Professional Documents
Culture Documents
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là điểm xuất phát, là phạm trù cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa
học. Việc phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được coi là một trong những phát kiến vĩ đại
nhất của Mác. Đây là nội dung quan trọng về lý luận và có ý nghĩa quan trọng về thực tiễn trong việc xây dựng
đội ngũ giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong quá trình trình bày về giai cấp công nhân trong chủ nghĩa tư bản, Mác và Ăngghen đã dùng nhiều
thuật ngữ đồng nghĩa như: giai cấp công nhân, giai cấp vô sản, giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ dựa vào việc
bán sức lao động của mình, giai cấp lao động làm thuê ở thế kỷ XIX, giai cấp công nhân hiện đại…. để chỉ giai
cấp công nhân. Đó là con đẻ của đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, đại biểu cho phương thức sản xuất tiên
tiến. Giai cấp công nhân có hai tiêu chí cơ bản sau:
Một là, về phương thức lao động, phương thức sản xuất
Đó là những người lao động trong nền sản xuất vật chất có tính chất công nghệ ngày càng hiện đại và có
tính chất hóa cao. Họ trực tiếp hay gián tiếp vận hành công cụ sản xuất tạo ra của cải vật chất. Mác Ăngghen
nhấn mạnh tiêu chí công nhân công xưởng, bộ phận tiêu biểu cho giai cấp công nhân.
Rõ ràng phương thức lao động của giai cấp công nhân khác giai cấp nông dân (Nông dân sản xuất công
cụ thủ công - trình độ cá nhân). Công nhân cũng khác tri thức (tính chất lao động bằng trí óc, sản phẩm là các
giá trị tinh thần).
Hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất,
phải bán sức lao động cho giai cấp tư sản, bị bóc lột giá trị thặng dư. Họ là những người tự do, những người
bán sức lao động để kiếm sống. Chính vì điều này khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp đối kháng
với giai cấp tư sản.
Từ hai tiêu chí cơ bản trên giúp chúng ta phương pháp luận để đi đến nghiên cứu giai cấp công nhân hiện
đại. Diện mạo giai cấp công nhân hiện đại không còn như Mác mô tả ở thế kỷ XIX vì:
Sự phát triển của LLSX hiện nay đã vượt ra trình độ văn minh trước đây, sự xã hội hóa và phân công lao
động mới. Cơ cấu giai cấp công nhân cũng có sự thay đổi: Bên cạnh công nhân của nền công nghiệp cơ khí
đã có công nhân của nền công nghiệp tự động hóa. Bên cạnh công nghiệp hiện đại xuất hiện loại ngành dịch
vụ công nghiệp nhưng không làm giảm vị trí của giai cấp công nhân đối với xã hội.
Xu hướng trí thức hóa công nhân tăng nhưng không làm thay đổi bản chất đối với họ, công nhân vẫn bị
bóc lột. Công nhân có tài sản có cổ phần nhưng vẫn là giai cấp làm thuê, bị bóc lột theo chiều sâu.
Như vậy GCCN hiện nay hoạt động ở các ngành nghề hết sức khác nhau, trình độ cũng rất khác nhau. Có
thể coi công nhân làm việc trong các ngành công nghiệp, dịch vụ công nghiệp là công nhân, giai cấp công
nhân. Những người lao động trong các ngành y tế, giáo dục, văn hóa, dịch vụ không liên quan đến công
nghiệp là những người lao động nói chung, mặc dù được thu hút vào các nghiệp đoàn lao động nhưng không
phải là công nhân.
Mác, Ăngghen chỉ rõ khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền,
không còn bị áp bức bóc lột. Lúc đó, họ trở thành giai cấp lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới.
Từ phân tích trên, theo chủ nghĩa Mác - Lênin: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội, hình thành và phát
triển cùng quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại; lao động bằng phương thức công nghiệp ngày
càng hiện đại và gắn liền với quá trình sản xuất vật chất hiện đại, là đại biểu cho phương thức sản xuất mang
tính xã hội hóa ngày càng cao. Đó là giai cấp có sứ mệnh phủ định chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.
