You are on page 1of 23

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

…...0O0……

BÀI TẬP LỚN


CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Đề tài: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân và sự vận dụng của Đảng ta ở Việt
Nam hiện nay

Họ, tên SV: Dương Vân Khánh


Mã SV: 11223024
Lớp: Kinh tế quốc tế CLC 64D
Lớp học phần: 31
Khóa: 64

Hà Nội - 05/2023
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...............................................................................................................2
NỘI DUNG...........................................................................................................3
I. Vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về sứ mệnh lịch sử của
GCCN
1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân………….3
2. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân...4
II. Giai cấp công nhân và thực hiện sứ mệnh giai cấp công nhân hiện nay
1. Giai cấp công nhân hiện nay……………………………………………...6
2. Thực hiện sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân trên thế giới hiện nay……6
III. Sự vận dụng lí luận về sứ mệnh lịch sử của Đảng ta ở Việt Nam hiện nay
1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam qua các thời kỳ……...7
2. Nội dung vận dụng………………………………………………………..9
3. Đánh giá khả năng vận dụng……………………………………………..12
4. Giải pháp khắc phục……………………………………………………...15

KẾT LUẬN.........................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................18

1
MỞ ĐẦU

Lịch sử đã chứng minh giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử rất quan
trọng trong việc lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột trong
cuộc đấu tranh từng bước xoá bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng thành công chủ
nghãi xã hội, đó là giai cấp tiên tiến nhất, có tư tưởng cách mạng, chính trị triệt để
nhất trong xã hội. Tuy rằng để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công
nhân phải trải qua những khó khăn, khổ cực, những bước thăng trầm, nhưng họ
vẫn hàng ngày, hàng giờ gắng sức hoàn thành nhiệm vụ của lịch sử giao phó, trong
chiến tranh vì đấu tranh giải phóng dân tộc, trong hoà bình thì xây dựng đất nước.
Mác là người có công lớn khi phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Để tìm ra giai cấp thực hiện nhiệm vụ xóa bỏ xã hội cũ xây dựng xã hội mới Mác
đã bắt đầu với việc phân tích bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
từ đó Mác đã làm sáng tỏ tính tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản và sự tất yếu
ra đời của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Vận dụng những quan điểm của Mác, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập và rèn
luyện Đảng ta, lấy hệ tư tưởng Mác - Lênin, làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho mọi hoạt động của Đảng. Với thực tiễn cách mạng 90 năm qua dưới ánh sáng
của chủ nghĩa Mác – Lênin Đảng ta lãnh đạo đã đưa đất nước ta từ một nước bị áp
bức, thuộc địa trở thành một nước độc lập tự do, có chủ quyền: nhân dân lao động
từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Trong giai đoạn hiện nay,
trước những yêu cầu và nhiệm vụ mới đan xen cả thời cơ và thách thức, trước sự
chống phá của các thế lực thù địch, chúng ta phải nâng cao bãn lĩnh chính trị, luôn
đấu tranh với những luận điểm sai trái, lệch lạc, củng cố và giữ vững vai trò lãnh
đạo của Đảng
Nhận thấy được những dư âm hào hùng của những cuộc cách mạng giai cấp công
nhân vẫn còn đang có những ảnh hưởng tốt đẹp cho tới thời đại ngày nay, em
quyết định chọn đề tài này với mong muốn có thể được hiểu hơn về sự ra đời của
giai cấp công nhân đã giải thoát cho những bất công của người lao động ở dưới chế
độ chủ nghĩa tư bản như thế nào, cũng như hiểu thêm về những lí luận mà Đảng ta
đã vận dụng để đem lại sự phát triển văn minh của đất nước ngày hôm nay.

2
NỘI DUNG
I. Vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về sứ mệnh lịch sử
của GCCN
1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1.1 Khái niệm giai cấp công nhân
Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, giai cấp vô sản là giai cấp những công nhân làm
thuê hiện đại, vì mất hết tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc bán sức lao động
của mình đế sống.  
Giai cấp công nhân hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển nền công
nghiệp hiện đại cùng sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa
ngày càng cao. Đây là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công
nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất,
tái sản xuất ra của cải, vật chất đồng thời cải tạo các quan hệ xã hội. Giai cấp công
nhân là người làm thuê do không có tư liệu sản xuất, bị giai cấp tư sản bóc lột giá
trị thặng dư. Do đó, lợi ích cơ bản của giai cấp này cũng đối lập với lợi ích của giai
cấp tư sản.
Có thể thấy, giai cấp công nhân có những đặc điểm cơ bản như: là giai cấp lao
động bằng phương thức công nghiệp, có tinh thần cách mạng triệt để và là đại biếu
cho lực lượng sản xuất, phương thức sản xuất tiên tiến…
Giai cấp công nhân được xem là con đẻ của nền đại công nghiệp và trở thành một
giai cấp ổn định khi sản xuất đại công nghiệp về cơ bản đã thay thế nền sản xuất
thủ công.
Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân là giai cấp làm thuê cho nhà
tư bản, hoàn toàn không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản
để kiếm sống. Họ là giai cấp bị phụ thuộc trong sản xuất và là giai cấp bị bóc lột
giá trị thặng dư trong phân phối.
Sự phát triển của thời đại công nghiệp đã tập hợp giai cấp công nhân lại thành một
tập đoàn rộng lớn, trở thành giai cấp vô sản hiện đại. Do vậy, giai cấp công nhân ra
đời gắn liền với sự phát triển của đại công nghiệp, là sản phẩm của nền đại công
nghiệp, lớn lên cùng sự phát triển của nền đại công nghiệp đó.
1.2 Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Sở dĩ giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử này là do địa vị kinh tế – xã hội khách
quan của giai cấp công nhân quy định. Bởi đây là giai cấp đại biểu cho lực lượng
sản xuất tiên tiến, hiện đại và hội đủ các yếu tố của một giai cấp lãnh đạo xã hội.
Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp gắn với dây chuyền máy
móc, sản xuất tập trung tiến bộ, theo chu trình khép kín, mang tính xã hội hóa cao.
Chính điều này làm cho giai cấp công nhân có tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ, tinh
thần hợp tác cao, là giai cấp duy nhất thống nhất được lợi ích cũng như nhận thức,

