏ sự thống trị của giai cấp tư sản để thực hiện quyền làm chủ của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong chế độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa. Đó là cuộc cách mạng triệt để nhất để thực hiện lý tưởng và mục tiêu
của chủ nghĩa cộng sản “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển
tự do của tất cả mọi người” như C.Mác và F.Ăngghen đã nhấn mạnh trong “ Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản”, năm 1848.

1.3.3. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất, xuất sắc nhất của
Chủ nghĩa xã hội khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một
trong những cống hiến vĩ đại nhất của Chủ nghĩa Mác. Trước sự khủng hoảng và sụp đổ
của chủ nghĩa xã hội khoa học ở Đông Âu và Liên Xô, nhiều người đã bộc lộ sự lao động
và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Vì vậy, vấn đề khẳng định sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vẫn giữ nguyên giá trị trong thời đại hiện nay đang
đặt ra một cách thức thiết trên cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Khẳng định vai trò, sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân còn có ý nghĩa rất lớn trong việc hiểu rõ ý nghĩa và

7
nội dung căn bản cụ thể của giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn mới - giai đoạn
phải thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.

Sứ mệnh lịch sử của một giai cấp là toàn bộ những nhiệm vụ lịch sử giao phó cho
một giai cấp để nó thực hiện bước chuyển cách mạng từ một hình thái kinh tế - xã hội này
sang một hình thái kinh tế - xã hội khác tiến bộ hơn. Trong xã hội, ở các thời kỳ khác
nhau sẽ có những giai cấp khác nhau thực hiện sứ mệnh lịch sử. Giai cấp thực hiện sứ
mệnh lịch sử là những giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của thời đại, đại diện cho lực lượng
sản xuất tiên tiến, phương thức sản xuất hiện đại; có lợi ích cho nhiều giai cấp trong xã
hội; có lợi ích mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị đương thời; có hệ tư tưởng độc
lập phản ánh quy luật phát triển của lịch sử có chính Đảng riêng lãnh đạo cách mạng.

Theo chủ nghĩa Mác-Lênin giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng
nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân là nhiệm vụ mà giai cấp công nhân cần phải thực hiện với tư cách là giai cấp tiên
phong lực lượng đi đầu trong cuộc cách mạng xác lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là Chủ nghĩa xã hội.

Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa
bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng mình, nhân dân lao động và đoàn thể nhân loại
khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng.

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được thể hiện ở trên ba nội dung cơ bản:

a) Nội dung kinh tế

Là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội hóa cao, giai cấp công nhân cũng
là đại biểu cho quan hệ sản xuất mới, tiên tiến nhất dựa trên chế độ công hữu giải tư liệu
sản xuất, đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất về xu thế phát triển của xã hội.
Đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

Ở các nước xã hội chủ nghĩa giai cấp công nhân thông qua quá trình công nghiệp
hóa và thực hiện “một kiểu tổ chức xã hội mới về lao động” để tăng năng suất lao động xã
hội và thực hiện các nguyên tắc sở hữu, quản lý và phân phối phù hợp với nhu cầu phát
triển sản xuất, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

8
Giai cấp công nhân phải đóng vai trò nòng cốt trong quá trình giải phóng lực lượng
sản xuất (vốn bị kìm hãm, lạc hậu, chậm phát triển trong quá khứ), thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển để tạo cơ sở cho quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa ra đời.

Công nghiệp hoá là một tất yếu có tính quy luật để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội. Thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải
là lực lượng đi đầu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong đó giai cấp công nhân
trở thành lực lượng đi đầu.

b) Nội dung chính trị - xã hội

Giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản, tiến hành cách mạng chính trị để lật đổ quyền thống trị của giai cấp tư sản, xoá bỏ
chế độ bóc lột, áp bức của chủ nghĩa tư bản, giành quyền lực dưới tay trái lúc công nhân
của nhân dân lao động. Thiết lập nhà nước kiểu mới, mang bản chất giai cấp công nhân
(dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản) - Nhà nước xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền lực của nhân dân, quyền làm chủ và làm chủ xã hội của
tuyệt đại đa số nhân dân lao động.

Giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử dụng nhà nước của mình, do mình làm
chủ như một công cụ có hiệu lực để thực thi và mở rộng dân chủ,sử dụng chính quyền cải
tạo xã hội cũ, tổ chức xây dựng xã hội mới trên mọi lĩnh vực. Cách mạng chính trị là một
quá trình lâu dài và phức tạp. Chủ nghĩa xã hội hiện thực chỉ có thể ra đời thông qua
thắng lợi của cuộc cách mạng chính trị của giai cấp công nhân.

c) Nội dung văn hóa, tự tưởng

Giai cấp công nhân trong tiến trình cách mạng cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội
mới trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng cần phải tập trung xây dựng hệ giá trị mới của xã hội
đó là lao động, công bằng, dân chủ, bình đẳng và tự do.

Giai cấp công nhân thực hiện vào cuộc cách mạng về văn hóa tư tưởng gồm cải tạo
xã hội cũ lỗi thời, lạc hậu (tư tưởng ăn bám, bóc lột...), xây dựng nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa đạo đức lối sống con người mới ( dân chủ, nhân đạo) trong sự kế thừa tinh hoa thời
đại và giá trị truyền thống dân tộc.Ngoài ra còn phải đấu tranh để khắc phục ý thức hệ tư
sản và các tàn dư của sót lại của các hệ tư tưởng cũ. Phát triển văn hóa, xây dựng con

9
người mới xã hội chủ nghĩa, đạo đức và lối sống mới xã hội chủ nghĩa (xóa bỏ quan hệ
giai cấp, đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội...).

1.4. Những điều kiện quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1.4.1. Điều kiện khách quan
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng: “…Cùng với sự phát triển của đại
công nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiếm hữu sản
phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh
ra người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp
vô sản đều là tất yếu như nhau.”

Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bao gồm:

Thứ nhất, do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân quy định.

