You are on page 1of 45

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN


-----ooo-----

BÀI TẬP LỚN


Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Cảnh Vinh


Mã sinh viên: 11216259
Lớp: EMQI – Quản trị Chất lượng và Đổi mới 63
Giảng viên: Lê Thị Hoa

Hà Nội – 10/2022
1
ĐẶT VẤN ĐỀ:...........................................................................................................................................3

PHẦN NỘI DUNG:...................................................................................................................................4

A. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TIẾP CẬN VẤN ĐỀ.........................................................................4


I. Bối cảnh lịch sử..........................................................................................................................4
II. Tiếp cận vấn đề......................................................................................................................5
B. NỘI DUNG ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY...................7
I. Thực hiện kế hoạch 5 năm 1986 – 1990....................................................................................7
1. Đại hội VI (12 – 1986)..............................................................................................................7
2. Kết quả bước đầu của công cuộc đổi mới..............................................................................7
II. Thực hiện kế hoạch 5 năm 1991 – 1995................................................................................9
1. Đại hội VII (6 – 1991)............................................................................................................9
2. Tiến bộ và hạn chế của sự nghiệp đổi mới...........................................................................9
III. Thực hiện kế hoạch 5 năm 1996 – 2000...............................................................................12
1. Đại hội VIII (6 – 1996) đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá..........................................12
2. Chuyển biến tiến bộ và khó khăn, hạn chế của công cuộc đổi mới......................................12
C. NỘI DUNG ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY.................15
I. Kinh tế......................................................................................................................................15
1. Kế hoạch 5 năm đầu 2001 – 2005........................................................................................16
2. Kế hoạch 5 năm 2005 – 2010...............................................................................................19
3. Kinh tế Việt Nam từ năm 2011 – 2020................................................................................20
4. Kinh tế Việt Nam từ năm 2021 đến nay.............................................................................22
II. Xã hội....................................................................................................................................25
1. Dân số...................................................................................................................................25
2. Việc làm................................................................................................................................25
3. Xoá đói giảm nghèo..............................................................................................................26
III. Đối ngoại...............................................................................................................................28
1. Nội dung đổi mới nằm trong các kì Đại hội Đại biểu toàn quốc về công tác đối ngoại của
Việt Nam từ năm 2000 đến nay (các kì Đại hội Đại biểu toàn quốc IX – XII)...............................28
2. Những thành tựu trong công tác đối ngoại của Việt Nam................................................30
3. Những thách thức trong công tác đối ngoại của Việt Nam...............................................33
IV. Giáo dục................................................................................................................................34
1. Thành tựu.............................................................................................................................34

2
2. Những khó khăn, thách thức đặt ra trong quá trình đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay
36
3. Định hướng chung về giáo dục và vị trí, vai trò của giáo dục hiện nay...........................37
D. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ CẢM QUAN ĐÁNH GIÁ CỦA CÁ NHÂN.........................38
I. Bài học kinh nghiệm................................................................................................................38
II. Cảm quan đánh giá của cá nhân.............................................................................................41
TỔNG KẾT:............................................................................................................................................43

TÀI LIỆU THAM KHẢO:.....................................................................................................................44

ĐẶT VẤN ĐỀ:

Sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đất nước ta bắt tay vào
công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước trên con đường xã hội chủ nghĩa. Trong
thời gian thực hiện hai kế hoạch Nhà nước 5 năm ( 1976 – 1985 ) , cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta đạt được những thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực của đời sống xã hội ,
song cũng gặp không ít khó khăn . Đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng , trước hết
là khủng hoảng kinh tế xã hội . Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng đó là
do ta mắc phải “ sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương , chính sách lớn , sai lầm
về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện ” .Để khắc phục sai lầm , khuyết điểm , đưa
đất nước vượt qua khủng hoảng và đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên , Đảng
và Nhà nước ta buộc phải tiến hành đổi mới thêm một lần nữa

3
PHẦN NỘI DUNG:
A. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TIẾP CẬN VẤN ĐỀ
I. Bối cảnh lịch sử
Đầu thập niên 70 - 80 của thế kỷ XX, trước những sự kiện, những nhân tố chính
trị, kinh tế, xã hội diễn ra với nhịp độ dồn dập, tính chất phức tạp và với một qui mô to
lớn chưa từng thấy, tất cả đang đặt ra yêu cầu bức thiết là cần phải có sự phát triển, bổ
sung lí luận cho phù hợp mà trước tiên phải có cách nhìn mới, nhận thức mới về chủ
nghĩa xã hội. Đây chính là cơ sở khách quan của đường lối đổi mới, cải cách mà nhiều
nước xã hội chủ nghĩa đã và đang tiến hành, trong đó có Việt Nam.
Một trong những đặc điểm lớn nhất của thời đại là sự phát triển "kiểu dòng thác"
chưa từng có trong lịch sử loài người đó chính là thành tựu của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ được tiến hành từ giữa thế kỉ XX đã
tạo ra những lực lượng sản xuất to lớn và mới về chất, góp phần thúc đẩy nhiều quá trình
hiện đại của xã hội loài người như: cấu trúc lại các nền kinh tế, thay đổi, chuyển hướng
các kết cấu hạ tầng của sản xuất, tăng cường xu thế toàn cầu hóa trên nhiều lĩnh vực quan
trọng của các quốc gia, ảnh hưởng to lớn đến các thiết chế xã hội, đến văn hóa, lối sống
các dân tộc...
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa
nền kinh tế và đời sống kinh tế thế giới. Các quốc gia lần lượt bị cuốn hút vào quá trình
phân công lao động, hợp tác hóa quốc tế và thị trường thế giới...
Tình hình trên vừa tạo ra những thời cơ hiếm có đồng thời cũng đặt ra những thách
thức gay go cho mọi quốc gia, đặc biệt là các nước chậm phát triển. Bên cạnh đó, đầu
thập niên 80 của thế kỷ XX, thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu và việc giải
quyết những vấn đề đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực chung của toàn nhân loại, ở các quốc gia
với những chế độ chính trị khác nhau. Đó là vấn đề bảo vệ hòa bình, chống chiến tranh
hạt nhân hủy diệt, đó là vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên môi trường, phòng chống
bệnh hiểm nghèo, vấn đề bùng nổ dân số, sự nghèo đói...Trước tình hình đó, mỗi quốc
4
gia, dân tộc trong việc lựa chọn con đường phát triển của mình không thể không quan
tâm đến những vấn đề chung, vì "giải quyết những vấn đề đó chính là điểm hội tụ, nơi
gặp gỡ của các dân tộc vì số phận và tương lai của chính mình cũng như của toàn nhân
loại"
Chính vì vậy, những vấn đề chung của nhân loại trở thành yêu cầu khách quan tác
động đến sự phát triển và đổi mới của chủ nghĩa xã hội trong đó có Việt Nam. Và chỉ có
như vậy, chủ nghĩa xã hội hiện thực mới chứng minh bản chất ưu việt của mình, chứng
minh chủ nghĩa xã hội tất yếu là con đường đi tới của các dân tộc.
Trong thời gian thực hiện hai kế hoạch Nhà nước 5 năm ( 1976 – 1985 ) , cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đạt được những thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội , song cũng gặp không ít khó khăn . Đất nước lâm vào tình trạng khủng
hoảng , trước hết là khủng hoảng kinh tế xã hội . Một trong những nguyên nhân cơ bản
của tình trạng đó là do ta mắc phải “ sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương ,
chính sách lớn , sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện ” .
Để khắc phục sai lầm , khuyết điểm , đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và đẩy
mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên , Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới .
Những thay đổi của tình hình thế giới và quan hệ giữa các nước do tác động của cách
mạng khoa học – kĩ thuật trở thành xu thế thế giới ; cuộc khủng hoảng toàn diện , trầm
trọng ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta
phải tiến hành đổi mới.
II. Tiếp cận vấn đề
Đường lối đổi mới của Đảng được đề ra lần đầu tiên tại Đại hội VI (12 – 1986),
được điều chỉnh, bổ sung và phát triển tại những Đại hội sau như Đại hội VII (6 – 1991),
Đại hội VIII (6 – 1996), Đại hội IX (4 – 2001), nhìn chung trong các Đại hội đó, Đảng đã
nhận định:
Đổi mới đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội không phải là thay đổi mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội, mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả
bằng những quan điểm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức,
bước
5
đi và biện pháp thích hợp.
Đổi mới phải toàn diện và đồng bộ, từ kinh tế và chính trị đến tổ chức, tư
tưởng, văn hoá. Đổi mới kinh tế phải gắn liền với đổi mới chính trị, nhưng
trọng tâm là đổi mới kinh tế

