You are on page 1of 19

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Họ và tên SV: Bùi Quang Minh

Lớp chuyên ngành: Quản trị Kinh doanh Quốc tế Tiên tiến 64A

Mã sinh viên: 11224153

HÀ NỘI, NĂM 2023


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................3
NỘI DUNG.....................................................................................................................4
I. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN.........4
1.1. Khái niệm và đặc điểm của giai cấp công nhân...............................................4

1.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân...................................................................4

1.1.2. Đặc điểm của giai cấp công nhân..............................................................5


1.2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân...........................................6
1.3. Những điều kiện quy định và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân.........................................................................................................................8
1.3.1. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.....8

1.3.2. Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử......9
II. GIAI CẤP CÔNG NHÂN THẾ KỶ XXI...................................................................10
2.1. Những nhận thức mới về giai cấp công nhân thế kỷ XXI..............................10
2.2. Giai cấp công nhân hiện nay..........................................................................11

2.2.1. Những điểm tương đối ổn định so với thế kỷ XIX.................................11

2.2.2. Sự phát triển của giai cấp công nhân hiện nay........................................12

2.2.3. Những hạn chế của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay....................15

2.2.4. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
...........................................................................................................................15

2.2.5. Giải pháp khắc phục những hạn chế.......................................................16


KẾT LUẬN..................................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................18

2
MỞ ĐẦU

Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời với mục đích để nghiên cứu, làm sáng tỏ sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, luận chứng những điều kiện, những con đường
để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó của mình. Hơn nữa, chủ nghĩa xã
hội khoa học còn chỉ ra những luận cứ chính trị - xã hội rõ ràng, trực tiếp nhất để
chứng minh, khẳng định sự thay thế tất yếu của chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã
hội. Trong công cuộc chuyển biến hình thái xã hội mang tính lịch sử đó, giai cấp công
nhân chính là người nắm vai trò chủ chốt. Sứ mệnh lịch sử vĩ đại của giai cấp công
nhân được chủ nghĩa xã hội khoa học khẳng định: họ chính là giai cấp duy nhất có khả
năng lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột trong cuộc đấu tranh
từng bước xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Trong giai đoạn mới hiện nay, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang
diễn ra trên toàn thế giới, đang ở trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Xã hội loài người còn đang có nhiều biến
động, tiêu cực… thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được
đặt ra trở nên bức thiết hơn bao giờ hết, cả trên hai phương diện lý luận và thực tiễn.

Xuất phát từ lý do trên, em đã chọn đề tài làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân cũng như khẳng định sứ mệnh lịch sử ấy vẫn trường tồn cho tới ngày
nay. Do những hạn chế cả về mặt kiến thức và thời gian, bài tiểu luận này sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của Cô. Em xin chân
thành cảm ơn.

3
NỘI DUNG

I. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ GIAI CẤP


CÔNG NHÂN VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

1.1. Khái niệm và đặc điểm của giai cấp công nhân

1.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân

C. Mác và Ph. Ăngghen đã sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ giai cấp
công nhân như giai cấp vô sản; giai cấp vô sản hiện đại; giai cấp công nhân hiện đại;
giai cấp công nhân đại công nghiệp... Đó là những cụm từ đồng nghĩa để chỉ giai cấp
công nhân - con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực
lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại. Ngoài ra, các ông còn
dùng những thuật ngữ có nội dung hẹp hơn để chỉ các loại công nhân trong các ngành
sản xuất khác nhau, trong những giai đoạn phát triển khác nhau của công nghiệp như:
công nhân khoáng sản, công nhân công trường thủ công, công nhân công xưởng, công
nhân nông nghiệp...

Dù diễn đạt bằng những thuật ngữ khác nhau, song giai cấp công nhân được các
nhà kinh điển xác định theo hai phương diện cơ bản:

Về phương diện kinh tế - xã hội:

Là sản phẩm và là chủ thể của nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân
là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính
chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. Họ lao động bằng phương thức
công nghiệp ngày càng hiện đại với những đặc điểm nổi bật: sản xuất bằng máy móc,
lao động có tính chất xã hội hóa, năng suất lao động cao và tạo ra những tiền đề của
cải vật chất cho xã hội mới.

Mô tả quá trình phát triển của giai cấp công nhân, C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ
rõ: “Trong công trường thủ công và trong nghề thủ công, người công nhân sử dụng
công cụ của mình, còn trong công xưởng thì người công nhân phải phục vụ máy móc”.
Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, công nhân công nghiệp công xưởng là bộ phận tiêu biểu
cho giai cấp công nhân hiện đại.

Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các ông nhấn mạnh: “các giai
cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai
cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” và “công nhân cũng là
một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc vậy... Công nhân Anh là đứa con
đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại”.

4
Về phương diện chính trị - xã hội:

Từ lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân còn là sản phẩm
xã hội của quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa, một xã hội có “điều kiện tồn tại dựa
trên cơ sở chế độ làm thuê”. Trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, “giai cấp vô sản
là giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất các tư liệu sản xuất của bản
thân, nên buộc phải bán sức lao động của mình để sống”.

C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ, đó là giai cấp của những người lao động không
có sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Họ phải bán sức lao động cho nhà tư
bản và bị chủ tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Đối diện với nhà tư bản, công nhân là
những người lao động tự do, với nghĩa là tự do bán sức lao động của mình để kiếm
sống. Chính điều này khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp đối kháng với
giai cấp tư sản. “Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa
một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác, vì
thế, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường
với mức độ như nhau”.

Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất xã hội hóa ngày càng rộng lớn với quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn cơ bản
này thể hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn về lợi ích giữa giai cấp công nhân và giai cấp
tư sản. Lao động sống của công nhân là nguồn gốc của giá trị thặng dư và sự giàu có
của giai cấp tư sản cũng chủ yếu nhờ vào việc bóc lột được ngày càng nhiều hơn giá trị
thặng dư.

Mâu thuẫn đó cho thấy tính chất đối kháng không thể điều hòa giữa giai cấp
công nhân (giai cấp vô sản) với giai cấp tư sản trong phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa và trong chế độ tư bản chủ nghĩa.

Từ phân tích trên, theo chủ nghĩa Mác - Lênin: Giai cấp công nhân là một tập
đoàn xã hội, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp
hiện đại; họ lao động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại và gắn liền
với quá trình sản xuất vật chất hiện đại, là đại biểu cho phương thức sản xuất mang
tính xã hội hóa ngày càng cao. Họ là người làm thuê do không có tư liệu sản xuất,
buộc phải bán sức lao động để sống và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; vì
vậy lợi ích cơ bản của họ đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản. Đó là giai cấp
có sứ mệnh phủ định chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.

5
1.1.2. Đặc điểm của giai cấp công nhân

Nghiên cứu giai cấp công nhân (giai cấp vô sản) từ phương diện kinh tế - xã hội
và chính trị - xã hội trong chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã không những
đưa lại quan niệm khoa học về giai cấp công nhân mà còn làm sáng tỏ những đặc điểm
quan trọng của nó với tư cách là một giai cấp cách mạng có sứ mệnh lịch sử thế giới.
Có thể khái quát những đặc điểm chủ yếu của giai cấp công nhân bao gồm:

Đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân là lao động bằng phương thức công
nghiệp với đặc trưng công cụ lao động là máy móc, tạo ra năng suất lao động cao, quá
trình lao động mang tính chất xã hội hóa.

Giai cấp công nhân là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp, là chủ thể
của quá trình sản xuất vật chất hiện đại. Do đó, giai cấp công nhân là đại biểu cho lực
lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất tiên tiến, quyết định sự tồn tại và
phát triển của xã hội hiện đại.

Nền sản xuất đại công nghiệp và phương thức sản xuất tiên tiến đã rèn luyện
cho giai cáp công nhân những phẩm chất đặc biệt về tính tổ chức, kỷ luật lao động,
tinh thần hợp tác và tâm lý lao động công nghệp. Đó là một giai cấp cách mạng và có
tinh thần cách mạng triệt để.

Những đặc điểm ấy chính là những phẩm chất cần thiết để giai cấp công nhân
có vai trò lãnh đạo cách mạng.

1.2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là những nhiệm vụ mà
giai cấp công nhân cần phải thực hiện với tư cách là giai cấp tiên phong, là lực lượng
đi đầu trong cuộc cách mạng xác lập hình thái kinh tế - xã hội công sản chủ nghĩa.

Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, sứ mệnh lịch sử tổng quát của giai cấp công nhân
thông qua chính đảng tiền phong, giai cấp công nhân tổ chức, lãnh đạo nhân dân lao
động đấu tranh xóa bỏ các chế độ người bóc lột người, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, giải
phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn,
lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.

Nói về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, C.Mác đã viết: “Thực hiện sự
nghiệp giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”.

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thể hiện trên ba nội dung cơ bản:

Nội dung kinh tế:

6
Là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội hóa cao, giai cấp công nhân
cũng là đại biểu cho quan hệ sản xuất mới, sản xuất ra của cải vật chất ngày càng
nhiều đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người và xã hội. Bằng cách đó, giai cấp
công nhân tạo tiền đề vật chất – kỹ thuật cho sự ra đời của xã hội mới.

Mặt khác, tính chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất đòi hỏi một mối quan
hệ sản xuất mới, phù hợp với chế độ công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội
là nền tảng, tiêu biểu cho lợi ích chung của xã hội. Chỉ có giai cấp công nhân là giai
cấp duy nhất không có lợi ích riêng với nghĩa là tư hữu. Nó phấn đấu cho lợi ích chung
của toàn xã hội. Nó chỉ tìm thấy lợi ích chân chính của mình khi thực hiện được lợi ích
chung của cả xã hội.

Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân thông qua quá trình công
nghiệp hóa và thực hiện “một kiểu tổ chức xã hội mới về lao động” để tăng năng suất
lao động xã hội và thực hiện các nguyên tắc sở hữu, quản lý và phân phối phù hợp với
nhu cầu phát triển sản xuất, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Trên thực tế, hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa lại ra đời từ phương thức phát
triển rút ngắn, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Do đó, để thực hiện sứ mệnh lịch sử
của mình về nội dung kinh tế, giai cấp công nhân phải đóng vai trò nòng cốt trong quá
trình giải phóng lực lượng sản xuất (vốn bị kìm hãm, lạc hậu, chậm phát triển trong
quá khứ), thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển để tạo cơ sở cho quan hệ sản xuất
mới, xã hội chủ nghĩa ra đời.

Nội dung chính trị - xã hội:

Giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, tiến hành cách mạng chính trị để lật đổ quyền thống trị của giai cấp thống
trị, xóa bỏ chế độ bóc lột, áp bức, giành quyền lực về tay giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Thiết lập nhà nước kiểu mới, mang bản chất giai cấp công nhân, xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền lực của nhân dân, quyền dân chủ
và làm chủ xã hội của tuyệt đại đa số nhân dân lao động.

Giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử dụng nhà nước của mình, do mình
làm chủ như một công cụ có hiệu lực để cải tạo xã hội cũ và tổ chức xây dựng xã hội
mới, phát triển kinh tế và văn hóa, xây dựng nền chính trị dân chủ - pháp quyền, quản
lý kinh tế - xã hội và tổ chức đời sống xã hội phục vụ quyền và lợi ích của nhân dân
lao động, thực hiện dân chủ, công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội, theo lý tưởng và
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Nội dung văn hóa, tư tưởng:

Thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân trong tiến trình cách
mạng cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng cần

7
phải tập trung xây dựng hệ giá trị mới: lao động; công bằng; dân chủ; bình đẳng và tự
do.

Giai cấp công nhân thực hiện cuộc cách mạng về văn hóa, tư tưởng bao gồm cải
tạo cái cũ lỗi thời, lạc hậu, xây dựng cái mới, tiến bộ trong lĩnh vực ý thức tư tưởng,
trong tâm lý, lối sống và trong đời sống tinh thần xã hội. Xây dựng và củng cố ý thức
hệ tiên tiến của giai cấp công nhân, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin, đấu tranh để khắc
phục ý thức hệ tư sản và các tàn dư còn sót lại của các hệ tư tưởng cũ. Phát triển văn
hóa, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đạo đức và lối sống mới xã hội chủ
nghĩa là một trong những nội dung căn bản mà cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh
vực văn hóa tư tưởng đặt ra đối với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện đại.

1.3. Những điều kiện quy định và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân

1.3.1. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Khẳng định tính tất yếu khách quan sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, C.
Mác và Ph. Ăngghen đã nêu rõ: “Cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, chính cái
nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiếm hữu sản phẩm của nó, đã bị phá
sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh ra những người đào
huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều
là tất yếu như nhau”. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân bao gồm:

Thứ nhất, do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân.

Giai cấp công nhân là con đẻ, sản phẩm của nền đại công nghiệp, có tính xã hội
hóa ngày càng cao, là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất hiện đại. Vì thế, giai cấp
công nhân đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất hiện đại.
Do lao động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại, giai cấp công nhân là
người sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho xã hội làm giàu cho xã hội, có vai trò
quyết định sự phát của xã hội hiện đại.

Điều kiện khách quan này là nhân tố kinh tế quy định giai cấp công nhân là lực
lượng phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giành chính quyền về tay mình,
chuyển từ giai cấp “tự nó” thành giai cấp “vì nó”. Giai cấp công nhân trở thành đại
biểu cho sự tiến hóa tất yếu của lịch sử, là lực lượng duy nhất có đủ điều kiện để tổ
chức và lãnh đạo xã hội, xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng chủ nghĩa xã hội với tư cách là
một chế độ xã hội kiểu mới, không còn chế độ người áp bức, bóc lột người.

Thứ hai, do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định.

8
Là giai cấp sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho xã hội, nhưng trong chủ
nghĩa tư bản giai cấp công nhân không sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu, phải bán sức
lao động để kiếm sống, bị bóc lột nặng nề, vì vậy lợi ích cơ bản của họ đối lập trực
tiếp với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản và thống nhất với lợi ích cơ bản của đa số
nhân dân lao động.

Là con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân có những phẩm
chất của một giai cấp tiên tiến, giai cấp cách mạng như: tính tổ chức và kỷ luật, tự giác
và đoàn kết trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình và giải phóng xã hội. Những
phẩm chất ấy của giai cấp công nhân được hình thành từ chính những điều kiện khách
quan, được quy định từ địa vị kinh tế và địa vị chính trị - xã hội của nó trong nền sản
xuất hiện đại và trong xã hội hiện đại mà giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản đã tạo ra
một cách khách quan, ngoài ý muốn của nó. Giai cấp công nhân được trang bị lý luận
tiên tiến là chủ nghĩa Mác-Lênin, có đội tiền phong là Đảng Cộng sản dẫn dắt.

Tóm lại, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân sở dĩ được thực hiện bởi nó là
giai cấp cách mạng, đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, cho phương thức sản
xuất tiên tiến thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, xác lập phương thức sản
xuất cộng sản chủ nghĩa, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp công
nhân là giai cấp đại biểu cho tương lai, cho xu thế đi lên của tiến trình phát triển lịch
sử - đây là đặc tính quan trọng, quyết định bản chất cách mạng của giai cấp công nhân.
Hoàn toàn không phải vì nghèo khổ mà giai cấp công nhân là một giai cấp cách mạng.
Tình trạng nghèo khổ của giai cấp công nhân dưới chủ nghĩa tư bản là hậu quả của sự
bóc lột, áp bức mà giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản tạo ra đối với công nhân, đó là
trạng thái mà cách mạng sẽ xóa bỏ để giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng xã
hội.

1.3.2. Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử

Sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng.
Thông qua sự phát triển này có thể thấy sự lớn mạnh của giai cấp công nhân cùng với
quy mô phát triển của nền sản xuất vật chất hiện đại trên nền tảng của công nghiệp,
của kỹ thuật và công nghệ. Sự phát triển về số lượng phải gắn liền với sự phát triển về
chất lượng của giai cấp công nhân hiện đại, đảm bảo cho giai cấp công nhân thực hiện
được sứ mệnh lịch sử của mình. Chất lượng giai cấp công nhân phải thể hiện ở trình độ
trưởng thành về ý thức chính trị của một giai cấp cách mạng, tức là tự giác nhận thức
được vai trò và trọng trách của giai cấp mình đối với lịch sử, do đó giai cấp công nhân
phải được giác ngộ về lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Là giai cấp đại diện tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, chất lượng của
giai cấp công nhân còn phải thể hiện ở năng lực và trình độ làm chủ khoa học kỹ thuật
và công nghệ hiện đại, nhất là trong điều kiện hiện nay. Để phát triển giai cấp công
nhân về số lượng và chất lượng, theo chủ nghĩa Mác-Lênin phải đặc biệt chú ý đến hai

9
biện pháp cơ bản: 1) Phát triển công nghiệp - “tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết”; 2)
Sự trưởng thành của Đảng Cộng sản - hạt nhân chính trị quan trọng của giai cấp công
nhân.