NỘI DUNG VÀ ĐIỀU KIỆN KHÁCH QUAN QUY ĐỊNH SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI
CẤP CÔNG NHÂN
NHỮNG ĐIỀU KIỆN KHÁCH QUAN QUY ĐỊNH SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN
Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản Mác và Ăngghen đã phân tích những điều kiện khách quan quy
định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Một là, giai cấp công nhân, con đẻ của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, được nền công nghiệp
hiện đại rèn luyện, tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh. Có thể thấy điều kiện này ở các khía
cạnh sau:
- Là con đẻ của đại công nghiệp: Đại Công nghiệp làm phá hàng loạt những người sản xuất nhỏ, bổ
sung lực lượng cho giai cấp công nhân. Đại công nghiệp phát triển sẽ thu hút lực lượng lao động xã
hội tạo thành tập đoàn người lao động công nghiệp. Yêu cầu sản xuất công nghiệp rèn luyện người lao
động ở tác phong, kỷ luật, trình độ...Giai cấp công nhân gắn liền với sản xuất vật chất đi liền với nền
công nghiệp hiện đại kể cả trong nền kinh tế tri thức vì lao động sẽ làm xuất hiện công nhân trí thức
hòa trộn trong một người lao động. Kể cả "Hậu công nghiệp" vẫn không bỏ qua trình độ công nghiệp,
vẫn gắn với công nhân.
- Giai cấp công nhân bị áp bức bóc lột nặng nề, là giai cấp đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản.
Không nắm tư liệu sản xuất chủ yếu, giai cấp công nhân mất quyền làm chủ quá trình tổ chức lao động
xã hội, phân phối sản phẩm xã hội. Giai cấp công nhân bị bần cùng hóa so với giai cấp tư sản
về khoảng cách thu nhập, hưởng thụ vật chất. Vì không có tư hữu nên giai cấp công nhân có khả
năng xây dựng một xã hội hoàn toàn mới chứ không cải biến chút ít như giai cấp tư sản đã làm.
- Trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất, đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến. Do vậy đây là bộ phận đông nhất, cách mạng nhất
và quyết định nhất.
Hai là, địa vị kinh tế - xã hội khách quan còn tạo ra khả năng cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp
triệt để cách mạng nhất có khả năng đoàn kết các giai cấp khác, đi đầu trong cuộc đấu tranh chống giai cấp
tư sản.
- Giai cấp công nhân có khả năng đoàn kết toàn bộ giai cấp vì: Có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau,
cùng tồn tại trong điều kiện, môi trường như nhau: bị toàn bộ giai cấp tư sản trong nước và quốc tế
bóc lột sức lao động. Có mục tiêu như nhau là xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Giai cấp công nhân có lý luận Cách mạng và khoa học dẫn đường đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Điều
đó làm cho giai cấp giác ngộ hơn, tinh thần Cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật cao hơn các giai cấp
tầng lớp khác trong xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng giúp họ khả năng hoạt động đấu tranh
để đạt được mục tiêu.
Tóm lại: Do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân tạo nên cho giai cấp công nhân trở
thành một giai cấp có địa vị hơn hẳn các giai cấp, tầng lớp khác, làm cho nó trở thành giai cấp tiên tiến
trong chủ nghĩa tư bản. Những đặc điểm đó tạo thành bản chất Cách mạng của giai cấp công nhân, là cơ sở
để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ QUAN, ĐẶC BIỆT LÀ VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG
QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GCCN
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là tất yếu khách quan, tức là không phụ thuộc vào ý muốn của bất
kỳ ai. Nhưng cũng như các quy luật xã hội khác, nó không “ tự động” diễn ra như các quy luật tự nhiên mà nó
cần có những yếu tố chủ quan.
1. Bản chất giai cấp công nhân
Ra đời cùng với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân từng bước trưởng thành về
số lượng và chất lượng.
Về số lượng: Chẳng những tăng ở tất cả các nước, mà còn đa dạng hơn về cơ cấu với nhiều
ngành nghề khác nhau. Theo tổ chức lao động quốc tế đầu thế kỷ XX có 80 triệu đến 1998 có 800 triệu và
ngày càng tiếp tục tăng.
Về chất lượng: Đây là yếu tố quyết định đảm bảo thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử. Ban thân giai cấp
công nhân luôn có sự nâng cao về học vấn, về khoa học công nghệ, tay nghề. Từ hoạt động kinh tế, đến hình
thức đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, từng bước hoạt động chính trị và đấu tranh chính trị. Sự giác
ngộ giai cấp đã dẫn tới hình thành chính đảng tiên phong. Bản thân giai cấp công nhân đã trở thành cơ
sở xã hội, nhân tố xã hội quan trọng nhất của Đảng Cộng sản.
2. Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển Đảng của GCCN
Quy luật chung của sự hình thành Đảng của giai cấp công nhân là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác Lênin
với phong trào công nhân.
Phong trào công nhân là cơ sở xã hội, nhân tố xã hội của Đảng. Phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân diễn ra dưới nhiều hình thức, thể hiện bước tiến của phong trào: Đấu tranh kinh tế ,
đấu tranh tư tưởng đến đấu tranh chính trị. Phong trào công nhân chỉ phát triển lên hình thức chính trị (hình
thức đấu tranh mang tính tự giác) khi tiếp thu được lý luận khoa học - lý luận chủ nghĩa Mác Lênin với trình độ
lý luận khoa học cho phép giai cấp công nhân thấy được vị trí, vai trò của giai cấp trong xã hội, mục tiêu, con
đường, biện pháp giải phóng giai cấp và toàn nhân loại.
Chủ nghĩa Mác Lênin mang bản chất cách mạng và khoa học, lấy lợi ích giai cấp làm mục đích chính.
Phản ánh phong trào công nhân, nhận thấy vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa Mác
Lênin có xu hướng đi vào phong trào công nhân, đóng vai trò dẫn đường.
Sự kết hợp phong trào công nhân và chủ nghĩa Mác Lênin là sự kết hợp lực lượng vật chất với lực lượng
tinh thần tiên tiễn đưa đến sự hình thành Đảng giai cấp công nhân.
Quy luật phát triển Đảng theo nguyên tắc Mác xít Lênin nít với các quy luật tập trung dân chủ, thiểu số phục
tùng đa số, lãnh đạo tập thể cá nhân phụ trách, phê bình và tự phê bình. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ quy luật hình
thành Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp giữa phong trào công nhân, phong trào yêu nước với chủ nghĩa
Mác Lênin.
4. Xây dựng khối liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao
động khác: Phải có sự thống nhất của phong trào công nhân (phong trào công nhân trong từng nước với
phong trào công nhân quốc tế), từng bước xây dựng ý thức đoàn kết quốc tế.
LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN ĐẨY MẠNH CNH-HĐH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao
động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất, kinh doanh và dịch vụ công
nghiệp hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính công nghiệp.
Giai cấp công nhân ta có sứ mệnh lịch sử to lớn : là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong
là Đảng cộng sản Việt Nam, là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, là lực lượng tiên phong
trong sự nghiệp xây dựng CNXH, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, là lực lượng nòng
cốt trong liên minh công – nông – trí.
Thực hiện thành công sứ mệnh đó là đảm bảo cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đẩy mạnh CNH-HĐH là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Thực trạng thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay :
Cùng với sự nghiệp đổi mới và quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước giai cấp công nhân nước ta đã có
bước chuyển biến quan trọng tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu , chất lượng được nâng lên đã hình
thành ngày càng đông đảo công nhân trí thức, đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng
thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản Việt Nam.
Tuy vậy, sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu về số lượng, cơ
cấu, trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật nghề nghiệp của sự nghiệp CNH-HĐH và hội nhập kinh tế quốc
tế. Địa vị chính trị của giai cấp công nhân còn chưa thể hiện đầy đủ.
Đối với vai trò đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập
kinh tế quốc tế của giai cấp công nhân nước ta cũng còn nhiều bất cập, hạn chế. Năng lực làm chủ khoa học
công nghệ của công nhân, năng lực lãnh đạo tổ chức, quản lý và kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước,
thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa hoàn thiện.
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ XÂY DỰNG GCCN VN HIỆN NAY
KẾT LUẬN
Nghiên cứu sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân giúp chúng ta cơ sở lý luận để hiểu đầy đủ về khái
niệm, vai trò sứ mệnh lịch sử điều kiện để thực hiện sứ mệnh lịch sử đó. Qua đây chúng ta cũng thấy được
tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân đối với quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân. Nghiên cứu chương này cũng là cơ sở lý luận để chúng ta giải quyết những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam: như vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân Việt
Nam, điều kiện và yêu cầu để giai cấp công nhân Việt Nam thực hiện nhiệm vụ lịch sử của mình.
QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH
KHÁI NIỆM
Thời kỳ quá độ là thời kỳ vận động “chuyển tiếp” từ xã hội cũ (tư bản chủ nghĩa) lên xã hội mới (cộng sản
chủ nghĩa) với ba đặc điểm cơ bản: một là, “thời kỳ quá độ chính trị”, hai là, sư tồn tại nhà nước “chuyên
chính vô sản” và ba là, thời kỳ “cải biến từ xã hội nọ sang xã hội kia” với nhiều yếu tố còn tồn tại đan xen giữa
cái cũ và cái mới.
Như vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là thời kỳ tiến
hành cuộc cách mạng cải tạo toàn diện triệt để xã hội cũ, xây dựng cơ sở vật chất và nền tảng văn hóa tinh
thần cho xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ chuyển biến
cách mạng lâu dài, đầy khó khăn, thậm chí phải kinh qua nhiều bước chuyển “trung gian” khác nhau, bắt đầu
từ khi GCCN và nd lao động giành được chính quyền đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
TÍNH TẤT YẾU CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Theo Mác, Ăngghen, Lênin, dù có sự phân kỳ nhưng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa đã bắt
đầu từ thời kỳ quá độ cho đến khi xây dựng xong giai đoạn cao của xã hội cộng sản. Và dù quá độ trực tiếp từ
chủ nghĩa tư bản đã phát triển hay các kiểu quá độ gián tiếp (quá độ bỏ qua) cũng đều nằm trong quy luật và
xu hướng tất yếu của lịch sử nhân loại trong thời đại ngày nay, bởi vì:
Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội là hai kiểu chế độ xã hội khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa
tư bản được xây dựng dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, còn tồn tại áp bức bóc lột bất
công , đối kháng giai cấp (giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản). Chủ Nghĩa xã hội được xây dựng dựa
trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, tồn tại dưới hai hình thức là nhà nước và tập thể, đã xóa bỏ
tình trạng áp bức bóc lột bất công , không còn đối kháng giai cấp. Mục đích của CNXH là xóa bỏ chế độ người
bóc lột bất công , không còn đối kháng giai cấp, muốn vậy cần phải trải qua thời kỳ quá độ.
Hai là, CNTB tạo ra cơ sở vật chất – kỹ thuật nhất định cho CNXH, nhưng để cơ sở vật chất – kỹ thuật đó
phục vụ cho CNXH cần phải có thời gian tổ chức, sắp xếp lại. Và thời gian đó chính là thời kỳ quá độ.
Ba là, các quan hệ xã hội của CNXH không thể tự phát ra đời trong lòng CNTB ( quan hệ xã hội giai cấp,
quan hệ dân tộc , kinh tế chính trị ,…).Các Quan hệ xã hội đó là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo
CNXH. Sự Phát triển của CNTB mới chỉ tạo ra những điều kiện, tiền đề vật chất cho sự ra đời của CNXH.
Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc khó khăn, phức tạp và mới mẻ, phải cần có
thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm quen với những công việc đó.
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Tính tất yếu và đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975
trên phạm vi cả nước, sau khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành thắng lợi, đất nước
đã hoà bình thống nhất quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia xây dựng chủ nghĩa xã hội,
dù điểm xuất phát ở trình độ phát triển cao hay thấp. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một
tất yếu lịch sử. Bởi vì:
Một là, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử. Sự
biến đổi của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên và hình thái kinh tế - xã hội sau cao hơn,
tiến bộ hơn hình thái kinh tế - xã hội trước nó. Chúng đều tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cho dù ngày nay, chủ nghĩa tư bản đang nắm
nhiều ưu thế về vốn, khoa học, công nghệ và thị trường, nhưng không vượt ra khỏi những mâu thuẫn vốn có
của nó, đặc biệt là mâu thuẫn gay gắt giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xã hội hóa lao động làm cho
các tiền đề vật chất, kinh tế, xã hội ngày càng chín muồi cho sự phủ định chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản
không phải là tương lai của loài người. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ
nghĩa xã hội.
Hai là, phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp với xu thế của thời đại, mà còn phù
hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam: cách mạng dân tộc, dân chủ gắn liền với cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trước hết là để giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, dân chủ...