Lực lượng sản xuất ở bất cứ xã hội nào cũng là yếu tố quan trọng nhấttrong chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội với nền sản xuất đại công nghiệp phát triển thì “lực
lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại là công nhân và người lao động”. Giai cấp công
nhân là lực lượng đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản.

Giai cấp công nhân có vai trò quyết định sự phát triển của xã hội hiện đại. Đội ngũ
công nhân được trí thức hóa ngày càng gia tăng, có trình độ xã hội hóa ngày càng cao, tạo
ra phần lớn của cải cho xã hội. Lao động thặng dư của họ là nguồn chủ yếu đem lại sự
giàu có cho xã hội.

Giai cấp công nhân vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể trực tiếp của nền sản xuất đại
công nghiệp, không ngừng phát triển về cả số lượng và chất lượng. Là lực lượng quyết
định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, xây dựng một phương thức sản xuất mới
cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giành chính quyền về tay giai cấp công
nhân.

Giai cấp công nhân trở thành đại biểu cho sự tiến hóa tất yếu của lịch sử, là lực
lượng duy nhất có đủ điều kiện để tổ chức và lãnh đạo xã hội, xây dựng phát triển lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng

10
chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội kiểu mới, không còn chế độ người áp
bức, bóc lôt người.

Thứ hai, do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định.

Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng. Vì công nhân làm việc trong
nền sản xuất đại công nghiệp, ở đó khoa học - công nghệ máy móc thay đổi liên tục buộc
công nhân cũng phải thay đổi liên tục để có thể vận hành máy móc, dây chuyền, công
nghệ hiện đại đó. Đồng thời chính công nhân cũng là người tham gia phát minh, sang chế
những công nghệ, máy móc mới.

Giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để, giai cấp nào đối kháng trực tiếp
về lợi ích và bị tư sản bóc lột nặng nề nhất thì giai cấp đó sẽ có tinh thần cách mạng triệt
để nhất. Giai cấp công nhân đối đầu với tư sản không chỉ nhằm giải phóng mình mà còn
giải phóng tất cả các tầng lớp nhân dân trong xã hội, giải phóng toàn nhân loại ra khỏi chế
độ áp bức, bóc lột, bất công. Đấu tranh với tư bản thực chất là xóa bỏ chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất - nguồn gốc sinh ra mọi áp bức, bóc lột, bất công trong xã hội.

Giai cấp công nhân có ý thức, tổ chức kỉ luật cao (so với nông dân và tri thức). Họ
lao động, làm việc trong xí nghiệp, nhà máy, công ty. Dưới áp lực của máy móc,dây
chuyền sản xuất hiện đại buộc họ phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc làm việc của phân
xưởng, máy móc, dây chuyền sản xuất. Nông dân có tác phong làm việc tự do, tùy tiện,
thiếu tính kỉ luật, bởi công việc của họ gắn liền với ruộng đất - đối tượng lao động tự
nhiên nên phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết khí hậu, mang tính thời vụ.

Giai cấp công nhân có khả năng đoàn kết các giai cấp và tầng lớp khác. Giai cấp
công nhân không chỉ là giai cấp đối lập về lợi ích trực tiếp với giai cấp tư sản mà còn là
giai cấp đại biểu cho lợi ích của toàn bộ các giai cấp khác và tầng lớp lao động trong xã
hội, hiểu được tâm tư nguyện vọng của họ, có khả năng lôi cuốn đoàn kết các giai cấp,
tầng lớp lao động khác lại theo mình làm cách mạng xã hội.

Giai cấp công nhân mang bản chất quốc tế. Bản thân giai cấp công nhân là một lực
lượng quốc tế và kẻ thù của họ là giai cấp tư sản cũng là một lực lượng quốc tế. Do đó
giai cấp công nhân phải liên minh với nhau trên phạm vi thế giới thì mới có đủ sức mạnh
để chống lại giai cấp tư sản.

11
1.4.2. Điều kiện chủ quan

Thứ nhất, sự trưởng thành của giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng.

Về số lượng, thể hiện sự lớn mạnh của giai cấp công nhân cùng với quy mô phát
triển của nền sản xuất vật chất hiện đại trên nền tảng của công nghiệp, của kĩ thuật và
công nghệ.

Về chất lượng, thể hiện ở đoàn kết giai cấp, ở trình độ trưởng thành về ý thức chính
trị của một giai cấp cách mạng, tức là tự giác nhận thức được vai trò và trọng trách của
giai cấp mình đối với lịch sử, do đó giai cấp công nhân phải được giác ngộ lí luận khoa
học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 đang tác động sâu sắc vào sản xuất đòi hỏi yêu cầu về tay nghề,
trình độ kĩ thuật cao, chất lượng giai cấp công nhân còn thể hiện ở năng lực và trình độ
làm chủ khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại nhất về công nghệ thông tin.

Để phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng, phải đặc biệt chú ý
đến hai biện pháp cơ bản: phát triển công nghiệp - “tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết”;
xây dựng Đảng cộng sản - hạt nhân chính trị của giai cấp công nhân.

Thứ hai, Đảng cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân
thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình.

Sự ra đời của đảng là dấu hiệu cho sự trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân
với tư cách là giai cấp cách mạng.

Theo Lênin, Đảng cộng sản ra đời là sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học, tức
là chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân.

Giai cấp công nhân là cơ sở của xã hội và nguồn bổ sung nhân lực quan trọng của
Đảng cộng sản thực hiện nhiệm vụ của mình. Đảng cộng sản và giai cấp công nhân có
mối liên hệ hữu cơ, không thể tách rời. Đảng là một tổ chức chính trị thống nhất, chặt chẽ
gồm những người ưu tú nhất trong giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Đảng cộng sản
là một bộ phận hữu cơ, nằm trong giai cấp công nhân. Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị,
bộ tham mưu chiến đấu và đội tiền phong của giai cấp công nhân.