Chỉ với sự phát triển về số lượng và chất lượng, đặc biệt về chất lượng, giai cấp
công nhân mới có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình.

Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình.

Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân ra đời và đảm nhận vai
trò lãnh đạo cuộc cách mạng là dấu hiệu về sự trưởng thành vượt bậc của giai cấp công
nhân với tư cách là giai cấp cách mạng.

Quy luật chung, phổ biến cho sự ra đời của Đảng Cộng sản là sự kết hợp giữa
chủ nghĩa xã hội khoa học, tức chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân.

Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội và nguồn bổ sung lực lượng quan trọng nhất
của Đảng, làm cho Đảng mang bản chất giai cấp công nhân, trở thành đội tiên phong,
bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp. Đảng Cộng sản đại biểu trung thành cho lợi ích
của giai cấp công nhân, của dân tộc và xã hội. Sức mạnh của Đảng không chỉ thể hiện
ở bản chất giai cấp công nhân mà còn ở mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân,
với đông đảo quần chúng lao động trong xã hội, thực hiện cuộc cách mạng do Đảng
lãnh đạo để giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội.

Ngoài hai điều kiện thuộc về nhân tố chủ quan nêu trên, chủ nghĩa Mác-Lênin
còn chỉ rõ: để cuộc cách mạng thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đi tới
thắng lợi, phải có sự liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và các tầng lớp lao động khác do giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của nó
là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây cũng là một điều kiện quan trọng không thể thiếu để
thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

II. Giai cấp công nhân thế kỷ XXI

2.1. Những nhận thức mới về giai cấp công nhân thế kỷ XXI

Gần đây, trong xu thế phát triển của thế giới với trình độ kinh tế tri thức và
hướng tới cách mạng công nghiệp 4.0, cũng có ý kiến cho rằng, “trong kinh tế tri thức
thì sứ mệnh lịch sử là của trí thức chứ không phải của công nhân”. Đây là một nhận
thức không đầy đủ.

Thứ nhất, cho dù tri thức, kiến thức khoa học có vai trò to lớn, nhưng phát triển
hiện đại không vì thế mà không cần đến sản phẩm vật chất để thỏa mãn các nhu cầu
thiết yếu của mình (chẳng hạn ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, xây dựng, chữa bệnh...).

10
Tất cả nhu cầu ấy lại chỉ có thể được thỏa mãn thông qua sản xuất vật chất và thường
là thông qua sản xuất công nghiệp. Chỉ có sản xuất vật chất bằng phương thức công
nghiệp mới có đủ năng lực đáp ứng nhu cầu của gần 8 tỷ người trên thế giới hiện nay.
Vì vậy, nhân loại hiện nay vẫn cần tới sản xuất vật chất và lao động của giai cấp công
nhân để tồn tại và phát triển.

Thứ hai, giai cấp công nhân hiện đại đang được trí thức hóa, trí tuệ hóa trong
các cuộc cách mạng công nghiệp. Yêu cầu khách quan của sản xuất, dịch vụ hiện đại
và vận hành nền sản xuất công nghiệp hiện đại đòi hỏi giai cấp công nhân không
ngừng nâng cao năng lực lao động, làm chủ khoa học và công nghệ. Hiện nay, khoảng
40% công nhân của các nước G7 có trình độ đại học. Theo thống kê của Tổ chức Lao
động quốc tế (năm 2002), gần 70% công nhân Nhật Bản có trình độ đại học. Với trình
độ như vậy, trên thực tế, người ta dùng khái niệm công nhân - trí thức để chỉ nhóm lao
động trình độ cao này. Thế nên, quan niệm công nhân “là người lao động thừa hành,
trình độ học vấn thấp” đã lạc hậu và bất cập với thực tế.

Thứ ba, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân tự nó đã mang một hàm lượng
tri thức rất lớn và bản thân giai cấp công nhân cũng đang trí tuệ hóa, đang tạo ra một
lớp trí thức - công nhân trong lực lượng lao động của mình. Họ là các chuyên gia, nhà
khoa học và công nghệ đang hàng ngày hoàn thiện, phát triển để tăng năng suất lao
động, bảo đảm các yêu cầu ngày càng cao về kinh tế - xã hội và môi trường. Xã hội
gọi nhóm lao động này là trí thức - công nhân hay nguồn nhân lực trình độ cao. Theo
đó, cả về lý luận và thực tiễn, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không xa lạ gì
với tri thức, trí thức, khoa học hiện đại. Việc tách rời tri thức với quá trình thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một cái nhìn phiến diện.