3
tư tưởng và hành động trong xã hội, hội đủ những phẩm chất cần có của một giai
cấp cách mạng, có năng lực lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gô-ta”, C. Mác và Ph. Ăng-ghen nhắc lại
nội dung trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là: “Trong tất cả các
giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp
thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong với sự phát
triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản thì trái lại, là sản phẩm của bản thân
nền đại công nghiệp”
2. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
2.1 Địa vị kinh tế-xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa
Giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhất trong các bộ phận
cấu thành lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản. Trong nền sản xuất hiện đại,
giai cấp công nhân vừa là chủ thể trực tiếp, vừa là sản phẩm căn bản nhất của nền
sản xuất đó.
Giai cấp công nhân hiện đại có xu hướng ngày càng được tri thức hóa. Điều này có
được là do yêu cầu khách quan của sự phát triển công nghiệp trong thời đại mà
khoa học và công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Do không
có tư liệu sản xuất nên giai cấp công nhân phải bán sức lao động cho các nhà tư
bản và bị các nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, họ bị lệ thuộc hoàn toàn trong
quá trình phân phối kết quả lao động của chính mình. Do vậy về mặt lợi ích, giai
cấp công nhân là giai cấp đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản.
Bản chất của giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế
độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân có lợi ích căn bản thống
nhất với lợi ích của toàn thể nhân dân lao động nên họ có khả năng tập hợp, lãnh
đạo quần chúng nhân dân đi theo cách mạng chống lại thế lực thù địch. Địa vị kinh
tế- xã hội của giai cấp công nhân là yếu tố quan trọng nhất viết nên sứ mệnh lịch
sử cẩu giai cấp công nhân bởi địa vị về kinh tế đại diện cho lực lượng sản xuất tiến
bộ, động lực về chính trị để thực hiện cuộc cách mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội
sẽ bị giai cấp tư sản bóc lột nếu không có địa vị xã hội.

4
Thứ nhất, giai cấp công
nhân là bộ phận quan
trọng nhất, cách mạng
nhất trong các bộ phận
cấu thành lực lượng sản
xuất dưới chủ nghĩa tư
bản.
+ Trong nền sản xuất
hiện đại, giai cấp công
nhân vừa là chủ thể trực

5
tiếp, vừa là sản phẩm
căn bản nhất của nền
sản xuất đó. Các Mác

giai cấp công nhân là bộ
phận quan trọng nhất,
cách mạng
nhất trong các bộ phận
cấu thành lực lượng sản
xuất dưới chủ nghĩa tư
bản
6
giai cấp công nhân là bộ
phận quan trọng nhất,
cách mạng
nhất trong các bộ phận
cấu thành lực lượng sản
xuất dưới chủ nghĩa tư
bản
giai cấp công nhân là bộ
phận quan trọng nhất,
cách mạng

7
nhất trong các bộ phận
cấu thành lực lượng sản
xuất dưới chủ nghĩa tư
bản 2.2 Những đặc điểm chính trị-xã hội của giai cấp công nhân
Gia cấp công nhân là giai cấp tân tiến nhất, là sản phẩm của nền sản xuất đại công
nghiệp, phát triển cùng với sự phát triển của nên đại công nghiệp nên nền sản xuất
có trình độ phát triển cao, đòi hoi giai cấp công nhân cần tiếp thu các kiến thức
khoa học để vận hành được dây chuyền này. Là đại diện cho lực lượng sản xuất
tiên tiến, giai cấp công nhân có nhiệm vụ xóa bỏ quan hệ sản xuất dựa trên chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất thiết lập quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn. Giai cấp công
nhân được trang bị lí luận của chủ nghĩa Mác là lí luận cách mạng khoa học và tiến
bộ. Để có thể tiếp thu và vận dụng lí luận đòi hỏi giai cấp công nhân có trình độ lí
luận nhất định.
Giai cấp công nhân còn có ý thức tổ chức kỷ luật cao. Do môi trường làm việc là
sản xuất tập trung cao và có tình độ kĩ thuật ngày càng hiện đại, có cơ cấu tổ chức
ngày càng chặt chẽ, làm việc theo dây chuyện buộc giai cấp công nhân phải luôn
tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động. Cũng do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai
cấp chống lại giai cáp tư sản nên giai cấp công nhân phải đấu tranh bằng phẩm chất
kỷ luật của mình.
Giai cấp công nhân mang tinh thần cách mạng triệt để nhất, vì mục tiêu cuối là giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc khỏi áp bức, bóc lột cả về vật chất lẫn tinh thần.
Giai cấp công nhân vừa phải giành chính quyền, vừa sử dụng chính quyền để thực
hiện mục tiêu.
Cuối cùng, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế. Giai cấp công nhân ở tất acr
các nước đều có chung mục đích là gairi phóng mình đồng thời giải phóng xã hội
khỏi áp bức và họ đề có chung 1 kẻ thù là giai cấp tư sản bóc lột. Cũng do yêu cầu