Có Đảng cộng sản lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân mới chuyển từ tự
phát thành tự giác. Có Đảng cộng sản lãnh đạo thì giai cấp công nhân mới có đường lối,
12
phương pháp cách mạng đúng để tập hợp, đoàn kết các tầng lớp, giai cấp xã hội khác,
đoàn kết toàn dân tộc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng lợi.

Thứ ba, sự liên minh chặt chẽ giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các
tầng lớp lao động khác do giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của nó là Đảng
cộng sản lãnh đạo. Đây cũng là một điều kiện quan trọng không thể thiếu để thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

PHẦN II. VAI TRÒ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN THẾ GIỚI TRONG THỜI
ĐẠI NGÀY NAY

2.1. Giai cấp công nhân thời đại ngày nay


2.1.1. Những điểm tương đối ổn định so với thế kỉ XIX
Giai cấp công nhân hiện nay vẫn đang là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội
hiện đại. Họ là chủ thể của quá trình sản xuất công nghiệp hiện đại mang tính xã hội hóa
ngày càng cao. Ở các nước phát triển, có một tỷ lệ thuận giữa sự phát triển của giai cấp
công nhân với sự phát triển kinh tế. Lực lượng lao động bằng phương thức công nghiệp
chiếm tỷ lệ cao ở mức tuyệt đối ở những nước có trình độ phát triển cao về kinh tế, đó là
những nước công nghiệp phát triển (như các nước thuộc nhóm G7). Cũng vì thế, đa số các
nước đang phát triển hiện nay đều thực hiện chiến lược công nghiệp hóa nhằm đẩy mạnh
tốc độ, chất lượng và quy mô phát triển.Công nghiệp hóa vẫn là cơ sở khách quan để giai
cấp công nhân hiện đại phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng.

Cũng giống như thế kỉ XIX, ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, công nhân vẫn bị
giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sản sinh ra tình trạng bóc lột này vẫn
tồn tại. Thực tế đó cho thấy, xung đột về lợi ích cơ bản giữa giai cấp tư sản và giai cấp
công nhân (giữa tư bản và lao động) vẫn tồn tại, vẫn là nguyên nhân cơ bản, sâu xa của
đấu tranh giai cấp trong xã hội hiện đại ngày nay.

Phong trào cộng sản và công nhân ở nhiều nước vẫn luôn là lực lượng đi đầu trong
các cuộc đấu tranh vì hòa bình, hợp tác và phát triển, vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội
và chủ nghĩa xã hội.

Từ những điểm tương đồng đó của công nhân hiện đại so với công nhân thế kỷ XIX,
có thể khẳng định: Lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong chủ nghĩa

13
Mác - Lênin vẫn mang giá trị khoa học và cách mạng, vẫn có ý nghĩa thực tiễn to lớn, chỉ
đạo cuộc đấu tranh cách mạng hiện nay của giai cấp công nhân, phong trào công nhân và
quần chúng lao động, chống chủ nghĩa tư bản và lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa
trong sự phát triển của thế giới ngày nay.

2.1.2. Sự khác biệt và những biến đổi của giai cấp công nhân trên thế giới ngày nay
a) Xu hướng “trí tuệ hóa” tăng nhanh gắn liền với cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại, với sự phát triển kinh tế tri thức, công nhân hiện đại có xu hướng trí tuệ hóa. Tri
thức hóa và trí thức hóa công nhân là hai mặt của cùng một quá trình, của xu hướng trí tuệ
hóa đối với công nhân và giai cấp công nhân. Trên thực tế đã có thêm nhiều khái niệm
mới để chỉ công nhân theo xu hướng này. Đó là “công nhân tri thức”, “công nhân trí
thức”, “công nhân áo trắng”, lao động trình độ cao, Nền sản xuất và dịch vụ hiện đại đòi
hỏi người lao động phải có hiểu biết sâu rộng tri thức và kỹ năng nghề nghiệp.

Ngày nay, công nhân được đào tạo chuẩn mực và thường xuyên được đào tạo lại,
đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ trong nền sản xuất. Hao phí lao động
hiện đại chủ yếu là hao phí về trí lực chứ không còn thuần túy là hao phí sức lực cơ bắp.
Cùng với nhu cầu về vật chất, nhu cầu về tinh thần và văn hóa tinh thần của công nhân
ngày càng tăng, phong phú đa dạng hơn và đòi hỏi chất lượng hưởng thụ tinh thần cao
hơn.

b) Xu hướng “trung lưu hóa” gia tăng

Trong bối cảnh toàn cầu hóa chủ nghĩa tư bản đã có một số điều chỉnh nhất định về
phương thức quản lý, các biện pháp điều hòa mâu thuẫn xã hội. Điều này đang tác hai mặt
vào giai cấp công nhân. Một bộ phận công nhân đã tham gia vào sở hữu một lượng tư liệu
sản xuất của xã hội thông qua chế độ cổ phần hóa. Về mặt hình thức, họ không còn là “vô
sản” nữa và có thể được “trung lưu hóa” về mức sống, nhưng về thực chất, ở các nước tư
bản, do không chiếm được tỷ lệ sở hữu cao nên quá trình sản xuất và phân chia lợi nhuận
vẫn bị phụ thuộc vào những cổ đông lớn. Việc làm và lao động vẫn là nhân tố quyết định
mức thu nhập, đời sống của công nhân hiện đại. Quyền định đoạt quá trình sản xuất,
quyền quyết định cơ chế phân phối lợi nhuận vẫn thuộc về giai cấp tư sản

Cần hiểu rằng, khi sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất vẫn tồn tại thì
những thành quả của khoa học và công nghệ, trình độ kinh tế tri thức và những điều chỉnh
về thể chế quản lý kinh tế và xã hội...trước tiên vẫn là công cụ để bóc lột giá trị thặng dư.

14
Giai cấp công nhân vẫn bị bóc lột nặng nề bởi các chủ thể mới trong toàn cầu hóa như các
tập đoàn xuyên quốc gia, nhà nước của các nước tư bản phát triển …

Là giai cấp giữ vai trò lãnh đạo, Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công
nhân, giữ vai trò cầm quyền trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một số quốc gia
xã hội chủ nghĩa.