Thứ tư, trí thức là nhóm lao động sản xuất ra các giá trị tinh thần; còn công
nhân là nhóm lao động sản xuất vật chất. Sản xuất vật chất, các quá trình kinh tế xét
đến cùng, bao giờ cũng là yếu tố quyết định nhất. Tri thức và lao động của họ, có vai
trò rất quan trọng trong phát triển hiện đại nhưng bao giờ cũng cần đến việc chuyển
hóa những giá trị tinh thần đó vào thực tiễn. Những công thức, ý tưởng sáng tạo, phần
mềm hay nói chung là phát kiến khoa học đều cần tới công nghệ để thể hiện ra giá trị
của mình. Trên thực tế, nhiều sản phẩm tinh thần chỉ có thể bộc lộ giá trị thông qua
việc hóa thân vào những ứng dụng công nghệ. Khoa học cần công nghệ để thể hiện ra,
công nghệ cần khoa học để tiến hóa. Hai quá trình thực tiễn này hiện nay đã gần gũi lại
trong một lĩnh vực hoạt động thường gọi là “cách mạng khoa học và công nghệ”.
Thông qua thực tiễn đó có thể nhận định: Sản xuất vật chất là cái quyết định, sản xuất
tinh thần là để phục vụ cho quá trình tồn tại của xã hội. Sáng tạo tinh thần như khoa
học, văn hóa, nghệ thuật có vai trò rất quan trọng trong phát triển xã hội hiện đại,
nhưng nếu chỉ tinh thần thôi thì chưa đủ nền tảng cho sự phát triển bền vững của xã
hội loài người.

11
2.2. Giai cấp công nhân hiện nay

2.2.1. Những điểm tương đối ổn định so với thế kỷ XIX

Giai cấp công nhân hiện nay vẫn đang là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã
hội hiện đại. Họ là chủ thể của quá trình sản xuất công nghiệp hiện đại mang tính xã
hội hóa ngày càng cao, ở các nước phát triển, có một tỷ lệ chặn giữa sự phát triển của
giai cấp công nhân với sự phát triển kinh tế. Lực lượng lao động bằng phương thức
công nghiệp chiếm tỷ lệ cao ở mức tuyệt đối ở những nước có trình độ phát triển cao
về kinh tế. Đó là những nước công nghiệp phát triển. Cũng vì thế, đa số các nước đang
phát triển hiện nay đều thực hiện chiến lược công nghiệp hóa nhằm đẩy mạnh tốc độ,
đồng bộ chất lượng và quy mô phát triển. Công nghiệp hóa vẫn là cơ sở khách quan để
giai cấp công nhân hiện đại phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng.

Cũng giống như thế kỷ XIX, ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, công nhân
vẫn bị giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sản sinh ra tình trạng bác
hợp, thực tế cho thấy xung đột về lợi ích cơ bản giữa giai cấp tư sản và giai cấp công
nhân, giữa tư bản và lao động vẫn tồn tại, vẫn là nguyên nhân cơ bản, sâu xa của đấu
tranh giai cấp trong xã hội hiện đại ngày nay. Phong trào cộng sản và công nhân ở
nhiều nước vẫn luôn là lực lượng đi đầu trong các công cuộc đấu tranh vì hòa bình,
hợp tác và phát triển vì dân sinh, dân chủ của tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội.

Từ những điểm tương đồng đó của công nhân hiện đại so với công nhân thế kỷ
XIX, có thể khẳng định: lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong chủ
nghĩa Mác-Lênin vẫn mang giá trị khoa học và cách mạng, vẫn có ý nghĩa thực tiễn to
lớn, chỉ đạo cuộc đấu tranh cách mạng hiện nay của công nhân, phong trào công nhân
và quần chúng lao động, chống chủ nghĩa tư bản và lựa chọn con đường xã hội chủ
nghĩa trong sự phát triển của thế giới ngày nay.

2.2.2. Sự phát triển của giai cấp công nhân hiện nay

Giai cấp công nhân trong suốt lịch sử luôn tăng về số lượng. Quy mô và sự phát
triển liên tục của giai cấp công nhân cũng là một minh chứng khẳng định vị trí ngày
càng vững chắc mà giai cấp công nhân nắm giữ trong sự phát triển năng động của hệ
thống tư bản. Trên thực tế, số lượng người lao động, số lượng công nhân (lao động
bằng phương thức công nghiệp) đều gia tăng qua các cuộc cách mạng công nghiệp.
Điều này được chứng minh thông qua các báo cáo số lượng lao động của các tổ chức
quốc tế lớn (Ngân hàng thế giới - WB, Tổ chức Lao động quốc tế ILO) hoặc các
nghiên cứu khoa học uy tín. Dù các số liệu có thể khác nhau đôi chút, nhưng bức tranh
toàn cảnh là sự tăng lên mạnh mẽ của lao động nói chung trong đó có công nhân. Theo
ILO, thế giới hiện nay có khoảng 3,3 tỷ lao động, trong đó, công nhân là lực lượng lao

12
động được trả công và lao động theo phương thức công nghiệp có khoảng 2 tỷ (chiếm
trên 60% số lao động toàn cầu).

Không chỉ tăng về số lượng mà chất lượng của giai cấp công nhân cũng phát
triển qua từng cuộc cách mạng công nghiệp, qua từng thời kỳ. Năm 1848, trên thế giới
chỉ có khoảng 10 - 20 triệu công nhân, tương đương chiếm 2% - 3% dân số toàn cầu
và chỉ trong vài lĩnh vực có máy móc thì tới nay, khi thế giới đã trải qua ba cuộc cách
mạng công nghiệp và đang trong cuộc cách mạng thứ tư thì với những tiến bộ của
khoa học và công nghệ bởi cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các ngành công nghiệp
sáng tạo sẽ ngày càng phát triển, đòi hỏi những người công nhân tham gia quá trình đó
phải có trình độ cao hơn những kỹ năng cơ bản.