8
của cuộc chiến tranh giai cấp, để chống lại chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản khi mà
chúng đã liên kết với nhau thành tập đoàn tư bản, chủ nghĩa đế quốc, vì vậy mà
giai cấp công nhân càng phải nêu cao tinh thần quốc tế của giai cấp mình, cùng
nhau thực hiện sứ mệnh lịch sử.
 Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thể
hiện ở 2 nội dung: thứ nhất là về địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân và
thứ 2 là địa vị về chính trị xã hội của giai cấp công nhân và chính điều kiện khách
quan này là 1 trong các yếu tố để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của mình.
II. Giai cấp công nhân và thực hiện sứ mệnh giai cấp công nhân hiện
nay
1. Giai cấp công nhân hiện nay
- Tồn tại tương đồng với xã hội cũ: vẫn là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã
hội hiện đại và vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư
- Điểm khác biệt:
+ Về nguồn gốc xuất thân: Giai cấp công nhân thời Mác là giai cấp lao động, làm
thuê, bị bóc lột và xuất thân chủ yếu từ nông dân và nông thôn. Nhưng từ những
năm 60 của thế kỷ XX trở lại đây, xu thế đô thị hóa và đông đảo cư dân đô thị đã
bổ sung một lượng lớn vào nguồn nhân lực của giai cấp công nhân.
Một nhà nghiên cứu nhận định: “Chúng ta đã chưa bao giờ có một cuộc cách mạng
nhân khẩu học nhanh và triệt để như cuộc cách mạng của 100 năm qua. Vào năm
1900 hay khoảng đó, gần 95% người ở khắp thế giới làm công việc chân tay. Và
cũng chỉ có gần 5% người đã sống ở đô thị có dân cư trên 100.000 dân. Ngày nay,
ở các nước phát triển, tỷ lệ người làm công việc chân tay đã giảm xuống chỉ còn từ
20 - 25% trong lực lượng lao động và gần 50% dân cư sống ở đô thị.” Từ đây
đang hình thành dự trữ cho lực lượng lao động hiện đại.
+ Cơ cấu đa dạng của giai cấp công nhân hiện đại cũng làm nảy sinh những nhu
cầu bổ sung nhận thức mới: Trình độ mới của sản xuất và dịch vụ cùng với cách tổ
chức xã hội hiện đại cũng làm cho cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại đa dạng
tới mức nội hàm của nó liên tục phải điều chỉnh theo hướng mở rộng: theo lĩnh vực
(công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ) theo trình độ công nghệ.
Phân loại công nhân theo sở hữu (có cổ phần, có tư liệu sản xuất và trực tiếp lao
động tại nhà để sống và, không có cổ phần). Phân loại công nhân theo chế độ chính
trị (công nhân ở các nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ở các nước
G7, ở các nước đang phát triển)...

9
2. Thực hiện sứ mệnh giai cấp công nhân trên thế giới hiện nay
Về mặt kinh tế-xã hội: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với sự phát
triển xã hội ngày càng được thể hiện rõ trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
hiện đại, thúc đẩy từ tiền đề xã hội chủ nghĩa trong xã hội đương thời. Đó cũng là
điều kiện để phát huy vai trò chủ thể của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh
vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội. Mâu thuẫn lợi ích cơ bản
giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản ngày càng sâu sắc ở mỗi quốc gia và
trên phạm vi toàn cầu
Về mặt chính trị-xã hội: Ở các nước tư bản chủ nghĩa, mục tiêu đấu tranh trực tiếp
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chống lại bất công và bất bình
đẳng xã hội, mục tiêu lâu dài là giành chính quyền từ tay giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Ở các nước XHCN, mục tiêu là lãnh đạo thành công sự nghiệp
đổi mới, giải quyết thành công các nhiệm vụ trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đặc
biệt là xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững
Về văn hóa và tư tưởng: Đó là cuộc đấu tranh ý thức quan hệ giữa CNXH và
CNTB. Cuộc đấu tranh này diễn ra phức tạp và quyết liệt, nhất là trong nền kinh tế
thị tường và sự khủng hoảng, thoái trào của phong trào cách mạng thế giới.

III. Sự vận dụng lí luận về sứ mệnh lịch sử của Đảng ta ở Việt Nam hiện nay
1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam qua các thời kỳ
1.1Đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam
Giai cấp công nhân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
không ngừng vươn lên, phát triển về mọi mặt, từng bước giác ngộ, hiện thực hoá
sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình.
Giai cấp công nhân luôn là lực lượng tiên phong của cách mạng, luôn là trung tâm
của các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước. Giai cấp công nhân Việt Nam
không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, góp mặt trong tất cả các
ngành nghề, các thành phần kinh tế, là lực lượng quan trọng, đi đầu trong sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Đặc biệt, công nhân Việt Nam đã xây dựng một tổ chức công đoàn có hệ thống từ
trung ương tới cơ sở, đóng vai trò quan trọng trong công tác tuyên truyền, giáo
dục, góp phần nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, nâng cao
giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp
cho công nhân, viên chức, lao động ….
1.2 Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam

10
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, công nhân đã tham gia chiến đấu
bảo vệ cơ sở sản xuất của chính quyền cách mạng, tham gia bãi công, bãi thị và
tiến công phá hoại các cơ sở kinh tế quan trọng của thực dân Pháp trên địa bàn;
thực hiện nhiệm vụ xây dựng các cơ sở sản xuất vũ khí, vận chuyển máy móc đến
nơi an toàn. Trong giai đoạn này, nhiều phong trào công nhân đã được phát động
và mang lại ý nghĩa thiết thực nhằm động viên toàn thể công nhân hoàn thành
nhiệm vụ, phục vụ chiến đấu..

Trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiến hành cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam. Ở miền Bắc tiến hành công cuộc tái thiết
đất nước, với trách nhiệm chủ nhân của đất nước, đội ngũ công nhân viên chức lao
động đã đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Nhờ vậy, chỉ
trong thời gian ngắn hoạt động sản xuất tại các cơ sở công nghiệp đã phục hồi.