Đảng đã xác định rõ mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và nhận thức đúng đắn những đặc trưng, quy luật của kinh tế thị trường, xử lý
đúng mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với chiến lược phát triển khoa học - công
nghệ, giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị, xây
dựng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. “Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước
hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”

*Đổi mới kinh tế:


Khơi dậy mọi tiềm năng, động viên và tạo điều kiện cho mọi người phát huy ý chí
tự lực, tự cường, cần kiệm ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước.
Xóa bỏ cơ chế quản lí kinh tế theo kiểu tập trung bao cấp, hình thành cơ chế thị
trường có sự quản lí của nhà nước. Thực hiện kế hoạch kinh tế theo phương thức hạch
toán kinh doanh.
Thực hiện chính sách mở cửa và hợp tác kinh tế quốc tế.
*Đổi mới về chính trị:
Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Nhấn mạnh quan điểm “lấy dân làm gốc”, coi dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của công cuộc đổi mới ở nước ta.
Đối mới là nội dung là phương thức hoạt động của nhà nước và các đoàn thể quần
chúng theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

6
B. NỘI DUNG ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TỪ NĂM
1986 ĐẾN NAY.
I. Thực hiện kế hoạch 5 năm 1986 – 1990
1. Đại hội VI (12 – 1986)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (họp từ ngày 15 đến ngày 18 – 12
– 1986) đã đánh giá tình hình đất nước, kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng vai trò quản lý
của Nhà nước trong thập niên đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. từ đó xác định nhiệm
vụ, mục tiêu của cách mạng trong thời kì đổi mới.
Đại hội khẳng định tiếp tục đường lối chung cách mạng Xã hội chủ nghĩa và
đường lối xây dựng kinh tế - xã hội chủ nghĩa do các Đại hội IV và V của Đảng đề ra.
Kế hoạch 5 năm 1986 - 1990 đã được xây dựng một bước, nay cần rà soát lại theo
tinh thần và nội dung các văn kiện và Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng; tập trung
xử lý những vấn đề còn vướng mắc, đặc biệt là tập trung vào 3 chương trình kinh tế lớn.
Tuy nhiên đến Đại hội VI, Đảng ta nhận thức được thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam là cả một thời kì lịch sử lâu dài, khó khăn, trải qua nhiều chặng và
hiện chúng ta đang ở chặng đầu tiên. Trước mắt, trong 5 năm (1986 – 1990) cần tập trung
sức người, sức của thực hiện Ba chương trình kinh tế về lương thực thực phẩm, hàng tiêu
dùng, hàng xuất khẩu. Muốn vậy thì nông - lâm - ngư nghiệp phải được đặt đúng vị trí
hàng đầu. Nông nghiệp được xem là mặt trận hàng đầu và được ưu tiên về vốn đầu tư, về
năng lực, vật tư, lao động kỹ thuật…
2. Kết quả bước đầu của công cuộc đổi mới.
a) Kinh tế
Về lương thực - thực phẩm: Từ chỗ thiếu ăn, năm 1988 ta phải nhập hơn 45 vạn
tấn gạo. Đến năm 1989 đó không những vươn lên đáp được nhu cầu trong nước mà cũng
có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống nhân dân. Sản xuất lương

7
thực năm 1988 đạt 19,5 triệu tấn vượt năm 1987 là 2 triệu tấn; đến năm 1989 đạt 21,4
triệu tấn.
Về hàng hóa thị trường: Nhất là hàng tiêu dùng dồi dào, đa dạng và lưu thông
tương đối thuận lợi, trong đó nguồn hàng sản xuất trong nước tăng hơn trước, có tiến bộ
về chất lượng và mẫu mã. Các cơ sở sản xuất gắn chặt với thị trường, phần bao cấp của
nhà nước giảm đáng kể.
Kinh tế đối ngoại: phát triển nhanh và mở rộng hơn trước về quy mô, hình thức,
đó góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội. Trong kế hoạch 5
năm này, nhiều mặt hàng có giá trị như gạo, dầu thô….Năm 1989, ta xuất khẩu 1,5 triệu
tấn gạo (đứng hàng thứ ba sau Thái Lan và Mỹ).Nhập khẩu của ta giảm đáng kể.
Thành tựu quan trọng khác là ta đó kiềm chế được một bước lạm phát. Cụ thể nếu
chỉ số tăng hàng tháng trên thị trường năm 1986 là 20%, năm 1987 là 10%, năm 1988 là
14%, năm 1989 là 2,5%, đến năm 1989 là 4,4%.
Thắng lợi cơ bản có ý nghĩa chiến lược lâu dài là chủ trương đổi mới của Đảng đó
thật sự phát huy quyền làm chủ kinh tế của nhõn dõn, đó khơi dậy tiềm năng và sức mạnh
sáng tạo của quần chúng để phát triển sản xuất, tạo thêm việc làm cho người lao động và
tăng thêm sản phẩm xã hội.
b) Chính trị
Bộ máy Nhà nước ở trung ương và địa phương được sắp xếp lại, theo hướng phát
huy dân chủ nội bộ và quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường quyền lực của các cơ
quan dân cử.
Chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng, bước đi của công cuộc đổi mới về
cơ bản là phù hợp.
c) Ý nghĩa:
Tóm lại , những thành tựu và ưu điểm trong bước đầu thực hiện đường lối đổi mới
(1986-1990) là rất quan trọng, chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, bước đi
của công cuộc đổi mới về cơ bản là phù hợp.
d) Khó khăn, yếu kém:

8
Nền kinh tế còn mất cân đối lớn, lạm phát vẫn ở mức cao, lao động thiếu việc làm
tăng, hiệu quả kinh tế thấp, chưa có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế.
Chế độ tiền lương bất hợp lý, đời sống của những người sống chủ yếu bằng tiền
lương hoặc trợ cấp xã hội và của một bộ phận nông dân bị giảm sút.
Sự nghiệp văn hóa có những mặt tiếp tục xuống cấp. Tình trạng tham nhũng, nhận
hối lộ, mất dân chủ, bất công xã hội và nhiều hiện tượng tiêu cực khác chưa được khắc
phục.
II. Thực hiện kế hoạch 5 năm 1991 – 1995
1. Đại hội VII (6 – 1991)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (hợp từ ngày 24 đến ngày 27 6
1990 đã tổng kết, đánh giá việc thực hiện đường lời đổi mới của Đảng từ Đại hội VI đề ra
chủ trương, nhiệm vụ nhằm kế thừa phát huy những thành tựu, ưu điểm đã đạt được: khắc
phục những khó khăn, yếu kem màu pha trong bus đầu đổi mới - điều chỉnh, bổ sung,
phát triển đường lời đồn mới để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới đất nước tiến lên
Đại hội còn quyết định mới số vấn đề về chiến lược lâu dài, đó là thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Can lược ổn
định và phát triển kinh t - vô hạn đến năm 20
Bước vào nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng, tình hình thế giới và trong nước có
những thay đổi lớn, nhất là sự thay đối ở Liên Xô và của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu, tác
động đến quá trình đổi mới của nước ta
Xuất phát từ đặc điểm tình hình, căn cứ vào mục tiêu của chúng dường cầu của
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội VII của Đảng để ra nhiệm vụ THUẬT TH
kinh tế – xã hội của kế hoạch 5 năm 1991 – 1995 là dây lùi và kiểm soát được lạm phát ;
ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất và bởi. Ổn định và tổng bước cải thiện
đời sống của nhân dân - bắt đầu có tích luỹ từ nói họ nên kinh tế. Để thực hiện mục tiêu
trên, cần phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế, mạnh Ba chương trình kinh tế
với những nơi dung cao hơn trước và từng bước xây dụng cơ cấu kinh tế mới theo yêu
cầu công nghiệp hoá.