Từ khi nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ra đời – nhà nước Xô – viết, giai cấp
công nhân và đội tiền phong của mình đã trở thành giai cấp lãnh đạo giành chính quyền
và xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở các quốc gia đi lên chủ nghĩa xã hội: Liên Xô
và Đông Âu trước đây và ở các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay (Việt Nam, Trung
Quốc...).

Trong bối cảnh mới của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp
thế hệ mới (4.0), công nhân hiện đại cũng tăng nhanh về số lượng, thay đổi lớn về cơ cấu
trong nền sản xuất hiện đại. Cơ cấu xã hội, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu thu nhập giữa các
bộ phận công nhân rất khác nhau trên phạm vi toàn cầu cũng như trong mỗi quốc gia.

2.2. Vai trò của giai cấp công nhân trên thế giới ngày nay
2.2.1. Về kinh tế
Giai cấp công nhân trong CNTB: do sự phát triển của nền sản xuất hiện đại đã tạo
điều kiện để phát huy vai trò của giai cấp công nhân trong các cuộc đấu tranh vì dân sinh,
dân chủ, tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội.

Mâu thuẫn vô sản và tư sản diễn ra gay gắt đã thúc đẩy cuộc đấu tranh chống áp
bức, bóc lột đã dẫn đến xác lập một trật tự xã hội mới công bằng và bình đẳng, từng bước
thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong lĩnh vực kinh tế.

2.2.2. Về chính trị - xã hội


Ở các nước tư bản chủ nghĩa, mục tiêu đấu tranh trực tiếp của giai cấp công nhân và
lao động là chống bất công và bất bình đẳng xã hội.
Mục tiêu lâu dài là giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, được nêu rõ trong Cương lĩnh chính trị của các Đảng Cộng sản trong các nước tư
bản chủ nghĩa.

15
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, nơi các Đảng Cộng sản đã trở thành Đảng cầm
quyền, nội dung chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân là lãnh đạo
thành công sự nghiệp đổi mới, giải quyết thành công các nhiệm vụ trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch vững mạnh, thực
hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước phát triển nhanh
và bền vững.

2.2.3. Về văn hóa, tư tưởng


Đấu tranh về ý thức hệ giữa hệ giá trị của giai cấp công nhân với hệ giá trị của giai
cấp tư sản. Đấu tranh để bảo vệ nền tư tưởng của Đảng cộng sản, giáo dục nhận thức và
củng cố niềm tin khoa học đối với lý tưởng, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cho giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, giáo dục và thực hiện chủ nghĩa quốc tế chân chính của
giai cấp công nhân trên cơ sở phát huy chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc. 

PHẦN III. VAI TRÒ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam
Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng tiên phong, có vai trò nòng cốt trong việc
thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước. Đây cũng là lực lượng khá đông đảo
tạo nên nguồn lao động dồi dào của nước ta. Do đó, việc hiểu rõ những đặc điểm của giai
cấp này sẽ giúp Đảng và Nhà nước có những chính sách tác động phù hợp để phát triển
lực lượng này cả về chất và lượng, nhằm bổ sung nguồn nhân lực vững chắc phục vụ cho
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.1.1. Khái niệm
Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển bao
gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình
sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp hoặc sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có tính
chất công nghiệp.

3.1.2. Đặc điểm lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
a) Giai cấp công nhân Việt Nam phát triển chậm vì nó sinh ra và lớn lên ở một nước
thuộc địa nửa phong kiến, dưới ách thống trị của thực dân Pháp.

Giai cấp công nhân Việt Nam được hình thành từ trong công cuộc khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp vào cuối những năm thế kỷ XIX.

16
Sau cuộc xâm lăng và bình định đã cơ bản hoành thành, thực dân Pháp liền bắt tay
tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất với quy mô mở rộng ra cả nước. Giai cấp công
nhân Việt Nam bị ba tầng áp bức bóc lột: Pháp, địa chủ phong kiến, tư sản.

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, để bù đắp những tổn thất, thực dân Pháp tiến hành
cuộc khai thác thuộc địa lần thứ II (1919-1929) nhằm tăng cường vơ vét, bóc lột nhân dân
thuộc địa để bù đắp những tổn thất trong chiến tranh. Sự phát triển của một số ngành công
nghiệp khai khoáng, dệt,... dẫn đến số lượng công nhân tăng nhanh. Tính đến cuối năm
1929, tổng số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp tư bản Pháp là hơn 22 vạn
người. Tuy nhiên, cả hai cuộc khai thác thuộc địa làm cạn kiệt tài nguyên của đất nước.

Thực dân Pháp ở Đông Dương đã bắt đầu mở thêm trường học mới cùng một số cơ
sở văn hóa, y tế không nhằm nâng cao dân trí của nước ta mà tạo ra một lớp cho người
bản xứ nhằm phục vụ cho công việc cai trị sau này. Việc giảng dạy bằng tiếng Pháp nhằm
thực hiện chính sách nô dịch, ngu dân, làm sai lệch lịch sử dân tộc Việt Nam.

Chính quyền thực dân Pháp còn thu lợi tức thông qua hệ thống các chính sách thuế
vô lý. Các loại thuế chia thành hai loại: thu cho Ngân sách Đông Dương (thuế quan, thuế
rượu, … ); và Ngân sách địa phương và các tỉnh (thuế thân, thuế ruộng,...).