Ở miền Nam, phong trào công nhân, Công đoàn hoạt động trong điều kiện vô cùng
khó khăn, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm ra sức khủng bố, đàn áp.
Các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp bị đình đốn, đời sống của công nhân viên
chức lao động hết sức khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng đã chỉ đạo các cơ sở
trong nội thành, trong các đồn điền phải tìm mọi cách bám đất, bám dân phát triển
lực lượng, tổ chức cho công nhân đấu tranh. Năm 1965 Liên hiệp Công đoàn giải
phóng miền Nam được thành lập đã không ngừng củng cố và phát triển, vừa tổ
chức cho công nhân viên chức lao động các thành phố đấu tranh, vừa động viên
công nhân viên chức lao động vùng giải phóng đẩy mạnh sản xuất, phục vụ chiến
đấu. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu thân 1968 và Chiến dịch Hồ
Chí Minh, Công đoàn giải phóng đã vận động công nhân viên chức lao động ở các
đô thị đồng loạt nổi dậy, phối hợp với lực lượng vũ trang tiêu diệt địch, góp phần
cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất Tổ quốc.

Trước cách mạng tháng Tám, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là giải phóng
dân tộc giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Sứ mệnh này được chia thành 2
bước: bước một, giai cấp công nhân trở thành lực lượng tiên phong, tập hợp lãnh
đạo quần chúng nhân dân lao động đấu tranh chống thực dân Pháp, giành độc lập
dân tộc, giành quyền lực nhà nước về tay giai cấp mình; bước 2: giai cấp công
nhân cùng quần chúng nhân dân sử dụng bộ máy nhà nước cải tạo xã hội cũ, xây
dựng thành công xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam tiếp tục đảm
đương sứ mệnh lịch sử lớn lao, không chỉ tiếp tục là giai cấp lãnh đạo cách mạng
mà còn là lực lượng tiên phong, đi đầu trong sự nghiệp đổi mới. Giai cấp công

11
nhân là nòng cốt phải tự mình phấn đấu, nâng cao tri thức, tay nghề để có thế làm
tốt sứ mệnh lịch sử đã đề ra, phấn đấu đưa nước ta từ một nước nông nghiệp sớm
trở thành nước công nghiệp hiện đại.

Trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các phong trào thi đua lao
động sản xuất, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong công nhân viên chức lao
động, trong đó có công nhân viên chức lao động quốc phòng đã tạo được bước
chuyển biến tích cực, nhiều điển hình tiên tiến và nhân tố mới đã hình thành, góp
phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Tại hội nghị lần thứ Bảy Ban chấp hành Trung ương khóa VII, Đảng ta đã khẳng
định: "Cùng với quá trình phát triển công nghiệp và công nghệ theo xu hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về
số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học
vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt
năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình.

Qua 35 năm đổi mới, hơn 12 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X),
giai cấp công nhân Việt Nam đã tăng về số lượng, trưởng thành về chất lượng và
khẳng định, phát huy vai trò, địa vị của mình trong thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc. Hiện nay, tổng số lao động làm công hưởng lương trong các loại hình doanh
nghiệp ở nước ta có khoảng 24,5 triệu người; trong đó, công nhân, lao động trong
các doanh nghiệp chiếm khoảng 60%, chiếm tỉ lệ khoảng 14% số dân và 27% lực
lượng lao động xã hội. Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn, nghề nghiệp,
chính trị của giai cấp công nhân ngày càng được cải thiện. Số công nhân có tri
thức, nắm vững khoa học - công nghệ tiên tiến đã tăng lên. Hình thành lớp công
nhân trẻ có trình độ học vấn, văn hóa, được đào tạo nghề theo chuẩn nghề nghiệp,
được rèn luyện trong thực tiễn sản xuất hiện đại, phương pháp làm việc ngày càng
tiên tiến
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử to lớn này, giai cấp công nhân Việt Nam cần phát
triển không ngừng về số lượng, nâng cao chất lượng, phát huy vai trò của một giai
cấp tiên phong, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo đúng đắn,
sáng suốt của Đảng

2. Nội dung vận dụng


Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: là đóng góp to lớn của chủ
nghĩa Mác - Lênin, soi sáng vai trò lịch sử của giai cấp vô sản là người xây dựng
xã hội xã hội chủ nghĩa thay thế xã hội tư bản. Sứ mệnh đó bắt nguồn từ chỗ giai
cấp công nhân là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, cho phương
thức sản xuất tiên tiến, là một giai cấp cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, có sứ