Với việc ứng dụng công nghệ ngày càng mạnh mẽ vào các hoạt động kinh tế,
dẫn đến một bộ phận không nhỏ lao động giản đơn bị công nghệ thay thế, đòi hỏi công
nhân phải tiếp tục bồi dưỡng kỹ năng, trình độ để có thể tiếp tục được tham gia vào
quá trình sản xuất. Đồng thời, với những công việc mới được tạo ra bởi cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, công nhân cũng cần phải được đào tạo, nâng cao trình độ
kỹ năng để thích nghi với những công nghệ mới. Nâng cao năng lực của công nhân trở
thành xu hướng trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Hệ thống các kỹ năng được
chú trọng, như: kỹ năng cứng (trước hết là các kỹ năng số nhằm đáp ứng tiêu chuẩn
năng lực công nghệ thông tin cao hơn trong tương lai để thích ứng với những công
nghệ mới như in 3D, robot, trí tuệ nhân tạo, Internet kết nối vạn vật (IoT, S.M.A.C) và
kỹ năng mềm (kỹ năng học tập suốt đời, tư duy phân tích và đổi mới, chiến lược học
tập và học tập tích cực, sáng tạo, tính độc đáo và sáng kiến, thiết kế và lập trình công
nghệ, tư duy phân tích và phản biện, khả năng giải quyết vấn đề phức tạp, lãnh đạo và
ảnh hưởng xã hội, trí tuệ cảm xúc, lý luận, giải quyết vấn đề và ý tưởng, phân tích và
đánh giá mang tính hệ thống. Từ những xu hướng trên, bộ phận công nhân có trình độ
cao ngày càng tăng: công nhân “cổ trắng” (white - collar worker), công nhân “cổ
vàng” (gold - collar worker) - những lao động gián tiếp; công nhân trí thức (knowledge
worker), lao động với năng suất lao động cao, như: các chuyên gia công nghệ (các
chuyên gia lập trình và thiết kế web, kỹ sư, nhà thiết kế...).

Giai cấp công nhân hiện nay còn không ngừng nâng cao khả năng thống nhất và
đoàn kết. Việc sản xuất và trao đổi theo các chuỗi giá trị toàn cầu (Global Value Chain
- GVCs) đã trở thành phổ biến trong liên kết quốc tế, cùng với đó là các hình thức liên
kết phong phú khác như mạng sản xuất, xuất khẩu lao động tại chỗ, làm việc theo
nhóm chuyên gia... nên tính thống nhất được dựa trên cơ sở của sự liên kết này ngày
càng mạnh mẽ trong quá trình lao động. Không chỉ vậy để thích nghi với những thay
đổi của công nghệ, công nhân luôn phải nỗ lực về sức lực, thời gian, không có sự cân
bằng giữa lao động và các hoạt động tái tạo sức lao động, có thể dẫn đến những hậu
quả tiêu cực về tâm lý. Như vậy, liên kết ngày càng mạnh mẽ từ tính xã hội hoá ngày
càng cao trong lực lượng sản xuất, cùng với những bất ổn xã hội và sự bóc lột từ quan

13
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo nên bởi cách mạng công nghiệp như những điều kiện
khách quan tiếp tục quy định và củng cố tính thống nhất, tính chiến đấu của giai cấp
công nhân trong bối cảnh mới. Cũng vì lẽ đó, hiện nay chúng ta đang chứng kiến
những hành động mạnh mẽ có tính chất chiến đấu của công nhân, lao động ở một số
nước tư bản nhằm chống lại sự bất bình đẳng xã hội (cuộc “đình công nữ quyền” của 5
triệu công nhân ở Tây Ban Nha năm 2018; biểu tình của công nhân ở Pháp, Anh, Đức
đòi quyền bình đẳng và phúc lợi xã hội...) cho thấy các phương thức tổ chức và đấu
tranh truyền thống của giai cấp công nhân sẽ phát triển trở lại, ở những hình thức mới
và cấp độ cao hơn.

Bên cạnh việc phát triển cả về mặt chất lẫn mặt lượng, ta không thể không nhắc
đến những đóng góp của giai cấp công nhân hiện nay.

Thứ nhất, về mặt kinh tế, tại Việt Nam, tăng trưởng IIP 2022 đạt được ở nhiều
ngành công nghiệp. Cụ thể, công nghiệp chế biến, chế tạo - một trong những tiêu chí
quan trọng hàng đầu của nước công nghiệp, tăng trưởng 8% - tốc độ cao nhất trong số
các ngành công nghiệp. Một số ngành cụ thể trong công nghiệp chế biến chế tạo còn
tăng cao hơn nữa như: sản xuất đồ uống tăng 32,3%, may mặc tăng 14,8%, sản xuất da
và các sản phẩm có liên quan tăng 15,6%, sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng
19,2%, chế biến gỗ, sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 17,2%, sản xuất máy móc
tăng 19,1%… Hai ngành sản xuất, phân phối điện và cung cấp nước cũng có tốc độ
tăng trưởng khá cao (7% và 6,4%), gấp đôi so với năm trước. Nhìn chung, ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo có tốc độ tăng trưởng cao nhất, góp phần vào tốc độ tăng
trưởng chung của toàn ngành công nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Các ngành còn lại
tăng trưởng khá. Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp cuối
năm nay so với cuối năm trước tăng. Việc tăng số lao động đang làm việc là một trong
những yếu tố góp phần vào tăng trưởng công nghiệp, góp phần tăng thu nhập, tăng tiêu
dùng cuối cùng và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chung. Giai cấp công nhân đóng
vai trò quan trọng trong đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thúc đẩy
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một nghiên cứu gần đây cho thấy, tuy chỉ chiếm tỷ lệ
khoảng 14% dân số, 27% lực lượng lao động xã hội, song hàng năm giai cấp công
nhân Việt Nam đã tạo ra trên 65% giá trị tổng sản phẩm xã hội và hơn 70% giá trị thu
ngân sách nhà nước.