 Như vậy, từ sự đầu tư vào công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp dẫn
tới sự ra đời tất yếu khách quan của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.
Và đó cũng là điều kiện cơ bản làm xuất hiện một giai cấp mới - giai cấp công nhân Việt
Nam. Tuy nhiên chúng đã ra sức bọc lột sức lao động, làm cạn kiệt tài nguyên đất nước,
truyền bá những tư tưởng sai lệch để làm ngu dân, làm người dân Việt Nam nói chung và
công nhân Việt Nam nói riêng có những suy nghĩ sai lệch.

b) Giai cấp công nhân Việt Nam sớm thể hiện là lực lượng chính trị tiên phong để
lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp

Dù lượng giai cấp công nhân Việt Nam ra đời còn ít nhưng đã sớm tiếp thu và kế
thừa toàn bộ những tinh hoa của dân tộc, như tinh thần yêu nước nồng nàn, đấu tranh kiên
cường dựng nước và giữ nước, ý chí kiên cường, bất khuất, đoàn kết, tinh thần lao động
cần cù sáng tạo, … Chính những truyền thống tốt đẹp đó đã tạo cho giai cấp công nhân
Việt Nam dấu ấn riêng, đó là luôn đồng hành cùng lịch sử dân tộc và là lực lượng góp
phần to lớn vào thành công cách mạng nước nhà trong thời kỳ lịch sử

17
Giai cấp công nhân Việt Nam đã hăng hái đấu tranh với tư bản Pháp. Tuy nhiên,
phần lớn các cuộc đấu tranh còn tản mạn và tự phát, thiếu tổ chức lãnh đạo và chỉ tập
trung vào đòi quyền lợi kinh tế, quyền sống trước mắt, với các hình thức như: bỏ việc về
quê, lãn công, đòi tăng lương, chống đánh đập…

Nhận thức được vai trò quan trọng của tổ chức Công hội, của công nhân trong cuộc
đấu tranh chống đế quốc, bóc lột, bảo vệ quyền lợi của công nhân, Tôn Đức Thắng đã bắt
tay vào cuộc vận động thành lập Công hội Ba Son. Mục đích là: Đấu tranh bênh vực
quyền lợi của công nhân, đấu tranh chống đế quốc tư bản. Công hội đỏ đã trở thành linh
hồn của phong trào bãi công của công nhân. Đây là cuộc đấu tranh đầu tiên của công nhân
ta mang tính chính trị quốc tế.

Vào ngày 28/7/1929, tại Đại hội đại biểu Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ lần thứ nhất,
Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ được quyết định thành lập (đây chính là tiền thân của Công
đoàn Việt Nam ngày nay); đồng chí Nguyễn Đức Cảnh - Uỷ viên BCH Trung ương lâm
thời của Đông Dương Cộng sản Đảng được bầu làm Hội trưởng.

“Sự kiện thành lập Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ là mốc son chói lọi trong phong trào
công nhân và Công đoàn Việt Nam. Kể từ đây, giai cấp công nhân Việt Nam có một đoàn
thể cách mạng rộng lớn, hoạt động có tôn chỉ, mục đích, đứng ra dẫn dắt phong trào.”

Tổ chức Công hội Đỏ được thành lập do yêu cầu của hoàn cảnh lịch sử thời bấy giờ.
Đầu thế kỷ XX, dưới sự áp bức, bóc lột hà khắc của thực dân Pháp, giai cấp công nhân
Việt Nam đã đoàn kết, tổ chức, tập hợp nhau lại để đấu tranh đòi quyền lợi. Những năm
1928 – 1929, chủ nghĩa Mác Lênin được truyền bá sâu rộng vào Việt Nam đã làm cho
phong trào công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ, từ đó đòi hỏi phải có sự lãnh đạo
của Đảng để đưa phong trào tiếp tục đi lên.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Công đoàn Việt Nam thực sự là trung tâm đoàn kết của
công nhân lao động Việt Nam. Với trên 20 vạn người trong năm 1945, các đoàn viên
Công đoàn trở thành lực lượng nòng cốt làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thành
công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước Công nông đầu tiên ở
Đông Nam Á.

 Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Giai cấp công nhân Việt Nam
luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tạo ra sức lan toả mạnh mẽ

18
lôi cuốn tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội đi theo con đường cách mạng chân
chính, đánh bại mọi âm mưu của kẻ thù xâm lượng, thể hiện tinh thần, khí phách Việt
Nam bách chiến, bách thắng với bạn bè quốc tế.

c) Giai cấp công nhân Việt Nam gắn bó mật thiết với các giai cấp, tầng lớp khác
trong xã hội

Đại bộ phận công nhân Việt Nam đều xuất phát từ nông dân và các tầng lớp lao
động khác, cùng chung lợi ích, cùng chung nguyện vọng và khát vọng đấu tranh cho độc
lập tự do để giải phóng dân tộc và phát triển đất nước.

Cùng hướng tới đích đến là chủ nghĩa xã hội nên giai cấp công nhân Việt Nam có
mối liên hệ tự nhiên, chặt chẽ với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trong
xã hội. Đặc điểm này tạo ra thuận lợi để thúc đẩy đoàn kết giai cấp gắn liền với đoàn kết
dân tộc trong mọi thời kì đấu tranh cách mạng, từ cách mạng giải phóng dân tộc đến cách
mạng xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong sự nghiệp đổi mới hiện
nay.

3.1.3. Những biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam
a) Giai cấp công nhân nước ta tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu và ngành
nghề, là giai cấp đi đầu về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta được quản lý theo cơ chế hành chính, tập
trung, bao cấp, giai cấp công nhân nước ta có số lượng không lớn và khá thuần nhất về cơ
cấu thành phần và ngành nghề, công nhân làm việc chủ yếu trong thành phần kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể. Quá trình đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế, chủ trương phát
triển kinh tế nhiều thành phần đã tạo bước chuyển quan trọng đối với cơ cấu nền kinh tế.
Bên cạnh thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư nhân và
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã hình thành và phát triển nhanh. Điều đó đã tạo sự
chuyển biến trong cơ cấu lao động xã hội, làm cho lực lượng công nhân - lao động công
nghiệp và dịch vụ phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu. Trong đó, số công
nhân trong khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng
mạnh và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn.