12
mệnh lịch sử là giải phóng cho giai cấp mình đồng thời giải phóng cho nhân dân
lao động và toàn nhân loại, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Để
thực hiện thành công sứ mệnh của mình, giai cấp công nhân phải có chính đảng
cách mạng chân chính lãnh đạo, đảng cộng sản là đội tiền phong của giai cấp công
nhân. Ngày nay, những thay đổi của đội ngũ công nhân về số lượng, chất lượng, cơ
cấu, điều kiện sống và trình độ học vấn, nghề nghiệp… không hề làm mất đi bản
chất cách mạng, không hề hạ thấp sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện đại.
Theo sự luận giải của C.Mác và Ph.Ăngghen, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa
tư bản, giai cấp tư sản từ một giai cấp tiến bộ đã trở thành một giai cấp phản động,
cần phải lật đổ. Tuy nhiên, sự cáo chung của chủ nghĩa tư bản không diễn ra một
cách tự nhiên mà sẽ do giai cấp vô sản đảm nhiệm bởi “trong tất cả các giai cấp
hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự
cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển
của đại công nghiệp còn giai cấp vô sản, lại là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp”(14). Như vậy, điều mấu chốt, cơ bản và sâu xa nhất của Tuyên ngôn với tư
cách là cương lĩnh chính trị của giai cấp vô sản nằm ở chỗ: Nó đã khẳng định vai
trò tiên phong, sứ mệnh lật đổ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột
người, thiết lập chủ nghĩa cộng sản trên quy mô toàn thế giới của giai cấp vô sản.
C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ rõ: Để thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của
mình, giai cấp vô sản phải thành lập được chính đảngvà chỉ khi có Đảng Cộng sản
lãnh đạo, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản mới chuyển từ tự phát sang tự giác và
lúc đó, họ mới thực sự là một giai cấp cách mạng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản -
bộ tham mưu của giai cấp vô sản do đó sẽ là một tất yếu khách quan. 
Từ quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản
thế giới, Hồ Chí Minh đã khẳng định sứ mệnh lãnh đạo xã hội của giai cấp công
nhân Việt Nam. Theo Người, giai cấp công nhân Việt Nam tuy ra đời muộn và có
số lượng ít ỏi nhưng đã tỏ rõ ưu thế, bản lĩnh chính trị so với tất cả các giai cấp
khác trong xã hội. Người khẳng định: “Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh
nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh
đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”. Hồ Chí Minh đã
tìm ra cho nhân dân Việt Nam lực lượng dẫn đường tiên tiến và giải quyết thành
công cuộc khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo trong phong trào giải phóng dân tộc ở
nước ta. 
Trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen còn lưu ý: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp
vô sản mang tính quốc tế nhưng giai cấp vô sản mỗi nước phải hoàn thành nghĩa
vụ trước hết với dân tộc mình. Yêu cầu đặt ra là “giai cấp vô sản mỗi nước trước
hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự
mình trở thành dân tộc”, tức là việc thành lập các đảng cộng sản phải nên được
thực hiện trong phạm vi từng quốc gia - dân tộc và đảng cộng sản mỗi nước phải
13
lãnh đạo không chỉ giai cấp công nhân nước mình mà còn lãnh đạo toàn xã hội.
Tuân thủ chỉ dẫn này của C.Mác và Ph.Ăngghen, Hồ Chí Minh đã bền bỉ truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ vào công nhân mà còn vào phong trào yêu nước
bởi muốn trở thành “dân tộc” theo chỉ dẫn của C.Mác và Ph.Ăngghen ở nơi giai
cấp công nhân vô cùng ít ỏi, Đảng Cộng sản Việt Nam phải quy tụ được đông đảo
những người dân Việt Nam yêu nước, phải đưa phong trào yêu nước đi theo con
đường cách mạng vô sản. Kết quả là, trong sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam,
có sự tham gia của yếu tố thứ ba - phong trào yêu nước.
Vận dụng học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân của  C.Mác và Ph.
Ăngghen vào Việt Nam là chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã đề xuất bổ sung cho
“chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương
Đông...”. Người khẳng định, cùng với động lực đấu tranh giai cấp thì, “Chủ nghĩa
dân tộc là động lực lớn của đất nước” và phải gắn sứ mệnh của giai cấp với lợi ích
của dân tộc. Người đã phát hiện thêm hai điều mà C.Mác chưa nói tới: “Chủ nghĩa
cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn với châu Âu” vì nó có nhiều tiền đề
từ xã hội cổ truyền, và chưa phải là sự phát triển của xã hội sản xuất mà là “Sự tàn
bạo của chủ nghĩa đế quốc đã chuẩn bị sẵn mảnh đất rồi. Chủ nghĩa cộng sản chỉ
còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng mà thôi”. Chính
từ những quan điểm mới mẻ ấy, Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công nhiệm vụ
giải phóng dân tộc ở Việt Nam và đã bổ sung, phát triển lý luận về cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Đó cũng cũng chính là phương pháp luận để chúng ta vận dụng và
phát triển lý luận về sứ mệnh lịch sử.
Tuy nhiên, Việt Nam đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước có nền nông
nghiệp lạc hậu, chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, sau khi
giành được chính quyền về tay nhân dân cần không ngừng xây dựng nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Sử dụng nhà nước đó để thiết lập hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa; xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội,
xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.
Thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn nhiều khó khăn. Ngay sau khi
giành được độc lập đã phải bước vào 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946 -
1954), hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ. Hậu quả do chiến tranh để lại còn nặng
nề, kinh nghiệm cho xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng nhà nước, xây dựng nền
kinh tế…chưa nhiều. Để xây dựng được đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn
như mong đợi của Bác Hồ đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm lớn của toàn Đảng, toàn
dân.
Kể từ Đại hội VI (1986) của Đảng, đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới toàn
diện. Đặc biệt chú ý đổi mới tư duy (tư duy kinh tế), từng bước đổi mới chính trị…
Đến Đại hội VII (1991) của Đảng, thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

14
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với việc đưa ra được những đặc trưng cơ bản
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta lần đầu tiên đưa ra được mô hình chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam - Mô hình này đã vận dụng những quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về những đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa vào điều kiện cụ thể
nước ta, phù hợp với xu thế của thời đại. Đất nước chuyển mạnh sang phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân ở Việt Nam lúc này là từng bước thực hiện những đặc trưng về
chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội - đối ngoại… Sau thực tiễn 20 năm thực hiện
Cương lĩnh (1991), nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới,
về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã
hình thành trên những nét cơ bản. Đến Đại hội XI của Đảng (01-2011), Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) đã được thông qua. Đại hội XII của Đảng và trước thềm Đại hội XIII,
Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
với 8 đặc trưng có sự bổ sung, phát triển cho phù hợp với tình hình mới