đồng thời nó là tiền đề để "làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn
việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”, nhằm thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh". Vì vậy, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp tục hợp logic cuộc cách
mạng dân tộc, dân chủ, làm cho cách mạng dân tộc, dân chủ được thực hiện triệt để.
THỰC CHẤT CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Từ sau thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, VN tạm thời chia thành 2 miền: miền Nam vào
CM dân tộc dân chủ nd; miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - hậu phương lớn của CM
miền Nam. Đảng ta đã xác định rõ, miền Bắc xét về kte là từ nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, quá độ
lên chủ nghĩa nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, có vai trò quyết định nhất đến toàn bộ 2 nhiệm
vụ chiến lược của CM cả nước: giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa hội ở miền
Bắc.
QUÁ ĐỘ LÊN CNXH BỎ QUA TBCN
Về mặt lý luận: Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một kiểu quá độ gián
tiếp (loại hình quá độ đặc biệt của đặc biệt). Khi nghiên cứu về sự phát triển của lịch sử, C. Mác và Ph.Ăng
ghen đã khẳng định, lịch sử xã hội vừa phát triển theo con đường tuần tự, vừa phát triển theo con đường
nhảy vọt.
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đặc biệt là từ sau cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại (1917), kế thừa tư
tưởng của C.Mác và Ph.Ăng ghen, V.I.Lênin tiếp tục khẳng định tính tất yếu quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa ở các nước tiền tư bản chủ nghĩa hoặc thuộc địa và phụ
thuộc. Ông viết: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế
độ Xô Viết và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”(2). Với quan điểm đó, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn trong việc xác định và
lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trên cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin, tính tất yếu của thời kỳ quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở
nước ta đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định từ rất sớm. Trong Chính cương vắn tắt, Nguyễn Ái Quốc
đã khẳng định: Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Ngay từ khi tìm ra con đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn loại hình quá độ gián tiếp lên
chủ nghĩa xã hội ở một nước thuộc địa nửa phong kiến trên cơ sở thấm nhuần tư tưởng cách mạng không
ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Về mặt thực tiễn: Trước khi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước đã có nhiều sĩ phu yêu nước như Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng đã tìm đường cứu nước. Tuy nhiên, chưa có ai tìm ra con đường cứu nước
đúng đắn, do con đường mà họ lựa chọn không phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và lịch sử Việt Nam. Chỉ
khi Nguyễn Ái Quốc đọc được “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin, cùng với chủ
nghĩa Mác – Lênin thì con đường giải phóng dân tộc mới đem lại kết quả – giải phóng dân tộc khỏi áp bức,
bất công. Vì vậy, vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin, lựa chọn con đường phát triển bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam là tất yếu và phù hợp. Chủ nghĩa tư bản tuy đã có nhiều điều chỉnh về mặt lợi ích,
giải quyết có hiệu quả về phát triển kinh tế cũng như một số vấn đề xã hội. Tuy nhiên, bản chất của chế độ áp
bức, bóc lột thì không thay đổi, khoảng cách giàu nghèo, phân biệt màu da, chủng tộc chưa được khắc phục;
nhiều tệ nạn xã hội chưa được giải quyết; khủng bố, gây chiến tranh vẫn là vấn đề nóng bỏng. Do vậy, chủ
nghĩa tư bản không phải là một xã hội mà tương lai của loài người muốn đạt tới.
Ngoài ra, điều kiện cần thiết cho phép chúng ta lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa đó là: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thử thách, được khẳng định và
trở thành nhân tố quan trọng hàng đầu cho quá trình tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở nước ta; Nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp công nhân và giai cấp nông dân đã được
thiết lập và củng cố qua công cuộc cứu quốc và kiến quốc. Đây chính là tiền đề cho sự ra đời của nhà nước
xã hội chủ nghĩa khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức đã được thiết lập, phát huy ngay trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và sẽ tiếp tục được phát huy vai trò nòng cốt trong khối đại đoàn kết dân tộc để đưa đất nước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; sự giúp đỡ của phong trào cách mạng thế giới và
nhân loại tiến bộ mà trước hết là sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Về khả năng khách quan BỎ QUA TBCN
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang phát triển như vũ bão và toàn cầu hoá kinh tế đang
diễn ra mạnh mẽ, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu; nó mở ra khả năng thuận lợi để khắc
phục những hạn chế của nước kém phát triển như thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, khả năng và kinh nghiệm
quản lý yếu kém..., nhờ đó ta có thể thực hiện "con đường rút ngắn".