Qua 35 năm đổi mới có thể thấy giai cấp công nhân Việt Nam đã tăng về số lượng,
trưởng thành về chất lượng và khẳng định, và giai cấp công nhân ngày càng phát huy vai

19
trò, địa vị của mình trong thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Theo số liệu thống kê hiện
tại có tổng số lao động làm công hưởng lương trong các loại hình doanh nghiệp ở nước ta
với số lượng có khoảng 24,5 triệu người, trong đó công nhân, lao động trong các doanh
nghiệp chiếm khoảng 60%, chiếm tỉ lệ khoảng 14% số dân và 27% lực lượng lao động xã
hội, bao gồm số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
trong nước, đang làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài và số lao động giản đơn trong các
cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể. Công nhân trong doanh nghiệp ngoài nhà nước và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh; ngược lại, công nhân trong
doanh nghiệp nhà nước ngày càng giảm về số lượng. Số lượng công nhân tăng nhanh chủ
yếu ở các loại hình doanh nghiệp tại những khu công nghiệp trọng điểm như: Hà Nội, Hải
Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai...

b) Giai cấp công nhân nước ta đang được trẻ hóa, trình độ học vấn, chuyên môn
nghề nghiệp từng bước được nâng lên.

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa, chủ động hội nhập quốc
tế không thể không tiếp nhận những thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại
phục vụ hoạt động của ngành công nghiệp. Đồng thời tạo cơ chế sàng lọc khắc nghiệt đối
với giai cấp công nhân. Đặc biệt trong cuộc cách mạng 4.0, điều này đòi hỏi phải khắc
phục triệt để những hạn chế về tác phong và kỷ luật lao động của thời kỳ thực hiện cơ chế
hành chính, tập trung bao cấp và phải nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp của
công nhân. Nếu không, doanh nghiệp và công nhân không thể tồn tại và phát triển. Đây là
đòi hỏi rất cao, yêu cầu rất lớn và nghiêm ngặt đối với doanh nghiệp và công nhân, cũng
là động lực thúc đẩy trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp của công nhân từng bước
được nâng lên. Cùng với đó là việc rèn luyện, nâng cao tác phong và kỷ luật lao động theo
hướng hiện đại và hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức.

c) Giai cấp công nhân nước ta hiện nay đã kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp
của giai cấp công nhân Việt Nam trong các giai đoạn cách mạng trước đây, đa số công
nhân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, đi đầu, năng động, sáng tạo trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Giai cấp công nhân nước ta hiện nay đã kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của
giai cấp công nhân Việt Nam trong các giai đoạn cách mạng trước đây, thực hiện mục
tiêu, nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là truyền thống tiên phong
cách mạng, kiên trì khắc phục và vượt qua khó khăn, gian khổ, quyết liệt, năng động, sáng
20
tạo trong sản xuất... Đa số công nhân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, thắng
lợi của mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội.

d) Số lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm; sự phân
tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo trong giai cấp công nhân ngày càng sâu sắc.

Số lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm do việc đổi
mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, nhiều doanh nghiệp chuyển thành doanh
nghiệp, công ty cổ phần. Bên cạnh đó, sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo trong
giai cấp công nhân ngày càng sâu sắc do chênh lệch ngày càng lớn về thu nhập giữa các
bộ phận công nhân. Thu nhập của công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước thường cao
và ổn định hơn so với công nhân trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Đặc biệt, sự
chênh lệch về thu nhập và mức sống ngày càng tăng giữa những công nhân có cổ phần
với những công nhân không có cổ phần trong các doanh nghiệp, công ty cổ phần, giữa
những công nhân có trình độ chuyên môn và tay nghề cao (công nhân trí thức) với những
công nhân có tay nghề và trình độ chuyên môn thấp và lao động giản đơn. Điều này dẫn
đến tình trạng phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội trong giai cấp công nhân ngày càng
sâu sắc.

3.2. Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam
3.2.1. Về kinh tế
Hiện nay, sự phát triển không ngừng và vượt trội của cách mạng công nghiệp 4.0 có
đặc điểm là “Tốc độ vận động ngày càng nhanh chứ không đều đặn”, với quy mô là “thúc
đẩy những chuyển đổi mô hình chưa từng có trên các khía cạnh kinh tế, kinh doanh, xã
hội và cá nhân”, có những tác động “dẫn đến sự chuyển đổi của toàn bộ các hệ thống giữa
các (và trong mỗi) quốc gia, doanh nghiệp ngành công nghiệp và toàn xã hội”

Đối với cách mạng Việt Nam, giai cấp công nhân luôn có một vai trò và vị trí hết
sức quan trọng. Trong các giai đoạn cách mạng trước đây, giai cấp công nhân Việt Nam
không chỉ là giai cấp lãnh đạo cách mạng mà còn là một trong những lực lượng cách
mạng chủ yếu trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm xóa bỏ sự thống trị
của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, phong kiến giành độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, giai cấp công nhân Việt
Nam tiếp tục đảm đương sứ mệnh lịch sử lớn lao không chỉ tiếp tục là giai cấp lãnh đạo
cách mạng mà còn là lực lượng tiên phong, đi đầu trong sự nghiệp đổi mới. Để khẳng
định hơn nữa về vai trò và vị trí của giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn cách
21
mạng hiện nay, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành Trung ương khóa X của
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định: “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực
lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc,
làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp,
hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”

Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: “Là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua chính đảng của nó, giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến;
giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.”

Giai cấp công nhân phát huy vai trò trong khối liên minh công - nông - trí thức để
tạo ra những động lực phát triển nông nghiệp - nông thôn và nông thôn ở nước ta theo
hướng phát triển bền vững, hiện đại hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ tài
nguyên và môi trường sinh thái.

Trong lễ kỷ niệm 135 năm Ngày Quốc tế lao động (1/5/2021), Chủ tịch nước
Nguyễn Xuân Phúc đã công bố số liệu khái quát: tuy giai cấp công nhân Việt Nam hiện
nay chỉ chiếm khoảng 14% dân số, 27% lực lượng lao động, song hằng năm giai cấp công
nhân đã tạo ra trên 65% giá trị tổng sản phẩm xã hội và hơn 70% giá trị thu ngân sách nhà
nước… Với bản lĩnh cách mạng và tính chính trị - xã hội tích cực, giai cấp công nhân
nước ta thật sự là nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo xã hội thông qua Đảng ta...