3. Đánh giá khả năng vận dụng


*Thành tựu đạt được
Ở Việt Nam hiện nay, GCCN cùng nhân dân là chủ thể quyền lực tối cao, thông
qua Đảng và định hướng đường lối công nghiệp hóa thông qua Nhà nước để quản
lý phát triển xã hội. Vừa là người sở hữu xã hội tư liệu sản xuất vừa là quản lý, sử
dụng tư liệu sản xuất của xã hội, GCCN Việt Nam đang góp phần quyết định cho
việc xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, giải quyết vấn đề “lao động bị tha hóa”
thông qua thực hiện nội dung kinh tế của sứ mệnh lịch sử. Đó là một sứ mệnh vĩ
đại đang được bắt đầu ở Việt Nam.
Điểm mới thứ hai cũng là sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực
tiễn Việt Nam: GCCN có vai trò lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là
Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng CNXH ở Việt Nam với những đặc trưng khái
quát là “vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đặc điểm của Việt Nam hiện nay là một nước đang phát triển, tỷ lệ hộ nghèo còn
cao, các tiêu chí XHCN về dân chủ, công bằng, văn minh vẫn là mục tiêu phấn
đấu. Vì vậy, trách nhiệm của GCCN, thông qua đội tiền phong của nó, phải khắc
phục hiện trạng trên. Lao động sống, lao động tạo ra giá trị thặng dư của công nhân

15
là nguồn gốc chủ yếu cho của cải, tài sản, sự giàu có của mọi xã hội. Ở Việt Nam
cũng vậy, nhưng giá trị thặng dư mà người công nhân tạo ra, sau phần mà người
lao động được hưởng “bởi đóng góp của mình” và sau phân phối lại theo hiệu quả
sản xuất kinh doanh, mức góp vốn, thì sử dụng chủ yếu cho thực hiện phúc lợi xã
hội. Đó là sự khác nhau giữa CNXH ở Việt Nam với chế độ TBCN.
Điểm mới thứ ba là vai trò “nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin nói về liên
minh công - nông, Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức trong cách mạng Việt Nam.
Trong sự nghiệp đổi mới, vấn đề này được Đảng nhận thức sâu hơn về GCCN với
vai trò kép: làm nòng cốt cơ sở chính trị xã hội cho sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước và làm nòng cốt cho đại đoàn kết toàn dân tộc. Cả hai vai trò của
GCCN là sự thể hiện trên hai phương diện: đoàn kết giai cấp và đoàn kết dân tộc -
một đặc sắc của cách mạng Việt Nam. 
Vấn đề làm thuê và làm chủ, được và mất trong kinh tế thị trường cũng đã được
nhìn nhận rộng hơn, sâu hơn, biện chứng hơn. Chẳng hạn, bị bóc lột cũng “được”,
và đi bóc lột cũng “mất”! Người lao động “được” gì khi tham gia vào quá trình sản
xuất tư bản? Với những công nhân Việt Nam xuất thân từ nông dân, họ có nghề
nghiệp, kỹ năng lao động mới, thu nhập tăng hơn, được tiếp cận môi trường lao
động hiện đại với phương thức lao động và quản lý mới... Từ đó, GCCN có được
những tri thức kỹ năng mới để mà quản lý, làm chủ. Nhà nước thu được thuế, tiếp
cận với công nghệ mới, kinh tế thị trường và sản xuất hàng hóa hiện đại, qua đó mà
phát triển sản xuất và “làm bạn, là đối tác” và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế
thế giới... Người sử dụng lao động cũng phải chia sẻ bí quyết công nghệ, chia sẻ thị
trường, kinh nghiệm quản lý, chấp nhận sự nguy hiểm của đồng vốn khi đầu tư, và
có cả thất bại, phá sản v.v. chứ không phải chỉ là và khi nào cũng đạt lợi nhuận.
Nguyên tắc hai bên, các bên cùng có lợi là một yêu cầu khách quan và đã diễn ra
trên thực tế.
Hiện tượng lao động bị bóc lột, bất công không chỉ xuất hiện trong thành phần
kinh tế ngoài nhà nước mà còn xuất hiện ngay trong thành phần kinh tế nhà nước,
khi mà người quản lý không công tâm, cơ chế quản lý lỏng lẻo và bị lợi dụng để
mưu lợi ích riêng và lợi ích nhóm. Sở hữu công hữu vẫn có thể làm nảy sinh những
bất công mới, nếu dân chủ trong doanh nghiệp không được phát huy, nếu cơ chế
quản lý tài sản công không khoa học, chặt chẽ...
Tri thức hóa và trí thức hóa công nhân là một thực tế ở Việt Nam. Hiện nay 9,7%
công nhân nước ta có trình độ đại học. Nhiều doanh nghiệp, tập đoàn đã ứng dụng
các công nghệ của cách mạng công nghiệp 4.0. GCCN Việt Nam trong cơ chế thị
trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ động tích cực hội nhập

16
với thế giới đã và đang “sản sinh ra một tầng lớp trí thức cho riêng mình”
(Ph.Ăngghen). 
GCCN Việt Nam hiện nay, về kinh tế và xã hội, “là một lực lượng xã hội to lớn,
đang phát triển”, cho nên chưa đạt đến độ thống nhất cao và có nhiều tầng lớp. Sự
phân hóa, phân tầng đó là tự nhiên, có cơ sở từ thực tiễn công nghệ và các thành
phần kinh tế hiện nay. Theo đó, một mặt tôn trọng thực tế để có những giải pháp
phù hợp khi xây dựng GCCN trong các thành phần kinh tế khác nhau; mặt khác
cũng phải luôn chú ý đến việc đoàn kết, thống nhất GCCN. “Mẫu số chung” để
quy đồng những khác biệt về vị thế, lợi ích của GCCN đã và ngày càng được tìm
ra nhiều hơn qua thực tiễn đổi mới. Đó là sự thống nhất giữa lợi ích của giai cấp
công nhân với lợi ích của toàn Dân tộc trong mục tiêu “Độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH”; đó là sự thống nhất giữa 3 lợi ích: của cá nhân người lao động, của
tập thể và của xã hội; đó là lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, ý chí vươn lên thoát
khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tinh thần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... của mỗi người
công nhân.