Thứ hai, về địa vị chính trị, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng
thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, là lực lượng tiên phong trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không chỉ vậy, sự thống nhất và đoàn kết của
giai cấp công nhân đã tạo nên Công đoàn Việt Nam - tổ chức chính trị - xã hội của giai
cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện
cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người
lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh
tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những

14
vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động
người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vị trí của Công đoàn Việt Nam đã được xác định rõ:
Công đoàn Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của công nhân viên
chức lao động, là thành viên trong hệ thống chính trị, là trung tâm tập hợp đoàn kết
giáo dục rèn luyện, xây dựng đội ngũ của công nhân viên chức lao động, là chỗ dựa
vững chắc của Đảng, là “cầu nối” giữa Đảng với quần chúng; là người cộng tác đắc
lực của Nhà nước.

2.2.3. Những hạn chế của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay

Theo báo cáo từ Tổng cục giáo dục nghề nghiệp năm 2022, trong tổng số 54,6
triệu lao động hiện nay, chỉ 64,5% qua đào tạo, trong đó 24,5% có bằng cấp chứng chỉ;
tuyển sinh trong giáo dục nghề nghiệp chỉ đạt khoảng 2,2 triệu người/năm, còn quá
thấp so với nhu cầu nhân lực có kỹ năng, đặc biệt là chuyên môn cao cho phát triển
kinh tế - xã hội và so với các nước phát triển trong khu vực cũng như trên thế giới.
Điển hình, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo – ngành chủ lực trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa chỉ chiếm 9% tổng số lao động trình độ cao, trong khi đó, ở
các nước phát triển, tỷ lệ này lên đến 40% - 60%.

Dù được đánh giá cao về một số khía cạnh, năng suất lao động của người dân
Việt Nam hiện vẫn rất thấp so với các quốc gia khác trong khu vực: chỉ bằng 8,4%
năng suất của Singapore, 23,1% của Malaysia, 41,5% của Thái Lan, 55,5% của
Indonesia và 62,8% của Philippines; chỉ cao hơn năng suất lao động của Campuchia
(gấp 1,8 lần). Hầu hết chỉ tiêu về nhân lực của Việt Nam đều thấp, nếu so sánh với các
nước ASEAN, và chỉ hơn được Campuchia. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO),
năm 2021, lao động Việt Nam chỉ đóng góp khoảng 7,3 USD/giờ vào GDP – chỉ bằng
một phần mười so với người Singapore.

Ngoài ra, theo các chuyên gia lao động, trình độ chuyên môn, kỹ năng ứng xử
và các kỹ năng mềm khác của lao động Việt Nam hiện nay còn rất yếu. Số lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật yếu kém trong kỹ năng thực hành và khả năng thích ứng
trong môi trường công nghiệp cạnh tranh cao. Vì vậy, nguồn nhân lực của Việt Nam
được coi là “vừa thừa vừa thiếu”, giàu lao động giá rẻ nhưng thiếu lao động có kỹ năng
và tay nghề cao.

2.2.4. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay

Cơ cấu việc làm chưa hợp lý cả về trình độ và phân bổ vùng miền. Về cơ cấu
trình độ, có tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” do người lao động có trình độ đại học và
trên đại học chiếm tỷ trọng lớn nhất và tăng trưởng nhanh trong khi nền kinh tế thiếu
hụt trầm trọng lực lượng lao động có trình độ kỹ thuật cao và kinh nghiệm dày dặn. Có
sự khác biệt lớn giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng kinh tế trong phân bổ lao

15
động chất lượng cao. Khi nhìn nhận nguồn gốc của tăng năng suất lao động từ hai yếu
tố là tăng năng suất lao động nội ngành và dịch chuyển lao động, sự bất hợp lý về cơ
cấu nêu trên đang khiến năng suất lao động của Việt Nam ở mức thấp so với các nước
trong khu vực và làm chậm tăng trưởng năng suất lao động.

Không chỉ vậy, sự “đột phá” trong phát triển nguồn nhân lực chưa được thực
hiện thông qua một chiến lược phát triển mang tầm cỡ quốc gia với hệ thống các chính
sách, kế hoạch, chương trình hoạt động đồng bộ, thống nhất để có thể cải thiện số
lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực của quốc gia. Rõ ràng trong thời gian qua,
chúng ta chưa có giải pháp “đột phá”, điều này thể hiện tỷ lệ lao động đã qua đào tạo
tăng lên với tốc độ rất chậm: năm 2011, tỷ lệ này là 15,4% thì đến năm 2020, con số
này mới chỉ chạm mốc 24,1%, với tốc độ tăng bình quân trong giai đoạn chỉ tầm
5%/năm, nếu so sánh với các quốc gia trong khu vực, thì tỷ lệ này ở Indonesia là 42%,
ở Malaysia con số này lên đến 66,8%.

2.2.5. Giải pháp khắc phục những hạn chế

Để tiếp tục giữ vững và phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, văn kiện Đại
hội VIII của Đảng đã dành riêng một chuyên mục về việc giữ vững và tăng cường bản
chất giai cấp công nhân của Đảng, trong đó khẳng định: “Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu đối với Đảng ta. Trong điều kiện hiện nay, giữ vững và tăng
cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng là phải:

- Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong bất kỳ tình huống khó
khăn nào cũng không dao động, xa rời mục tiêu đó.