9
2. Tiến bộ và hạn chế của sự nghiệp đổi mới

a) Tiến bộ
Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch Nhà nước 5 năm 1991 – 1995,
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhân dân ta đạt được những thành tựu và tiến bộ to
lớn
Trong 5 năm, nền kinh tế tăng trưởng nhanh, GDP tăng bình quân hằng năm là
8,2% ; công nghiệp tăng bình quân hẳng năm 13,3% ; nông nghiệp là 4,5%.
Tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc phục. Kinh
tế tăng trưởng nhanh, tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng năm là 8,2%.
Trong 5 năm, xuất khẩu đạt 17 tỉ USD ; tăng số mặt hàng có khối lượng xuất khẩu
lớn như dầu thô, gạo, cà phê, hải sản, may mặc,… ; nhập khẩu trên 21 tỉ USD. Quan hệ
mậu dịch mở rộng với trên 100 nước và tiếp cận với nhiều thị trường mới.
Kinh tế đối ngoại phát triển, thị trường xuất nhập khẩu mở rộng, nguồn vốn đầu tư
của nước ngoài tăng nhanh. Kim ngạch xuất khẩu bình quân tăng hàng năm 26,6%, năm
1995 tăng gấp hơn 3 lần năm 1990; Du lịch từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
của tỉnh,
Trong lĩnh vực tài chính tiền tệ: Nạn lạm phát ở mức cao từng bước bị đẩy lùi,
năm 1995 chỉ còn 12,7%. Tỉ lệ thiếu hụt ngân sách được kiềm chế
Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong 5 năm tăng nhanh, bình quân hàng năm
là 50%. Đến cuối năm 1995, tổng số vốn đăng kí cho các dự án đầu tư trực tiếp của nước
ngoài đạt trên 19 tỉ USD, trong đó có khoảng 1/3 đã được thực hiện.
Hoạt động khoa học - công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, thích nghi dần với cơ chế thị trường. Công tác giáo dục và đào tạo có bước phát triển
mới sau một số năm giảm sút. Số trường phổ thông trong 5 năm tăng 12,6%, số máy điện
thoại sử dụng năm 1995 cao gấp 7 lần năm 1991.
Thu nhập và đời sống của các tầng lớp nhân dân ở các vùng đều được cải thiện với
mức độ khác nhau. Mỗi năm giải quyết được việc làm cho hơn 1 triệu lao động.

10
Tình hình chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được củng cố.
Nước ta ngày càng mở rộng quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây, tham gia tích
cực vào các hoạt động của cộng đồng quốc tế. Đến năm 1995, ta đã có quan hệ ngoại giao
với hơn 160 nước. Các công ty của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào
nước ta. Tháng 7 – 1995, Việt Nam và Mĩ bình thường hoá quan hệ ngoại giao. Ngày 28
– 7 – 1995, Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Giai đoạn1991-1995 là thời kỳ mở đầu sự hợp tác, liên doanh đầu tư với nước
ngoài trên địa bàn tỉnh. Tính đến năm 1995, đã có 12 dự án đầu tư nước ngoài vào Quảng
Ninh với tổng vốn đầu tư nước ngoài là hơn 140 triệu USD... Trong ảnh: Khu công
nghiệp Cái Lân, một trong những trung tâm thu hút vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất ở
Quảng Ninh

Tổng thống Bill Clinton thông báo Hoa Kỳ quyết định bình thườa. ng hóa quan hệ
ngoại giao với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khép lại quá khứ và mở ra
tương lai cho cả hai nước. (Oa-sinh-tơn ngày 11/7/1995).

Được sự giúp đỡ của chuyên gia giáo sư Chue Shueloe và hãng Sadoz Hong Kong,
ngày 4/6/1992, tập thể giáo sư, bác sĩ của Học viện Quân y 103, Bệnh viện Việt Đức đã
thực hành thành công ca mổ ghép thận đầu tiên của Việt Nam

b) Hạn chế

Nước ta còn nghèo và kém phát triển, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao
động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất và kỹ thuật còn lạc hậu, nợ nần
nhiều. Nhà nước còn thiếu chính sách để huy động có hiệu quả nguồn vốn trong dân
Tình trạng tham nhũng, lãng phí, buôn lậu, làm ăn phi pháp chưa được ngăn chặn.
Những hiện tượng tiêu cực nghiêm trọng kéo dài trong bộ máy Nhà nước. Đảng và toàn
thể, trong các doanh nghiệp nhà nước, nhất là trên lĩnh vực nhà đất, xây dựng cơ bản, hợp
tác đầu tư, thuế, xuất nhập khẩu và cả trong hoạt động của nhiều cơ quan thi hành pháp
luật… nghiêm trọng và kéo dài

11
Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị, nông thôn và giữa các tầng
lớp dân cư tăng nhanh ; đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở những vùng sâu,
vùng xa, còn nhiều khó khăn.

III. Thực hiện kế hoạch 5 năm 1996 – 2000


1. Đại hội VIII (6 – 1996) đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng thập từ ngày 25 – 6 đến nay 1 –
7 – 1996, đã kiểm điểm, đánh giá việc thức biến Nghị quyết Đại hội VI tổng kết 10 năm
đất nước thực hiện đường lại đy mới, đề ra chủ trương, nhiệm vụ trong nhiệm kì mới.

Xuất phát từ đặc điểm tình hình thay đổi, tử nhận định nước ta đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội và căn cứ vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội khẳng định tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh “nước ta đã chuyển sang thời kì
phát triển mới, thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.”

Đại hội của Đảng đề ra nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1996 – 2000 Đẩy
mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ tiếp tục phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần... Phần đấu đạt và vượt mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh,
hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội. Cải thiện
đời sống nhân dân. Nâng cao tích luỹ từ hệ bộ nền kinh tế.

2. Chuyển biến tiến bộ và khó khăn, hạn chế của công cuộc đổi mới

a) Chuyển biến tiến bộ

Trong 5 năm, GDP tăng bình quân hằng năm là 7% ; công nghiệp là 13,5% ; nông
nghiệp là 5,7%. Lương thực bình quân đầu người tăng từ 360 kg (1995) lên 444 kg
(2000). Nông nghiệp phát triển liên tục, góp phần quan trọng vào mức tăng trưởng chung
và giữ vững ổn định kinh tế - xã hội.

12
Cơ cấu các ngành kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Hình thành nền kinh tế nhiều thành phần (Khu vực kinh tế nhà nước chiếm
vị trí quan trọng trong nền kinh tế, đảm nhận các khâu then chốt và các lĩnh vực trọng
yếu; Kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển nhanh trong nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và thương mại, dịch vụ, đã góp phần quan trọng vào cá thành tựu kinh tế - xã hội;
Kinh tế tư bản tư nhân trong các nước bước đầu phát triển, tập trung phần lớn vào lĩnh
vực thương mại, dịch vụ và kinh doanh bất động sản; đầu tư vào sản xuất còn ít. Các
doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu, có một số doanh nghiệp quy mô tương
đối lớn, sử dụng nhiều lao động; Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức liên
doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và với tư bản nước ngoài
đang phát triển.

Hoạt động xuất, nhập khẩu không ngừng tăng lên - xuất khẩu đạt 51,6 tỉ USD.
tăng bình quân hàng năm 21% với ba mặt hàng chủ lực là gạo (đứng thứ hai thứ giới), cả
phê (đứng thứ ba) và thuỷ sản : nhập khẩu khoảng 61 tỉ USD, tăng bình quân hàng năm
13,3%. Tổng số vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt khoảng 10 tỉ USD, gấp 15 lần so
với 5 năm trước

Các doanh nghiệp Việt Nam từng bước mở rộng đầu tư ra nước ngoài. Đến năm
2000), đã có trên 40 dự án đầu tư vào 12 nước và vùng lãnh thổ.

Trung 5 năm, có khoảng 6,1 triệu người có việc làm, bình quân mỗi năm thu hút
1,2 triệu người.

Đến năm 2000, nước ta có quan hệ thương mại với hơn 140 nước, quan hệ đầu tư
với gần 70 nước và vùng lãnh thổ, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài.

Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển. : Nhà nước đã mở rộng quyền xuất, nhập
khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, ban hành một số chính sách
khuyến khích xuất khẩu...

Khoa học và công nghệ có bước chuyển biến tích cực. Về khoa học tự nhiên và
công nghệ, đã chú trọng hơn việc nghiên cứu ứng dụng, tập trung vào những lĩnh vực
13
công nghệ ưu tiên như vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin... Việc ứng
dụng các kết quả nghiên cứu và chuyển giao công nghệ tiến bộ vào sản xuất, kinh doanh
được đẩy mạnh hơn trước.

Giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô, chất lượng, hình thức
đào tạo và cơ sở vật chất. ( Công tác giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới, sau một
số năm giảm sút. Tỉ lệ người biết chữ trong dân đã nâng lên đạt mức 90%; tỉ lệ trẻ em đi
học trong độ tuổi phổ cập tiểu học và số học sinh phổ thông các cấp học đều tăng; tỉ lệ
lưu ban; bỏ học giảm; Mạng lưới trường phổ thông mở rộng đều khắp các xã, phường; cơ
sở vật chất được cải thiện; Các tỉnh và nhiều huyện miền núi có trường nội trú cho con
em người dân tộc; Hệ thống giáo dục đại học, trung học chuyên nghiệp mở rộng hơn
trước cả về quy mô, ngành nghề và loại hình đào tạo. Các trường đại học và cao đẳng
được sắp xếp lại.). Đến hết năm 2000, có 100% tỉnh, thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập
giáo dục Tiểu học và xoá mù chữ ; một số tỉnh, thành phố bắt đầu thực hiện chương trình
phổ cập giáo dục Trung học cơ sở.

b) Những khó khăn và hạn chế

Kinh tế phát triển chưa vững chắc, năng suất, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành
cao. Hiệu quả sức cạnh tranh thấp. ( Lực lượng sản xuất còn nhỏ bé, cơ sở vật chất, nhất
là kết cấu hạ tầng còn lạc hậu; trình độ khoa học và công nghệ chuyển biến chậm; nguồn
nhân lực có kiến thức, tay nghề, năng lực kinh doanh còn ít, lại chưa được sử dụng tốt;
năng suất lao động xã hội tăng chậm.)

Kinh tế Nhà nước chưa tương xứng với vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể chưa mạnh.
Các thành phần kinh tế khác chưa được phát huy mạnh mẽ các tiềm năng, vừa chưa bảo
đảm hoạt động có trật tự, kỷ cương theo pháp luật.

Hoạt động khoa học công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới.

Tỉ lệ thất nghiệp cao, đời sống nhân dân, nhất là nông dân, ở một số vùng còn
thấp. Sự phân hoá giàu nghèo diễn ra không bình thường. Chỉ số giá tiêu dùng trên
10%/năm càng gây thêm khó khăn cho những người có thu nhập thấp. Tình trạng tham
14
nhũng, buôn lậu, làm ăn phi pháp chưa ngăn chặn được, có chỗ nghiêm trọng hơn. Kỷ
cương, kỷ luật và trật tự xã hội còn nhiều chỗ chưa tốt.

C. NỘI DUNG ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TỪ NĂM


2000 ĐẾN NAY
I. Kinh tế

Kinh tế nước ta đã có sự thay đổi về chính sách quản lý kinh tế, đường lối đổi mới
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng
xã hội chủ nghĩa từ những năm đầu đổi mới. Đến năm 2000, nước ta vẫn tiếp tục phát
triển theo đường lối này.

Trong thời kỳ này, nước ta thực hiện hai chiến lược chính là: chiến lược từ 2001 –
2010 và từ 2011 – 2020 nhằm xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh” theo phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác
tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp công việc nội bộ,
cùng phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp tại HN từ ngày 19 –
22/4/2001 là Đại hội IX mở đầu thế kỷ XXI, cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế
tri thức, toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. Dự đại hội có 1168 đại biểu, thay mặt có hơn 2,2
triệu dảng viên. Đại hội đã thông qua các văn kiện chính trị quan trọng trong đó có chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 xác định rõ những nội dung cơ bản của tư
tưởng HCM. Đại hội xác định mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2001 - 2010 là đưa nước ta “ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời
sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực

15
khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng
cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ
bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”. Mục tiêu cụ thể của Chiến
lược là đưa GDP năm 2010 tăng ít nhất gấp đôi năm 2000; nâng lên đáng kể chỉ số phát
triển con người của nước ta; năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả năng
ứng dụng các công nghệ hiện đại, tiếp cận trình độ thế giới và tự phát triển trên một số
lĩnh vực; kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh
và có bước đi trước; vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được tăng cường, chi phối các
lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
được hình thành về cơ bản và vận hành thông suốt, có hiệu quả; chuyển dịch mạnh cơ cấu
kinh tế và cơ cấu lao động, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống còn 50%. Để thực
hiện thắng lợi mục tiêu trên, trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, một bước rất quan trọng
của Chiến lược, phải ra sức “tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện
đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở
rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xóa đói, giảm số hộ nghèo;
đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành
một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững
ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ và an ninh quốc gia”.

1. Kế hoạch 5 năm đầu 2001 – 2005

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày
19/4/2001 đến ngày 22/4/2001 đã thảo luận và nhất trí thông qua các văn kiện quan trọng,
trong đó có Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2001-
2005 với mục tiêu tổng quát là:

 Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.

16
 Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
 Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối
ngoại.
 Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy
nhân tố con người.
 Tạo nhiều việc làm; cơ bản xoá đói; giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
 Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành một bước quan
trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
 Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.

Thuận lợi cơ bản là sau 15 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, thế và lực của nước
ta cũng như kinh nghiệm tổ chức, quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa đều đã tăng lên đáng kể . Những thuận lợi này tạo nên sức mạnh tổng
hợp về vật chất và tinh thần để tiếp tục sự nghiệp đổi mới nói chung và triển khai kế
hoạch phát triển kinh tế – xã hội 2001-2005 nói riêng. Tuy nhiên, khó khăn cũng không
phải là ít. Trong khi nền kinh tế còn nhiều mặt yếu kém, thì giá cả của nhiều loại vật tư
nguyên vật liệu đầu vào quan trọng như xăng dầu, sắt thép, phân bón, chất dẻo liên tục
tăng; thiên tai (hạn hán, bão lũ) và dịch bệnh (dịch SARS, dịch cúm gia cầm) lại xảy ra
trên diện rộng. Thêm vào đó, môi trường kinh tế thế giới và khu vực diễn biến hết sức
phức tạp do tác động tiêu cực của thảm hoạ môi trường; mâu thuẫn tôn giáo, sắc tộc và
khủng bố quốc tế.

Những thuận lợi cùng với khó khăn nêu trên đã làm cho tình hình kinh tế – xã hội
5 năm 2001-2005 của nước ta vừa diễn biến theo chiều hướng tích cực với nhiều thành
tựu mới, vừa bộc lộ rõ những mặt hạn chế và bất cập. Tuy vậy, kinh tế tăng trưởng với
tốc độ tương đối cao, vượt qua thời kỳ suy giảm về tốc độ tăng trưởng; cơ cấu kinh tế tiếp
tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

17
Tốc độ tăng tổng sản phẩm, giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 30%
với tốc độ tăng bình quân mỗi năm 5,42%, trong đó nông nghiệp tăng 4,11%/năm, lâm
nghiệp tăng 1,37%/năm, thuỷ sản tăng 12,12%/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp gấp 2,1
lần, bình quân mỗi năm tăng 16,02%, trong đó công nghiệp Nhà nước gấp 1,73 lần, bình
quân mỗi năm tăng 11,53%; công nghiệp ngoài Nhà nước gấp 2,69 lần, bình quân mỗi
năm tăng 21,91%; công nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài gấp 2,17 lần, bình
quân mỗi năm tăng 16,8%. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
theo giá thực tế gấp 1,96 lần; tổng mức lưu chuyển hàng hoá ngoại thương gấp 2,3 lần,
bình quân mỗi năm tăng 18,18%, trong đó xuất khẩu gấp 2,24 lần, bình quân mỗi năm
tăng 17,5% nhập khẩu gấp gần 2,36 lần, bình quân mỗi năm tăng 18,58%.

Theo cơ cấu kinh tế, tỷ trọng giá trị tăng thêm theo giá thực tế chiếm trong tổng
sản phẩm trong nước của khu vực công nghiệp và xây dựng đã tăng từ 36,73% (năm
2000) lên 41,04% (ước tính năm 2005). Khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tuy đạt tốc
độ tăng bình quân hàng năm 5,42% về giá trị sản xuất và 3,83% về giá trị tăng thêm,
nhưng tỷ trọng trong tổng sản phẩm trong nước đã giảm từ 24,53% (năm 2000) xuống
20,89% (ước tính năm 2005). Khu vực dịch vụ vẫn duy trì được tỷ trọng chiếm trên dưới
38% tổng sản phẩm trong nước.

Theo thành phần kinh tế, tỷ trọng kinh tế Nhà nước có biến động so với tổng sản
phẩm cả nước nhưng không đáng kể. Tỷ trọng kinh tế ngoài Nhà nước có biến động
nhưng có xu hướng giảm. Trong đó, tỷ trọng kinh tế tập thể giảm 1,23% trong 5 năm
(2001 – 2005), tỷ trọng kinh tế tư nhân tăng 0,97% trong 5 năm (2001 – 2005), kinh tế cá
thể có tỷ trong chiếm cao nhất trong kinh tế ngoài Nhà nước nhưng có xu hướng giảm
1,99% (2001 – 2005). Tỷ lệ vốn đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước đã tăng từ
35,42% năm 2001 lên 38,67% (ước tính năm 2005). Tỷ lệ đầu tư của nước ta hiện nay chỉ
thấp hơn Trung Quốc, còn cao hơn hầu hết các nước trong khu vực (Tỷ lệ đầu tư so với
tổng sản phẩm trong nước năm 2004 của Trung Quốc là 45,7%; Hàn Quốc 29,3%; Thái
Lan 37,8%; Ma-lai-xi-a 22,5%; Phi-li-pin 19,6%; In-đô-nê-xi-a 19,5%; Xin-ga-po
15,3%.)