*Hạn chế còn tồn tại


Chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận về GCCN, SMLS cũng như nhiều ngành khoa
học khác đều đứng trước thách thức của thời đại bùng nổ thành tựu của khoa học -
công nghệ và chịu sự giám định, khảo nghiệm của thực tiễn. Tri thức luôn được
xác định bởi hoàn cảnh lịch sử và luôn là những chân lý tương đối. Nhân loại coi
đó là một trong những quy luật phát triển của khoa học. Theo đó cũng có một số
luận điểm nhận định liên quan đến lý luận về GCCN, SMLS đã bị thực tế vượt qua
và cần phải điều chỉnh.
Lao động trí tuệ ngày càng có vai trò to lớn trong lao động sống của công nhân
hiện đại. Ph.Ăngghen trong Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh (1845) có đề
cập đến những hiểu biết rộng rãi của những người vô sản, những quan niệm không
bị ràng buộc bởi thiên kiến tôn giáo và dân tộc ở họ; những tri thức mà lớp “công
nhân công xưởng” vận dụng khi sản xuất công nghiệp...
Tuy vậy, xu thế “trí tuệ hóa” của GCCN chỉ được bộc lộ rõ hơn trong những cuộc
cách mạng công nghiệp gần đây. Công cụ lao động của công nhân không chỉ là
máy móc cơ khí với những tư duy về kỹ thuật và quy trình sản xuất  nữa; ngày nay
họ phải vận hành một tổ hợp máy móc được tích hợp thành một khối liên kết đa
chức năng và biết lập trình các hoạt động. Theo đó, năng lực vận hành máy móc
còn bao gồm các kỹ năng lập trình, tư duy tưởng tượng về kết quả và các quy trình
sẽ diễn ra với sản xuất (tư duy suy luận ảo).
Theo đó, trí tuệ hóa lao động công nghiệp là một yêu cầu tự nhiên khi đào tạo công
nhân. Yêu cầu về tri thức của công nhân hiện nay ở nhiều ngành công nghiệp là

17
tương đương với hiểu biết của một kỹ sư. Thậm chí, theo một nghiên cứu gần đây:
“Về cơ bản, vũ khí cạnh tranh quyết định ở thế kỷ XXI là giáo dục và kỹ năng của
lực lượng lao động... Nếu bạn chọn công nghệ sinh học thì chiến lược của bạn phải
là: bạn có đào tạo đủ tiến sĩ sinh học chưa? Bởi vì tiến sĩ sinh học trong công nghệ
sinh học là tương đương với công nhân sản xuất trong các ngành công nghiệp
khác”(14). Theo đó, phẩm chất trí tuệ của công nhân cũng cần được bổ sung, nâng
cao thêm về trình độ mà họ cần có khi tham gia vào lao động hiện đại.
Công nhân đang “sở hữu và sử dụng một loại tư liệu sản xuất đặc biệt”- tri thức.
Trong sản xuất hiện đại, người ta thừa nhận rằng, tri thức là một yếu tố đầu vào của
sản xuất. Nó bao gồm hiểu biết nghề nghiệp, tay nghề, các “kỹ năng mềm của công
nhân” và cả tình cảm, đạo đức nghề nghiệp... Những tư liệu sản xuất ấy lại đang
tồn tại bên trong của một người công nhân cụ thể. Nó cũng buộc các nhà tuyển
dụng phải quan tâm và người lao động cũng có quyền mặc cả để có đồng lương
xứng đáng với “tư liệu sản xuất đặc biệt” mà mình đóng góp.
Rõ ràng kinh tế tri thức đã khách quan tạo ra điều kiện để người lao động hiện đại
có một vị thế khác, vì họ cũng là người đồng sở hữu và sử dụng một tư liệu sản
xuất đặc biệt. Và hiển nhiên, khái niệm vô sản chưa đủ để phản ánh một bộ phận
công nhân hiện đại.     
Sản xuất hàng hóa hiện nay cùng với cơ chế kinh tế thị trường vẫn là những ứng
dụng mới mẻ và hữu ích nhất cho sự phát triển kinh tế để từ đó thực hiện công
bằng, bình đẳng ở các nước XHCN. Chưa thấy từ thực tiễn xây dựng CNXH,
những dấu hiệu của xu thế xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa. Trên thực tế hiện nay và
theo sự khẳng định của các Đảng Cộng sản đang cải cách, đổi mới, thì “nền kinh tế
nhiều thành phần sẽ còn tồn tại lâu dài trong CNXH” và hệ quả của nó - sản xuất
hàng hóa, hiển nhiên cũng sẽ còn tồn tại lâu dài.
Nhưng cái gì chưa diễn ra, thì không phải là không thể diễn ra. Bởi vậy, tư tưởng
về CNXH là “nền sản xuất vật phẩm” và “không có sản xuất hàng hóa”, vẫn có thể
xem là một tư tưởng cần có thêm sự kiểm chứng từ thực tiễn.
4. Giải pháp khắc phục
Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay cần phát huy vai trò của mình qua các lĩnh
vực sau:
-Trong lĩnh vực kinh tế:
Tiếp tục tham gia thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn
với phát triển kinh tế tri thức, phải chủ động vươn lên làm chủ khoa học - công
nghệ; phải tiên phong đi đầu trong những lĩnh vực then chốt mới có thế giữ được
vai trò của mình trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Giai cấp công