Thời đại ngày nay, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xu hướng khách quan của loài người. Đi trong dòng chảy
đó của lịch sử, chúng ta đã, đang và sẽ nhận được sự đồng tình, ủng hộ ngày càng mạnh mẽ của loài người,
của các quốc gia độc lập đang đấu tranh để lựa chọn con đường phát triển tiến bộ của mình.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội giúp chúng ta cơ sở lý luận để hiểu
đầy đủ về khái niệm, nội dung, đặc điểm và điều kiện để thực hiện quá trình đó. Qua đây chúng ta cũng thấy
được tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quá trình quá độ đi lên CNXH ở VN. Nghiên cứu
chương này cũng là cơ sở lý luận để chúng ta giải quyết những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam: như
TÍNH TẤT YẾU CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, Phương hướng xây dựng CNXH ở VN
hiện nay,...
VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
*Xét trong phạm vi các quốc gia XHCN có nhiều dân tộc:
Xu hướng thứ nhất biểu hiện trong sự nỗ lực của từng dân tộc để đi tới sự tự chủ và phồn vinh của bản
thân dân tộc mình. Xu hướng thứ hai tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ để cá dân tộc trong cộng đồng quốc gia
xích lại gần nhau hơn, hòa hợp với nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống.
*Xét trong phạm vị thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan thể hiện rất nổi bật vì:
Thời đại ngày nay là thời đại các dân tộc bị áp bức đã vùng dậy, xóa bỏ ách đô hộ của chủ nghĩa đế quốc
và giành lấy sự tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình, bao gồm quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con
đường phát triển của dân tộc, quyền bình đẳng với các dân tộc khác. Đây là một trong những mục tiêu chính
trị chủ yếu của thời đại - mục tiêu độc lập dân tộc.
Xu hướng này biểu hiện trong phong trào giải phóng dân tộc thành sức mạnh chống chủ nghĩa đế quốc và
chính sách của chủ nghĩa thực dân mới dưới mọi hình thức. Xu hướng này cũng đang biểu hiện trong cuộc
đấu tranh của các dân tộc nhỏ bé đang là nạn nhân của sự kỳ thị dân tộc, phân biệt chủng tộc, đang bị coi là
đối tượng của chính sách đồng hóa cưỡng bức ở nhiều nước tư bản.
Như vậy, độc lập tự chủ của mỗi dân tộc là xu hướng khách quan, là chân lý thời đại, là sức mạnh hiện
thực tạo nên quá tình phát triển của mỗi dân tộc, sẽ làm tiêu tan tất cả những gì cản trở nó.
Thời đại ngày nay còn có xu hướng các dân tộc muốn xích lại gần nhau để trở lại hợp nhất thành một quốc
gia thống nhất theo nguyên trạng ddax được hình thành trong lịch sử. Xu hướng đó tạo nên sức hút các dân
tộc vào các liên minh được hình thành trên những cơ sở lợi ích chung nhất định. Các dân tộc có những lợi ích
mang tính khu vực, dựa trên yếu tố gần nhau về địa lý, giống nhau về môi trường thiên nhiên, tương đồng về
một số giá trị văn hóa, trùng hợp nhau về lịch sử và hiện tại trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung bên
ngoài.
Đặc biệt vào những năm 90 của thế kỷ XX, xu hướng “tập đoàn hóa” ở các khu vực của thế giới tăng lên rõ
rệt không chỉ do tác động của lợi ích kinh tế mà còn do sức thúc đẩy của các lợi ích chính trị. Hơn nữa, sự liên
minh đó còn tạo nên sức hút trên toàn cầu nhằm tập trung giải quyết những vấn đề chung của cả nhân loại
như: chống nguy cơ chiến tranh hạt nhân, chống ô nhiễm và bảo vệ môi trường sinh thái, khắc phục nạn đói
xảy ra thường xuyên ở nhiều nơi trên thế giới, kế hoạch hóa sự phát triển dân số và bảo vệ sức khỏe… Lợi
ích toàn cầu có tác động sâu xa gắn bó loài người trong một quá trình vận động thống nhất, bởi vì các dân tộc
quốc gia trên thế giới hiện nay còn đang ở trình độ phát triển khác nhau và đang cần sự hỗ trợ nhau để cùng
tiến bộ.