18
2. Kế hoạch 5 năm 2005 – 2010

Báo cáo nghiên cứu, đánh giá cuối kỳ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về “Tình hình
thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nước ta giai đoạn 2006 – 2010” đã nêu:
Những kết quả đạt được trên lĩnh vực kinh tế đã đưa nước ta tiến mạnh thêm một bước
trên chặng đường đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính trị xã hội ổn
định; kinh tế duy trì mức tăng trưởng khá; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
gắn với hội nhập kinh tế quốc tế bước đầu hình thành và được vận hành thông suốt... Tuy
nhiên, nhìn một cách tổng thể, sự tăng trưởng đó vẫn chưa đạt được mục tiêu kế hoạch đề
ra cả về chiều rộng lẫn chiều sâu,... cần có giải pháp mới để tiếp tục tăng trưởng ổn định
và cao hơn trong thời gian tới.

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2006 đạt 8,23%, năm 2007 đạt
8,46%, năm 2008 đạt 6,31%, năm 2009 đạt 5,32% và năm 2010 ước tính đạt 6,78%. Bình
quân thời kỳ 2006-2010, tăng trưởng kinh tế đạt 7,01%/năm, trong đó bình quân giai
đoạn 2006-2007 đạt 8,34%; bình quân giai đoạn 2008-2010 đạt 6,14% do ảnh hưởng của
lạm phát tăng cao và suy thoái kinh tế thế giới.

Khu vực kinh tế: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,34%/năm thời kỳ
2006-2010, trong đó giai đoạn 2006-2007 tăng 3,72%; giai đoạn 2008-2010 tăng 3,09%.
Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,94%/năm thời kỳ 2006-2010, trong đó giai
đoạn 2006-2007 tăng 10,30%; giai đoạn 2008-2010 tăng 6,40%. Khu vực dịch vụ tăng
7,73%/năm thời kỳ 2006-2010, trong đó giai đoạn 2006-2007 tăng 8,57%; giai đoạn
2008-2010 tăng 7,17%.

Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất: Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh
1994 năm 2010 tăng 63,2% so với năm 2006. Bình quân trong thời kỳ 2006-2010, giá trị

19
sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 tăng 13,8%/năm. iá trị sản xuất nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản tăng bình quân 5%/năm thời kỳ 2006-2010, trong đó nông nghiệp
tăng 4,2%; lâm nghiệp tăng 3,1%; thuỷ sản tăng 8%

Xuất nhập khẩu hàng hóa: Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thời kỳ 2006 – 2010 đạt
56 tỷ USD/năm, bằng 2,5 lần thời kỳ 2001 – 2005 và tăng 17,2%/năm. Kim ngạch xuất
khẩu các mặt hàng ngày càng tăng, từ 4 mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỷ USD năm 2006
tăng lên 8 mặt hàng năm 2010. Hàng dệt may đứng đầu với bình quân 8,6 tỷ USD/năm,
tăng mạnh so với 3,5 tỷ USD của giai đoạn trước. Giày dép đạt 4,3 tỷ USD/năm, tăng so
với 2,3 tỷ USD/năm của thời kỳ trước. Hải sản đạt 4,2 tỷ USD/năm, giai đoạn trước là 2,2
tỷ USD/năm. Kim ngạch gạo xuất khẩu tăng mạnh với mức tăng 17,9%/năm. Riêng dầu
thô xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010 giảm đáng kể do tăng tăng nguồn nguyên liệu cung
cấp cho Nhà máy lọc dầu Dung Quất, thay thế dần hàng nhập khẩu. Kim ngạch xuất khẩu
dầu thô giai đoạn này chiếm 13,7% tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm nhiều so với 21%
của thời kỳ trước. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tăng mạnh trong thời kỳ 2006-2010,
đặc biệt trong 2 năm đầu khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Kim ngạch hàng
hóa nhập khẩu đạt bình quân 68,5 tỷ USD/năm trong thời kỳ này, bằng 2,6 lần thời kỳ 5
năm trước và tăng bình quân 18%/năm. Đáng chú ý là nhập khẩu của khu vực FDI tăng
cao, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu, thường chiếm trên
34%.

Cơ cấu hàng nhập khẩu trọng tâm là tư liệu, nguyên liệu cho sản xuất do sản xuất
trong nước phát triển khá, đặc biệt là sản xuất hàng xuất khẩu nhưng vẫn phụ thuộc hàng
nhập khẩu là chủ yếu, cụ thể là: Nhập khẩu xăng dầu bình quân giai đoạn 2006-2010 tăng
2,7%/năm và tăng 19,7% so với giai đoạn trước. Sắt thép nhập khẩu bình quân tăng
15,7%/năm và tăng 71% so với giai đoạn trước. Vải nhập khẩu bình quân tăng
16,8%/năm và tăng 140% so với giai đoạn trước. Linh kiện điện tử nhập khẩu bình quân
tăng 25,8% năm và tăng 226,3% so với giai đoạn trước. Nhập khẩu ô tô nguyên chiếc giai
đoạn 2006-2010 tăng 174% so với giai đoạn trước.

3. Kinh tế Việt Nam từ năm 2011 – 2020

20
Nhìn lại 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-
2020 cho thấy, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng với sự nỗ lực lớn và
quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả
quan trọng trên nhiều lĩnh vực, góp phần củng cố niềm tin và tạo không khí phấn khởi
trong toàn xã hội. Theo Báo cáo của Tổng cục Thống kê tháng 1/2021:

Ngành nông nghiệp tăng 2,55%; ngành lâm nghiệp tăng 2,82% và ngành thủy sản
tăng 3,08% (tốc độ tăng tương ứng của các ngành trong năm 2019 là 0,61%; 4,98% và
6,30%). Đặc biệt, kết quả xuất khẩu nông sản tăng mạnh trong bối cảnh khó khăn do dịch
Covid-19, kim ngạch xuất khẩu gạo lần đầu tiên đạt hơn 3 tỷ USD, tăng 9,3% so với năm
2019; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 12.323,3 tỷ USD, tăng 15,7%. Trái ngược với ngành lâm
sản, bức tranh xuất khẩu thủy sản lại ảm đạm hơn khi kim ngạch xuất khẩu năm 2020 chỉ
đạt 8,4 tỷ USD, giảm 1,8% so với năm trước. sản lượng một số cây lâu năm, sản phẩm
chăn nuôi chủ yếu và sản lượng tôm năm 2020 tăng khá đã đưa tốc độ tăng của khu vực
này đạt 2,68%, cao hơn năm 2019 (2,01%).

Khu vực công nghiệp và xây dựng đạt tốc độ tăng cao nhất với 3,98%, đóng góp
1,62 điểm phần trăm vào mức tăng chung. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục
đóng vai trò chủ chốt dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng 5,82%, đóng góp
1,25 điểm phần trăm. Chỉ số sản xuất công nghiệp của một số ngành như sản xuất thuốc,
hóa dược và dược liệu; sản xuất kim loại; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế;
sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học… tăng khá với tốc độ
tăng tương ứng là 27,1%; 14,4%; 11,4% và 11,3%, góp phần đưa ngành chế biến, chế tạo
tăng trưởng khả quan trong bối cảnh dịch Covid-19 làm đứt gãy chuỗi cung ứng nguyên
liệu sản xuất đầu vào.

Đối với khu vực dịch vụ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng giảm 1,2% trong 6 tháng đầu năm 2020 so với cùng kỳ năm trước, nhưng sau đó đã
phục hồi rõ rệt với tốc độ tăng 6 tháng cuối năm đạt 6,2%, đưa lĩnh vực thương mại trong
nước cả năm tăng 2,6%. Tốc độ tăng trưởng của một số ngành dịch vụ thị trường như
sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 5,53% so với năm trước, đóng góp 0,61 điểm phần trăm;

21
hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,87%, đóng góp 0,46 điểm phần trăm;
ngành vận tải, kho bãi giảm 1,88%, làm giảm 0,06 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú
và ăn uống giảm 14,68%, làm giảm 0,62 điểm phần trăm.