- Kiên định và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát đầy đủ từ thực tiễn Việt Nam, trên cơ sở đó xây dựng
đường lối, chủ trương và các chính sách đúng đắn.

- Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong
Đảng.

- Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai
cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên theo quan điểm của giai cấp
công nhân.

- Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân. Chăm lo đời sống, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

- Trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại”(15).

16
Đó là những định hướng đúng đắn và cần thiết cho việc giữ vững và phát huy bản chất
giai cấp công nhân của Đảng. Trong bối cảnh hiện nay, bên cạnh việc tiếp tục thực
hiện những nội dung đó, cần chú trọng hơn một số vấn đề sau:

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới phương thức phát huy bản chất giai cấp công nhân của
Đảng, để thực sự xứng đáng là người đại diện cho lợi ích, lý tưởng của giai cấp công
nhân và lợi ích của quốc gia - dân tộc. Bản chất, lý tưởng, lối sống của giai cấp công
nhân cần được lan tỏa rộng rãi, không chỉ trong lĩnh vực chính trị mà còn cần được thể
hiện ở các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội..., như những yếu tố cơ bản để thể hiện rõ
định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển hiện nay.

Thứ hai, tác phong lãnh đạo gắn bó với giai cấp công nhân và nhân dân cũng cần được
tăng cường, phát huy. Những biểu hiện quan liêu, hành chính mệnh lệnh hoặc biểu
hiện chủ quan, duy ý chí khi ra quyết định..., đều xa lạ với bản chất và tác phong của
một đảng của giai cấp công nhân. Cùng với đó, lập trường về lợi ích của quốc gia - dân
tộc là trên hết, trước hết cũng cần được thấm nhuần sâu sắc trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên của hệ thống chính trị nói chung, trong các cơ quan đảng và cơ quan nhà nước nói
riêng.

Thứ ba, hiện nay “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng
viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng
chính trị”(16). Những biểu hiện suy thoái đó cần được Đảng xử lý nghiêm khắc cả về kỷ
luật của Đảng cũng như bằng pháp luật và phê phán rộng rãi trong xã hội.

Trong đó, một biểu hiện và cũng có thể xem là một nguyên nhân của sự suy thoái đã
gây ảnh hưởng xấu đến bản chất giai cấp công nhân và uy tín chính trị của Đảng là:
“Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị;
lười học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối,
nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước” (17). Vì thế, cần nâng cao
một cách thực chất việc giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; coi
thái độ và kết quả học tập những nội dung trên như là căn cứ quan trọng để đánh giá,
xếp loại và bổ nhiệm cán bộ, đảng viên.

Nhìn chung, việc giữ vững và phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng và đối
với mỗi đảng viên cần được nhìn nhận như một biện pháp để xây dựng Đảng từ bên
trong và là cách để bảo vệ Đảng từ gốc, từ xa. Đó cũng là một biện pháp rất cơ bản để
tăng cường năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng, để hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

17
KẾT LUẬN

Tóm lại, từ các phân tích trên về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cả về
lý luận lẫn thực tiễn đã khẳng định tính khách quan của sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, đúng như lời của C. Mác nói. Hiểu được rõ về giai cấp công nhân, đặc biệt
là hiểu được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một vấn đề hết sức quan trọng
trong nhận thức của mỗi chúng ta, giúp ta có những nhận thức đúng đắn đối với các
giai cấp trong xã hội nói chung và giai cấp công nhân nói riêng. Qua đó, mỗi cá nhân
trong xã hội cần không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm về giai cấp, về nhận thức
xã hội để nâng cao tri thức văn hóa của mình.

Trước những đòi hỏi mới của công cuộc đổi mới hiện nay, để đảm bảo thắng lợi
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta luôn đòi hỏi phải tăng
cường hơn nữa bản chất giai cấp công nhân thì mới đáp ứng được yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam sẽ tăng nhanh về số
lượng. Việc tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo
dục đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai cấp công nhân là một yêu
cầu cấp thiết cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân
dân ta đã lựa chọn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và đào tạo (2023), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia Sự thật

2. Lyluanchinhtri.vn, Bản Chất Tiên Tiến, Cách Mạng Của Giai Cấp Công Nhân
Trong Cách Mạng Công Nghiệp Lần Thứ Tư, lyluanchinhtri.vn/home/index.php/bai-
noi-bat/item/4253-ban-chat-tien-tien-cach-mang-cua-giai-cap-cong-nhan-trong-cach-
mang-cong-nghiep-lan-thu-tu.html, truy cập ngày 17 tháng 05 năm 2023

3. Lyluanchinhtri.vn, Sứ Mệnh Lịch Sử Của Giai Cấp Công Nhân và Bản Chất Giai
Cấp Công Nhân Của Đảng Cộng Sản Việt Nam,
lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/3462-su-menh-lich-su-cua-giai-cap-
cong-nhan-va-ban-chat-giai-cap-cong-nhan-cua-dang-cong-san-viet-nam.html, truy
cập ngày 20 tháng 05 năm 2023

4. Nam, Phương (2023), Công Nghiệp: Ngành Kinh Tế Thực Lớn Nhất, Nhịp Sống
Kinh Tế Việt Nam & Thế Giới, vneconomy.vn/cong-nghiepnganh-kinh-te-thuc-lon-
nhat.htm, truy cập ngày 10 tháng 05 năm 2023

18
5. Tapchicongsan.org.vn (2022), Những nhận thức mới về giai cấp công nhân hiện
nay, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/819840/nhung-
nhan-thuc-moi-ve-giai-cap-cong-nhan-hien-nay, truy cập ngày 15 tháng 05 năm 2023

19

You might also like