18
nhân Việt Nam cần tham gia sâu rộng vào sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; có
văn minh công nghiệp chiếm ưu thế trong sản xuất và đời sống xã hội; phát triển
nhanh và bền vững phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn.
-Trong lĩnh vực chính trị - xã hội:
Giai cấp công nhân Việt Nam góp phần giữ vững, củng cố và tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, nâng cao vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên và
tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong Đảng.
Thông qua vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam đã
và đang góp phần xây dựng hệ thống chính trị; là giai cấp tiên phong trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội; là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp, đại đoàn kết
toàn dân tộc.
-Trong lĩnh vực văn hóa - tư tưởng:
Cùng với sự quan tâm của Đảng, giai cấp công nhân phát triển về cả số lượng và
chất lượng, bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp không
ngừng được nâng cao. Công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng giai cấp công nhân
được quan tâm đáp ứng yêu cầu mới.
Nội dung và phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân được
đổi mới. Đây là một trong những nội dung quan trọng trong đổi mới công tác tư
tưởng, lý luận của Đảng nói chung, đối với giai cấp công nhân nói riêng. Phải tăng
dần số lượng giai cấp công nhân trong Đảng. Đảng ta đã luôn thường xuyên giáo
dục chính trị cho giai cấp công nhân để họ nhận thức được đầy đủ vai trò của mình
trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay ở nước ta.
Cùng với quá trình phát triển đất nước, giai cấp công nhân Việt Nam đã không
ngừng lớn mạnh và góp phần quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng…
Tóm lại, trải qua các cuộc cách mạng công nghiệp, đặc biệt là cách mạng công
nghiệp 4.0 đều tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến giai cấp công nhân và việc thực
hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Nhưng với tư cách là sản phẩm và là
chủ thể của cách mạng công nghiệp, giai cấp công nhân trong thời đại cách mạng
công nghiệp 4.0 vẫn sẽ là lực lượng tiên phong trong sản xuất vật chất và là đại
biểu cho xu thế tiến bộ, văn minh mà nhân loại hướng tới. Vì thế, học thuyết về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân của C.Mác vẫn còn nguyên giá trị. Việc
nghiên cứu đầy đủ những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và vận dụng ở Việt Nam sẽ khẳng
định sức sống của học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân của C.Mác
và bổ sung, phát triển học thuyết này ở Việt Nam hiện nay. Cùng với xây dựng giai

19
cấp công nhân Việt Nam ngày càng phát triển về số lượng và chất lượng, bảo vệ
giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai
trái, thù địch nhằm góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; thực hiện mục
tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh mà Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đề ra.

KẾT LUẬN
Giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa là đại diện tiêu biểu cho sự vùng
lên tự cứu lấy mình. Sinh ra và lớn lên dưới chế độ ấy, họ không còn lựa chọn nào
khác là phải đấu tranh, nếu không họ sẽ phải chịu sự khốn khổ của việc bị áp bức
bó lột.
Sứ mệnh của giai cấp công nhân ra đời như một vị cứu tinh cho những người
công nhân thời đó, khi họ hiểu được nếu tiếp tục chịu sự kìm kẹp này thì không chỉ
họ chịu mà con em sau này của họ cũng sẽ phải trải qua, và cũng là sự phát triển
của đất nước. Nên lần lượt những cuộc đấu tranh của công nhân nổi dậy trên thế
giới và ngày càng mạnh mẽ, dữ dội hơn.
Công nhân Việt Nam cũng không ngoại lệ. Tuy rằng lúc đầu chỉ là những cuộc
đấu tranh tự phát vì không thể chịu được một cách nhất thời. Nhưng sau này, do
ảnh hưởng từ những cuộc đấu tranh của công nhân trên thế giới, họ nhận thấy
mình cũng là một phần của sứ mệnh lịch sử cao cả này. Bộ phận công nhân và

20
nhân dân lao động Việt Nam đã đoàn kết đấu tranh một cách có tổ chức và quyết
liệt hơn.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tạo ra được cơ sở thống nhất tư tưởng và hành động,
phát huy tư cách là người lãnh đạo trong đấu tranh chống áp bức bóc lột xây dựng
xã hội mới. Sức mạnh để chiến thắng giai cấp tư sản và mọi kẻ thù khác, không
phải chỉ là ở số lượng và ở tinh thần chiến đấu của giai cấp công nhân mà chủ yếu
là ở trình độ tổ chức và giác ngộ chính trị của nó. Điều đó được thể hiện tập trung
ở chính Đảng- một tổ chức bao gồm những ngời ưu tú nhất, giác ngộ chính trị xã
hội cao, có tinh thần đấu tranh kiên quyết nhất của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động. Vì vậy Đảng cộng sản luôn là đội tiên phong chính trị của giai cấp công
nhân và của toàn xã hội.Đảng có nhiệm vụ sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, phân
tích đúng đắn hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong mỗi giai đoạn cách mạng, đề ra mục
tiêu, phương hớng, đường lối, chính sách đúng, phù hợp với yêu phát triển khách
quan của đất nước.
3. Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền sản xuất đại công nghiệp,
4. phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp nên
5. nền sản xuất có trình độ phát triển cao đòi hỏi giai cấp công nhân cần
6. phải tiếp thu các kiến thức khoa học để vận hành được dây chuyền

21
7. Giai cấp công nhân và thực hiện giai cấp công nhân hiện nay
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. C.Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.
19, tr. 38
2. https://vuit.org.vn/tin-tuc/t1117/quan-diem-cua-le-nin-ve-xay-dung-giai-cap-
cong-nhan-va-to-chuc-cong-doan.htmlhttp://m.tapchiqptd.vn/vi/nhung-ngay-
ky-niem-lon/giai-cap-cong-nhan-viet-nam-trong-tien-trinh-cach-mang-cua-
dan-toc-17029.html
3. http://truongchinhtrils.vn/node/1184
4. https://mof.gov.vn/webcenter/portal/ttncdtbh/pages_r/l/chi-tiet-tin?
dDocName=MOFUCM121176
5. http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/3506-tu-
tuong-phangghen-ve-su-menh-lich-su-cua-giai-cap-cong-nhan-gia-tri-va-
nhung-van-de-can-bo-sung-phat-trien-hien-nay.html

22

You might also like