Xuất khẩu vượt khó trong tình hình dịch bệnh, duy trì tăng trưởng dương; xuất
siêu hàng hóa đạt mức cao kỷ lục (19,1 tỷ USD) và cán cân thương mại duy trì xuất siêu
5 năm liên tiếp (Kim ngạch xuất siêu hàng hóa các năm trong giai đoạn 2016-2020 lần
lượt là: 1,6 tỷ USD; 1,9 tỷ USD; 6,5 tỷ USD; 10,9 tỷ USD; 19,1 tỷ USD). Việc ký kết các
Hiệp định thương mại tự do đã mang lại những tín hiệu tích cực cho nền kinh tế Việt
Nam, đặc biệt là Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA). Năm
2020, xuất khẩu sang EU đạt 34,8 tỷ USD; đáng chú ý, sau 5 tháng được thực thi (từ
01/8/2020), tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt 15,4 tỷ USD, tăng
1,6% so với cùng kỳ năm trước.

Bên cạnh kết quả tăng trưởng đạt được trong năm 2020, nền kinh tế Việt Nam vẫn
còn tồn tại nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Với độ mở lớn, hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng nên mọi biến động của kinh tế thế giới đều tác động đến các lĩnh vực kinh tế –
xã hội nước ta. Dịch Covid-19 tuy được khống chế ở Việt Nam nhưng còn diễn biến phức
tạp trên thế giới, các hoạt động sản xuất, cung ứng và lưu chuyển thương mại, hàng
không, du lịch, lao động và việc làm bị đình trệ, gián đoạn. Bên cạnh đó, xuất khẩu tăng
trưởng nhưng chưa đảm bảo tính bền vững, năng suất lao động vẫn ở mức thấp… Do
vậy, nước ta cần tập trung thực hiện mục tiêu kép “vừa phòng chống dịch bệnh hiệu quả,
vừa tận dụng tốt các cơ hội, nỗ lực phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội trong trạng thái
bình thường mới”; đồng thời khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế để đưa nền kinh tế đạt
mức tăng trưởng cao nhất trong năm 2021.

4. Kinh tế Việt Nam từ năm 2021 đến nay

Đại dịch COVID-19 kéo dài đã đẩy kinh tế thế giới rơi vào trạng thái khủng hoảng
trầm trọng nhất kể từ năm 1930, kéo tăng trưởng xuống mức âm 3,1% năm 2020 do gián
đoạn chuỗi cung ứng, các biện pháp phòng vệ trước dịch bệnh và ảnh hưởng của nó đến

22
các hoạt động kinh tế trên quy mô toàn cầu. Đứng trước bối cảnh đó, các quốc gia đã có
những nỗ lực để phục hồi nền kinh tế và bảo đảm sức khỏe, an sinh xã hội đối với người
dân. Hiệu quả của các nỗ lực này được thể hiện khi năm 2021 kinh tế thế giới được dự
báo tăng trưởng trở lại. Tuy nhiên, giữa các khu vực trên thế giới sự phục hồi không đồng
đều.

Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh,
tăng trưởng kinh tế năm 2021 chỉ ở mức 2,58%, thấp nhất trong vòng 30 năm qua. Do đó,
để trở lại quỹ đạo tăng trưởng, Việt Nam cần thực hiện Chương trình phục hồi kinh tế
bền vững vừa đủ liều lượng, vừa trúng mục tiêu và với thể chế thực thi hiệu quả.

Ước tính GDP năm 2021 tăng 2,58% (quý I tăng 4,72%; quý II tăng 6,73%; quý
III giảm 6,02%; quý IV tăng 5,22%) so với năm trước do dịch Covid-19 ảnh hưởng
nghiêm trọng tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là trong quý III/2021 nhiều địa
phương kinh tế trọng điểm phải thực hiện giãn cách xã hội kéo dài để phòng chống dịch
bệnh. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
tăng 2,9%, đóng góp 13,97% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế;
khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,05%, đóng góp 63,80%; khu vực dịch vụ tăng
1,22%, đóng góp 22,23%.

Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, năng suất của phần lớn cây trồng đạt
khá so với năm trước, chăn nuôi tăng trưởng ổn định, kim ngạch xuất khẩu một số nông
sản năm 2021 tăng cao góp phần duy trì nhịp tăng trưởng của cả khu vực. Ngành nông
nghiệp tăng 3,18%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm
của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 3,88%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm;
ngành thủy sản tăng 1,73%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp
tục là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6,37%, đóng góp 1,61
điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành sản
xuất và phân phối điện tăng 5,24%, đóng góp 0,19 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng

23
giảm 6,21%, làm giảm 0,23 điểm phần trăm do sản lượng dầu mỏ thô khai thác giảm
5,7% và khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 19,4%. Ngành xây dựng tăng 0,63%, đóng
góp 0,05 điểm phần trăm.

Về cơ cấu nền kinh tế năm 2021, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ
trọng 12,36%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,86%; khu vực dịch vụ chiếm
40,95%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,83%.

Về sử dụng GDP năm 2021, tiêu dùng cuối cùng tăng 2,09% so với năm 2020; tích
lũy tài sản tăng 3,96%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 14,01%; nhập khẩu hàng hóa
và dịch vụ tăng 16,16%.

Trong tháng 12/2021, hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa tiếp tục là điểm sáng
của nền kinh tế với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt 66,5 tỷ USD,
tăng 6,4% so với tháng trước và tăng 19,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm
2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với
năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 19%; nhập khẩu tăng 26,5%

Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu năm 2021, nhóm hàng công nghiệp chế biến
chiếm 89,2%, tăng 0,6 điểm phần trăm so với năm trước; nhóm hàng nông sản, lâm sản
chiếm 7,1%, giảm 0,2 điểm phần trăm; nhóm hàng thủy sản chiếm 2,6%, giảm 0,4 điểm
phần trăm; nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản chiếm 1,1%, bằng năm trước.

Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu năm 2021, nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm
93,5%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với năm trước. Nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng chiếm
6,5%, giảm 0,2 điểm phần trăm.

Nhìn chung, với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước về kinh tế kết hợp với
sự chỉ đạo của các cơ quan ban ngành có thẩm quyền và sự đoàn kết, đồng lòng của nhân
dân, Việt Nam với xuất phát điểm từ một trong những quốc gia nghèo nhất trở thành một
đất nước đang phát triển và có thu nhập trung bình thấp. Hiện nay, Việt Nam là một trong
những quốc gia năng động nhất Đông Á Thái Bình Dương. Đặc biệt, năm 2019 – 2020,
trước tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn ra rất phức tạp, nước ta vẫn chống chịu vượt
24
qua mọi khủng hoảng, khó khăn để phát triển kinh tế, đảm bảo đời sống cho nhân dân
khiến các nước bạn phải nể phục. Trong tương lai, Việt Nam đã đặt ra những tầm nhìn
phát triển tham vọng hơn, hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm
2045. Để làm được điều này, nền kinh tế cần tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm
khoảng 5% trên đầu người trong 25 năm tới. Ngòai ra, Việt Nam cũng hướng tới mục tiêu
phát triển theo hướng xanh, bền vững hơn.

II. Xã hội

Bên cạnh bước phát triển về kinh tế, nước ta còn có những chính sách đổi mới về xã hội
để đảm bảo được đời sống nhân dân ấm no, xã hội phát triển

1. Dân số

Chính phủ đã ban hành và thực hiện 4 Chiến lược Dân số thích ứng với từng giai
đoạn 10 năm. Đó là “Chiến lược dân số và kế hoạch hoá gia đình đến năm 2000”; Chiến
lược Dân số Việt Nam, giai đoạn 2001-2010; Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản
Việt Nam, giai đoạn 2011-2020 và gần đây là “Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm
2030”.

Nhờ đó, nước ta tiếp tục giảm tốc độ tăng dân số, sớm ổn định quy mô dân số ở
mức hợp lý (khoảng 88 - 89 triệu người vào năm 2010); giải quyết đồng bộ, từng bước và
có trọng điểm chất lượng dân số, cơ cấu dân số và phân bố dân cư.

2. Việc làm

Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và
phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu
bức xúc của nhân dân. Một số chính sách cơ bản mà Nhà nước đã ban hành như : Luật
Thanh niên số 53/2005/QH11. Tại Điều 10 - Quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong lao
động ; Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/ 2015 của Chính phủ quy định về chính
sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm ; Đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên

25
khởi nghiệp đến năm 2025” ; Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 ;
Đề án Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động

3. Xoá đói giảm nghèo

Bằng nguồn lực của Nhà nước và của toàn xã hội, tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng, cho vay vốn, trợ giúp đào tạo nghề, cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ,
giúp đỡ tiêu thụ sản phẩm... đối với những vùng nghèo, xã nghèo và nhóm dân cư nghèo.
Chủ động di dời một bộ phận nhân dân không có đất canh tác và điều kiện sản xuất đến
lập nghiệp ở những vùng còn tiềm năng. Nhà nước tạo môi trường thuận lợi, khuyến
khích mọi người dân vươn lên làm giàu chính đáng và giúp đỡ người nghèo. Thực hiện
trợ cấp xã hội đối với những người có hoàn cảnh đặc biệt không thể tự lao động, không
có người bảo trợ, nuôi dưỡng. Phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản không còn hộ nghèo.
Thường xuyên củng cố thành quả xóa đói, giảm nghèo.