Tuy nhiên, trong thời đại 4.0, giai cấp công nhân cũng gặp rất nhiều đe doạ khi robot
xuất hiện làm cho dây chuyền sản xuất trở nên đơn giản hơn, các nhà máy xí nghiệp ngày
càng ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong dây chuyền sản xuất. Nhưng nhìn tổng thể, giai cấp
công nhân vẫn đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất và phát triển kinh tế, đặc
biệt là công nhân có tri thức. Cách mạng 4.0 đem lại nhiều lợi ích cho kinh tế xã hội, bộ
phân công nhân có tri thức sẽ được trả lương cao nhờ có tài năng, kỹ thuật cao trong việc
điều hành những sản phẩm của trí tuệ nhân tạo. Vì vậy, dưới tác động của hội nhập quốc
tế, của cuộc cách mạng công nghệ hiện đại, giai cấp công nhân Việt Nam đã có sự phát
triển nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu thành phần và ngành nghề, trình độ chuyên

22
môn nghề nghiệp không ngừng được nâng cao, đời sống vật chất tinh thần ngày càng
được cải thiện.

Số liệu thống kê cho thấy, nếu trước 1986, nước ta có khoảng 3,38 triệu công nhân,
chiếm 16% lực lượng lao động xã hội; thì đến cuối 2015 tăng lên 12.856,9 nghìn người,
chiếm 14,01% dân số và 23,81% lực lượng lao động xã hội. Trong đó, có1.371,6 nghìn
công nhân làm việc trong doanh nghiệp nhà nước (chiếm 10,67%); 7.712,2 nghìn công
nhân làm việc trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước (chiếm 59,99%); 3.772,7 nghìn
công nhân làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (chiếm 29,34%).

3.2.2. Về chính trị - xã hội


 Giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; giữ vững bản chất giai cấp công nhân
của Đảng, vai trò tiên phong, gưỡng mẫu của cán bộ, đảng viên.
 Chủ động, tích cực tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thực sự
trong sạch, vững mạnh.
 “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.
 Nêu cao trách nhiệm tiên phong, đi đầu, góp phần củng cố và phát triển cơ sở
chính trị - xã hội quan trọng của Đảng.
 Giai cấp công nhân (thông qua hệ thống tổ chức công đoàn) chủ động, tích cực
tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch vững mạnh,
bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa để bảo vệ nhân dân – đó là trọng
trách lịch sử thuộc về sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
 Nâng cao ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng.
 Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn với "Xây dựng, chỉnh đốn Đảng
trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng", xây
dựng tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội trong giai cấp công nhân
vững mạnh để đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đưa đất nước phát triển mạnh mẽ tiến lên xây
dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa.
 Về chính trị, giai cấp công nhân thật sự là chủ thể quan trọng trong đời sống
chính trị của đất nước; phát huy vai trò lãnh đạo thông qua Đảng cầm quyền; phát huy
quyền làm chủ thông qua Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tổ chức công đoàn và
các tổ chức chính trị - xã hội .

23
 Về xã hội, giai cấp công nhân với bản lĩnh cách mạng và tính tích cực chính trị -
xã hội thật sự là nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công nhân,
giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; góp phần
quan trọng giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng quan hệ lao động
hài hòa, tiến bộ.
Tuy nhiên, do trình độ phát triển kinh tế - xã hội đất nước còn thấp, do những hạn
chế chậm được khắc phục trong lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước, hoạt động của
công đoàn và các tổ chức của hệ thống chính trị và do những hạn chế của bản thân giai
cấp công nhân trong quá trình phát triển, vai trò, địa vị của giai cấp công nhân chưa được
phát huy đầy đủ. Còn nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn cần tiếp tục làm rõ và thực hiện tốt
hơn để tiếp tục xây dựng, phát huy đầy đủ, hiệu quả vai trò, địa vị của giai cấp công nhân,
đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.

Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân đã đóng góp trực tiếp to
lớn vào quá trình phát triển của đất nước, cùng với các giai cấp, tầng lớp và thành phần xã
hội khác, giai cấp công nhân nước ta là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng và
Nhà nước.

Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt
Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng

 Giai cấp công nhân là nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên
minh công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
của Đảng và qua đó góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã
hội; xây dựng quan hệ lao động hài hòa, tiến bộ.

3.2.3. Về văn hóa, tư tưởng


 Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, cốt lõi là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
 Bảo vệ sự trong sáng của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
chống lại quan điểm sai trái của thế lực thù địch.

24
 Kiên định mục tiêu lý tưởng và con đường Cách mạng: độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.
 Giáo dục ý thức giai cấp, bản lĩnh chính trị, chủ nghĩa yêu nước và và chủ
nghĩa quốc tế, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa giai cấp công nhân với dân
tộc, đoàn kết giai cấp gắn liền với đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế.

3.3. Phương hướng và một số giải pháp xây dựng giai cấp công nhân ở Việt Nam
thành lực lượng đi đầu trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.3.1. Phương hướng
 Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số
lượng và chất lượng
 Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp,
tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân
 Bảo đảm việc làm, nhà ở, các công trình phúc lợi phục vụ cho công nhân…
 Sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,… để đảm bảo quyền lợi, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của công nhân…

3.3.2. Một số giải pháp chủ yếu


 Nâng cao nhận thức, kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo
cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam.
 Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh gắn kết hữu cơ với xây dựng, phát huy sức
mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
 Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế. Xử lý
đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; đảm bảo hài hòa lợi ích giữa công
nhân, người sử dụng lao động, Nhà nước và toàn xã hội; không ngừng nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của công nhân, quan tâm giải quyết kịp thời nhưng vấn
đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân.
 Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng tri
thức hóa giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt quan tâm xây
dựng thế hệ công nhân trẻ, có học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao,
25
ngang tầm khu vực và quốc tế, có lập trường giai cấp và bản lĩnh chính trị vững
vàng, trở thành bộ phận nòng cốt của giai cấp công nhân.
 Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,
của toàn xã hội và sự nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi người công nhân, sự tham
gia đóng góp tích cực của người tuyển dụng lao động.