Nhận rõ điều này, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia phải biệt thực hiện chính sách độc lập tự chủ để mở cửa hội
nhập vào dòng vận động chung của nhân loại; đồng thời phải tìm được giải pháp hữu hiệu để gìn giữ, phát
huy bản sắc của dân tộc mình.
Dựa trên sự phân tích 2 xu hướng khách quan của phong trào dân tộc trong thời đại hiện nay, Đảng ta đã
khẳng định: “Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá đa dạng hóa quan
hệ đối ngoại” là nguyên tắc thống nhất của đường lối đối ngoại của đảng và nhà nước ta.
NỘI DUNG CƯƠNG LĨNH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
Dựa trên cơ sở tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc; dựa vào sự tổng kết kinh nghiệm
đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga; phân tích sâu sắc hai xu hướng khách quan
của phong trào dân tộc gắn liền với quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhất là khi đã bước vào giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin đã khái quát lại thành “Cương lĩnh dân tộc” của Đảng cộng sản. Trong tác
phẩm Về quyền dân tộc tự quyết, Người nêu rõ: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền
tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại.”
1. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc hoàn toàn bình
đẳng có nghĩa là: cá dân tộc lớn hay nhỏ (kể cả bộ tộc hay chủng tộc) không phân biệt trình độ phát triển cao
hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau; không một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và đi
áp bức bóc lột dân tộc khác, trước luật pháp mỗi nước và luật pháp quốc tế.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và
được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó việc phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về
trình độ phát triển kte VH do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Trên phạm vi giữa các quốc gia - dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc trong giai đoạn
hiện nay gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa sôvanh, gắn liền với
cuộc đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới, chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bản phát
triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.
Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng
mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc.
2. Các dân tộc được quyền tự quyết
Quyền tự quyết là quyền thiêng liêng nhất của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình, quyền tự
quyết định chế độ chính trị - xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm quyền
tự do độc lập về chính trị tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc (chứ k phải
vì mưu đồ và lợi ích của một nhóm người nào) và cũng bao gồm quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc
khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có đủ sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững
độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia- dân tộc.
Khi xem xét, giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân.
Triệt để ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực đế quốc và phản động lợi
dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, giúp đỡ các thế lực phản
công dân tộc chủ nghĩa (sôvanh, hẹp hòi) đàn áp các lực lượng tiến hộ, đòi ly khai và đi vào quỹ đạo của chủ
nghĩa thực dân mới, chủ nghĩa tư bản.
3. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Liên hiệp công nhân của tất cả các dân tộc tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của các đảng cộng
sản: nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải
phóng dân tộc và giai phóng giai cấp. Nó đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sm để giành thắng lợi.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới, đường lối, pp xem xét cách giải quyết
quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc. Đồng thời nó là yếu tố sm đảm bảo cho GCCN và các dân
tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình.
Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là có sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động
rộng rãi thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Vì vậy , nội dung liên hiệp công nhân các dân tộc là sự thể hiện thực tế tinh thần yêu nước mà thời đại ngày
nay đã trở thành sm cực kỳ to lớn. ND đó phù hợp vs tinh thần quốc tế chân chính đang lên tiếng kêu gọi các
dân tộc, quốc gia xích lại gần nhau.
Cương lĩnh dân tộc của đảng cộng sản là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của GCCN và nd lao
động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, là cơ sở lý luận của đường lối, chính
sách dân tộc của các đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
VẤN ĐỀ DÂN TỘC Ở VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ
NƯỚC TA HIỆN NAY
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa M-L về vấn đề dân tộc và thực tiễn lịch sử đấu tranh CM để xây dựng
và bảo vệ tổ quốc cũng như dựa vào tình hình thế giới trong giai đoạn hiện nay, Đảng và nhà nước ta ngay từ
khi thành lập cho đến nay luôn luôn coi vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc có tầm
quan trọng đặc biệt. Chủ tịch HCM đã nói:
KẾT LUẬN
Nghiên cứu vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội giúp chúng ta cơ sở lý luận để hiểu
đầy đủ về bản chất, nội dung, tính chất của chính sách dân tộc. Qua đó quan tâm và có cái nhìn sâu hơn,
chính xác hơn về tình hình đất nước và chính sách dân tộc của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
KẾT LUẬN