Tuy nhiên, chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm giàu và nhóm nghèo có xu
hướng gia tăng: Trong những năm gần đây, chênh lệch về thu nhập giữa 20% nhóm giàu
và 20% nhóm nghèo từ 4,3 lần năm 1993 lên 8,14 lần năm 2002; chênh lệch giữa 10%
nhóm giàu nhất và 10% nhóm nghèo nhất từ 12,5 lần năm 2002, tăng lên 13,5 lần năm
2004; Mức độ nghèo còn khá cao, thu nhập bình quân của nhóm hộ nghèo ở nông thôn
chỉ đạt 70% mức chuẩn nghèo mới. Sự gia tăng khoảng cách giàu - nghèo sẽ làm cho tình
trạng nghèo tương đối trở nên gay gắt hơn, việc thực hiện các giải pháp để giảm nghèo sẽ
càng khó khăn hơn.

Công tác an sinh xã hội định kỳ và công tác giảm nghèo bền vững tiếp tục được
quan tâm, chỉ đạo và triển khai thực hiện ngay cả trong điều kiện dịch bệnh, các địa
phương đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, chăm lo cho hộ nghèo. Trong năm 2021,
tổng trị giá tiền và quà hỗ trợ cho các đối tượng là 9,7 nghìn tỷ đồng, trong đó, hỗ trợ cho
các đối tượng người có công, thân nhân người có công là 4,4 nghìn tỷ đồng, hỗ trợ cho hộ
nghèo, hộ cận nghèo là 2,8 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ cứu đói các đối tượng bảo trợ xã hội và

26
đối tượng khác là 2,5 tỷ đồng. Có gần 29,1 triệu thẻ bảo hiểm xã hội/sổ/thẻ khám chữa
bệnh miễn phí được phát, tặng cho các đối tượng thụ hưởng.

Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống bảo hiểm và an sinh xã hội. Tiến tới áp
dụng chế độ bảo hiểm cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân. Kết hợp sự trợ
giúp của Nhà nước với việc phát triển các quỹ từ thiện, quỹ xã hội, quỹ đền ơn đáp nghĩa,
nhằm giúp đỡ có hiệu quả người được hưởng chính sách xã hội, nạn nhân chiến tranh,
thiên tai, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, những người tàn tật và người già không
nơi nương tựa. Bảo đảm người có công với nước có mức sống bằng hoặc cao hơn mức
trung bình của dân cư cùng xã, phường.

Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam liên tục được cải thiện, thuộc
nhóm các nước có mức phát triển con người trung bình cao của thế giới.

Theo bà Caitlin Wiesen - Trưởng đại diện thường trú Chương trình Phát triển của
Liên hợp quốc (UNDP) ở Việt Nam, Việt Nam có tỷ lệ tăng HDI nhanh nhất trên thế giới
với tăng trưởng trung bình HDI ở mức 1,36% trong suốt giai đoạn 1990-2018. Trong giai
đoạn này, tuổi thọ bình quân khi sinh của Việt Nam đã tăng lên 4,8 năm; số năm đi học
bình quân tăng 4,3 năm. Tổng thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên 354%... đưa Việt
Nam dịch chuyển từ quốc gia có HDI thấp vào năm 1990 lên suýt soát trở thành quốc gia
có HDI cao vào năm 2018.

Với chỉ số HDI hiện là 0,63, Việt Nam hiện xếp thứ 118/189 quốc gia và vùng
lãnh thổ về chỉ số này và chỉ cần thêm 0,007 điểm để vào được nhóm các nước có HDI ở
mức cao. Điều đáng chú ý là Việt Nam đạt được tiến triển về HDI nhưng không phải
đánh đổi nhiều về bất bình đẳng. Báo cáo của UNDP cũng nhấn mạnh Việt Nam có kết
quả tốt về khía cạnh bình đẳng giới. Chỉ số phát triển giới ở mức 1,003 đã đưa Việt Nam
vào nhóm dẫn đầu trong số 5 nhóm gồm 166 nước trên toàn thế giới, xếp thứ 68/162
nước về chỉ số phát triển giới. Đặc biệt, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội của Việt Nam lên tới
26,7% đã giúp Việt Nam nằm trong nhóm 1/3 các nước đứng đầu thế giới về tỷ lệ này.

27
Nhìn chung, chất lượng cuộc sống của người dân đã được cải thiện đáng kể do
những chính sách, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước kết hợp với các cơ quan ban
ngành để thực thi nhiệm vụ và sự phát triển kinh tế của đất nước giúp xã hội ngày một tốt
đẹp, lành mạnh hơn. Tuy nhiên vẫn còn nhiều điểm hạn chế như tỉ lệ hộ nghèo vẫn còn
cao, chênh lệch chất lượng cuộc sống ở đồng bằng và miền núi,… Trong tương lai, Việt
Nam sẽ vẫn còn những chính sách phát triển mới để xây dựng một xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.

III. Đối ngoại

1. Nội dung đổi mới nằm trong các kì Đại hội Đại biểu toàn quốc về công tác đối
ngoại của Việt Nam từ năm 2000 đến nay (các kì Đại hội Đại biểu toàn quốc
IX – XII)

a) Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX

Diễn ra từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001 ở Hà Nội. Tham dự đại hội có tất cả là
1.168 đại biểu chính thức thay mặt cho 2.479.719 đảng viên cả nước.

Đảng và nhà nước đã nhận định:


“Toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ. Đây là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước,
bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tuỳ
thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan hệ song phương, đa phương giữa các quốc
gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, văn hoá và bảo vệ môi trường, phòng chống tội
phạm, thiên tai và các đại dịch...”

- Báo cáo Chính trị “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”
đã trình bày 10 vấn đề, trong đó bao gồm vấn đề về mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế.

28
- Đường lối kinh tế của Đảng được Đại hội thông qua cũng bao gồm tranh thủ
nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu
quả và bền vững

- Cùng với lĩnh vực kinh tế, Đại hội IX đã xác định đường lối lãnh đạo đối với các
lĩnh vực khác bao gồm việc “Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế”

b) Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X

Được tổ chức từ ngày 18 đến 25 tháng 4 năm 2006 tại Hà Nội. 1.176 đại biểu, đại
diện cho 3,1 triệu đảng viên, đã tham dự lễ khai mạc.

- Báo cáo chính trị: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước
ta ra khỏi tình trạng kém phát triển” đã trình bày 12 vấn đề trong đó bao gồm vấn đề về
mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

c) Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII

Diễn ra từ ngày 20 đến 28 tháng 1 năm 2016 ở Trung tâm Hội nghị Quốc gia tại
phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội.

“…toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu thực hiện Nghị quyết
Đại hội lần thứ XI của Đảng, đạt được những thành quả quan trọng.” - Những thành quả
quan trọng này được liệt kê, trong đó bao gồm việc “Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng, hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao.”
– Đảng và nhà nước có những nhìn nhận về những thành công đạt được trong công cuộc
xây dựng quan hệ quốc tế.

Việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy vận dụng sáng tạo, phát triển, chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội cũng bao gồm việc thực hiện cân bằng “giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế”.

29
Được nêu lên trong nhiệm vụ tổng quát của Đảng và Nhà nước là việc “Giữ gìn
hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng
cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.”

Các nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước nhằm phát triển và khắc phục hạn
chế lần được được liệt kê, trong đó bao gồm nhiệm vụ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ
vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia,
giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận
dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện
mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.”

Qua nội dung các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc thứ IX đến XIII có thể thấy rõ rằng
công cuộc phát triển kinh tế, xã hội và giữ gìn độc lập, hòa bình ngày càng được Đảng và
Nhà nước cho rằng có quan hệ gắn bó mật thiết, đi đôi với các hoạt động đối ngoại và hội
nhập quốc tế. Tầm quan trọng của các hoạt động ngoại giao ngày càng được củng cố và
thực hiện thường xuyên hơn, việc xây dựng quan hệ hợp tác và hòa bình với các nước,
các khu vực trên thế giới chính là việc nắm bắt cơ hội của thời đại đã và vẫn đang liên tục
tạo ra các môi trường thuận tiện cho việc phát triển kinh tế, xã hội và giữ gìn hòa bình
độc lập.