26
KẾT LUẬN
Như vậy, thông qua việc nghiên cứu và tìm hiểu về “Quan niệm của chủ nghĩa Mác
- Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và liên hệ vai trò của giai cấp công
nhân thế giới và Việt Nam trong thời đại ngày nay” nhóm đã làm rõ và khẳng định được:
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng
nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử. Sứ mệnh lịch sử là sự tổng quát của
giai cấp công nhân thông qua chính đảng tiền phong, giai cấp công nhân tổ chức, lãnh đạo
nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ các chế độ người bóc lột người, xóa bỏ chủ nghĩa tư
bản, giải phóng giai cấp công nhân nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, nghèo nàn, lạc
hậu xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh. Theo quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen, việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cần phải trải qua hai
bước. Bước thứ nhất: giai cấp công nhân biến thành giai cấp thống trị và giành lấy chính
quyền nhà nước vào tay giai cấp mình. Bước thứ hai: giai cấp công nhân dùng sự thống trị
của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản để tập trung tất cả
những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước từ đó tiến hành tổ chức xây dựng xã hội
mới - xã hội chủ nghĩa. Hai bước này quan hệ chặt chẽ với nhau, giai cấp công nhân
không thực hiện được bước thứ nhất thì cũng không thực hiện được bước thứ hai nhưng
bước thứ hai là quan trọng nhất để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình. Đặc biệt, Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam là xóa bỏ chế độ tư bản
chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ bóc lột, tự giải phóng, giải phóng nhân dân lao động và toàn thể
nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột, xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa. Và
phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học
vấn và nghề nghiệp thực hiện “tri thức hóa công nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng công
nghệ vào sản xuất nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả làm việc, xứng đáng với
vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới.

Và trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong bối cảnh cuộc cách mạng
công nghệ 4.0 đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, giai cấp công nhân cần phải phát huy mạnh
mẽ sứ mệnh lịch sử của mình. Không chỉ tiếp tục là giai cấp lãnh đạo cách mạng mà còn
là lực lượng tiên phong, đi đầu trong sự nghiệp đổi mới. Giai cấp công nhân là nòng cốt
phải tự mình phấn đấu, nâng cao tri thức, tay nghề để có thế làm tốt sứ mệnh lịch sử đã đề
ra, phấn đấu đưa nước ta từ một nước nông nghiệp sớm trở thành nước công nghiệp hiện
đại. Để thực hiện sứ mệnh lịch sử to lớn này, giai cấp công nhân Việt Nam cần phát triển
không ngừng về số lượng, nâng cao chất lượng, phát huy vai trò của một giai cấp tiên

27
phong, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của
Đảng.

Cách mạng công nghiệp 4.0 là một thành tựu của văn minh nhân loại, có những
đóng góp, bổ sung vào nhận thức duy vật lịch sử về các vấn đề trong phát triển của xã hội.
Ở phương diện xã hội, sát cánh cùng giai cấp công nhân sản xuất ra của cải vật chất ngày
càng lớn đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Bên cạnh đó, giai cấp công nhân,
đang xuất hiện ngày càng đông đảo trình độ ngày càng nâng cao, cơ cấu, phân tầng sâu
sắc. Cùng với sự phát triển của Cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế sáng tạo, giai cấp
công nhân ngày càng chiếm vị trí chủ đạo trong lực lượng lao động xã hội, sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân có những thay đổi trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, vai trò vị trí
tiên phong trong thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không giai cấp nào
thay thế được. Chính vì vậy, việc giáo dục sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cho
các thế hệ sinh viên là việc làm cần thiết. Điều này góp phần giúp sinh viên nhận thức
được vị trí, vai trò trò trách nhiệm xã hội của bản thân. Sinh viên cố gắng vươn lên học
tập rèn luyện, bản lĩnh chính trị vững vàng, chinh phục khoa học, làm chủ công nghệ, tăng
năng suất lao động góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước văn minh, giàu mạnh.

Trên đây là toàn bộ kết quả quá trình thảo luận của nhóm 3. Xin chân thành cảm ơn
sự hướng dẫn của giảng viên Tạ Thị Vân Hà. Bài thảo luận vẫn còn những thiếu sót và
chưa được hoàn chỉnh, kính mong cô và các bạn sinh viên đóng góp ý kiến một cách
khách quan và công bằng để bài thảo luận của nhóm được đầy đủ và chi tiết hơn. Chúng
em xin chân thành cảm ơn.

--Hết--

28
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (Dành cho
bậc đại học không chuyên luận chính trị).
2. Báo Công đoàn Ngân hàng Việt Nam (2021). Đổi mới tổ chức, hoạt động công
đoàn, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh đáp ứng yêu cầu phát triển của đất
nước.
3. Lê Thị May (2022). Phân tích về sự ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam.
https://luatminhkhue.vn/
4. Dư Thị Huyền (2016). Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế.
5. Công đoàn lao động Quảng Nam (2016). Tóm tắt quá trình hình thành và phát
triển của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I,
Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
7. PGS, TS Nguyễn Đức Bách (2021). Xây dựng giai cấp công nhân hiện đại của
Việt Nam. http://lyluanchinhtri.vn/
8. Thạc sĩ Chu Minh Quốc (2021). Khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân thời đại 4.0. https://baoquankhu7.vn/
9. GS, TS. Phùng Hữu Phú (2020). Địa vị chính trị, kinh tế, xã hội của giai cấp công
nhân Việt Nam hiện nay và kiến nghị Đại hội XIII của Đảng. Tạp chí Ban Truyền
giáo Trung ương.

29

You might also like