2. Những thành tựu trong công tác đối ngoại của Việt Nam
a) Tổng quát về hoạt động đối ngoại, ngoại giao đã đạt được:

Về ngoại giao chính trị, ngành Ngoại giao Việt Nam đã tích cực thúc đẩy mối
quan hệ song phương và đa phương giữa Việt Nam với các đối tác, góp phần củng cố vị
thế Việt Nam trên trường quốc tế. Mối quan hệ song phương giữa Việt Nam với các đối
tác đang ngày càng sâu sắc và thực chất hơn, mở đường cho những cơ hội hợp tác sâu
rộng hơn trên nhiều lĩnh vực. Với các đối tác chiến lược quan trọng, Việt Nam đã và đang
tích cực củng cố quan hệ hợp tác, đa dạng hóa các lĩnh vực có tiềm năng hợp tác giữa hai
bên, tạo điều kiện cho việc nâng cấp quan hệ song phương. Bên cạnh đó, trên phạm vi

30
khu vực và quốc tế, Việt Nam đã và đang củng cố vai trò và vị thế của mình trên mọi lĩnh
vực, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, là thành viên tích cực của các tổ chức quốc tế,
chủ động xây dựng và nâng cao hiệu quả hợp tác giữa các quốc gia.

Về ngoại giao kinh tế, ngành Ngoại giao Việt Nam đã chủ động đóng góp tích cực
trong quá trình ký kết và thực thi các hiệp định thương mại tự do, góp phần giúp Việt
Nam đa dạng hóa thị trường và sản phẩm, đưa hàng hóa Việt Nam ra thế giới. Thời gian
qua, ngành Ngoại giao đã đôn đốc triển khai và đưa các hiệp định thương mại tự do đã có
hiệu lực đi vào thực chất, đạt hiệu quả.

Về ngoại giao văn hóa, các cơ quan đại diện Việt Nam đã tích cực phối hợp với
các đơn vị trong nước cũng như chính quyền, người dân sở tại để tổ chức nhiều hoạt động
ngoại giao văn hóa với sự đa dạng về nội dung, hình thức, góp phần giới thiệu, quảng bá
hiệu quả về đường lối, chính sách, tiềm năng, thế mạnh cũng như về lịch sử, vẻ đẹp văn
hóa, đất nước và con người Việt Nam. Trong thời gian qua, các cơ quan đại diện Việt
Nam đã chủ động tổ chức các chương trình giao lưu trong khuôn khổ Chương trình Ngày
Việt Nam ở nước ngoài được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt từ năm 2010. Các chương
trình này đã mang lại hiệu quả rất lớn trong việc giới thiệu Việt Nam đến với bạn bè quốc
tế, từ đó thu hút thêm các nhà đầu tư, các đối tác thương mại đến với Việt Nam.

Ngoài ra, Đại sứ quán Việt Nam tại một số quốc gia cũng đã chủ động tổ chức các
hoạt động nhằm bảo tồn và phổ biến tiếng Việt tại nước ngoài thông qua các hình thức
như giao lưu với sinh viên học tiếng Việt, hỗ trợ tư vấn về quá trình học và các tài liệu
học tiếng Việt… Những hoạt động kể trên của các cơ quan đại diện không những góp
phần giới thiệu hình ảnh và nét đẹp của tiếng Việt ra cộng đồng quốc tế mà còn là một
cách hiệu quả để truyền bá nét đẹp văn hóa Việt Nam, thúc đẩy mối quan hệ bền chặt
giữa Việt Nam với bạn bè quốc tế.

Nhờ vào sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài
và các cơ quan trong nước, công tác bảo hộ công dân tại nước ngoài thời gian qua đã đạt
được những kết quả tích cực. Trong trường hợp có tình huống khẩn cấp, các cơ quan đại

31
diện đã luôn chủ động triển khai các biện pháp nghiệp vụ, trao đổi thông tin với các cơ
quan chức năng tại quốc gia sở tại và trong nước để tiến hành bảo hộ công dân. Cụ thể,
thời gian qua, trước thông tin về việc người lao động Việt Nam tại một số quốc gia bị bóc
lột, phải làm việc trong điều kiện không đáp ứng an toàn, các cơ quan đại diện Việt Nam
đã chủ động xác minh các sự việc và liên hệ với các cơ quan chức năng để có hành động
cần thiết bảo vệ và bảo đảm quyền lợi của người lao động Việt Nam.

b) Những thành tựu nổi bật

Việt Nam đã tham gia Hiệp định thương mại tự do ASEAN (AFTA) và ký Hiệp
định thương mại song phương với Mỹ năm 2001, gia nhập một loạt các cơ chế đa phương
quan trọng như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007. Việt Nam đã đăng cai
các hội nghị cấp cao của, ASEM (2005), APEC (2006), là Ủy viên không thường trực của
Hội đồng Bảo an (HÐBA) Liên Hợp Quốc (LHQ) các nhiệm kỳ 2008 - 2009 và 2020 -
2021, Chủ tịch ASEAN vào các năm 1998, 2010 và 2020…

Trong năm 2021, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò chủ tịch luân phiên
Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, chủ trì 4 sự kiện quan trọng, có ý nghĩa thiết thực, gồm:
Phiên thảo luận cấp cao của Hội đồng Bảo An với chủ đề: Tăng cường hợp tác giữa Liên
hiệp quốc và các tổ chức khu vực nhằm thúc đẩy xây dựng lòng tin và đối thoại trong
ngăn ngừa và giải quyết xung đột; 2 phiên thảo luận cấp bộ trưởng về chủ đề: “Khắc phục
hậu quả bom mìn và duy trì hòa bình bền vững: Tăng cường gắn kết để hành động hiệu
quả hơn và Bảo vệ cơ sở hạ tầng thiết yếu đối với sự sống của người dân” và Phiên thảo
luận mở thường niên về bạo lực tình dục trong xung đột.

Tuyên bố chung về tầm nhìn quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Nga
đến năm 2030, một bước tiến lớn trong việc khẳng định tình hữu nghị và quan hệ hợp tác
bền chặt của hai quốc gia.

Hiệp định EVFTA giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) có hiệu lực từ
tháng 8/2020 đã góp phần thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai nền kinh tế. Chỉ trong
năm 2021, thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EU đạt 63,6 tỷ USD, tăng trưởng

32
14,8%, trong đó, Việt Nam xuất sang EU đạt 4,8 tỷ USD, tăng 14,2% so với năm 2020.
Bên cạnh đó, hiệp định UKVFTA giữa Việt Nam và Vương quốc Anh có hiệu lực từ năm
2021 cũng đã góp phần thúc đẩy thương mại hai chiều giữa hai quốc gia, với tổng giá trị
6,6 tỷ USD4.

Hiệp định EVFTA giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) (8/2020) và hiệp
định UKVFTA giữa Việt Nam và Vương quốc Anh (2021) đã được ký kết

3. Những thách thức trong công tác đối ngoại của Việt Nam

Trong thời gian tới, Việt Nam đang đứng trước những khó khăn, thách thức lớn,
đòi hỏi sự nỗ lực hơn nữa của ngành Ngoại giao trong công cuộc phát triển đất nước.

Cùng với sự phát triển nhanh chóng một số quốc gia lớn và sự thay đổi về tương
quan lực lượng giữa các cường quốc, xu hướng đa cực, đa trung tâm sẽ vẫn tiếp tục giữ vị
trí chủ đạo và diễn biến ngày một phức tạp hơn. Cạnh tranh và hợp tác sẽ tiếp tục song
song tồn tại, tuy nhiên, sự cạnh tranh sẽ có xu hướng trỗi dậy nhiều hơn trước, đặc biệt là
khi các cường quốc đang nỗ lực gia tăng sự hiện diện và sức ảnh hưởng của mình trên
phạm vi toàn cầu. Trước tình hình đó, Việt Nam sẽ không thể tránh khỏi ảnh hưởng từ
các cuộc đối đầu giữa họ, đặc biệt khi nước ta có vị trí địa chiến lược quan trọng trong
khu vực châu Á – Thái Bình Dương và có quan hệ đối tác với hầu hết các quốc gia lớn.

Xu hướng tự do hóa và toàn cầu hóa sẽ tiếp tục là xu hướng tất yếu. Các cơ chế
hợp tác khu vực và các hiệp định thương mại tự do sẽ tiếp tục phát huy vai trò của mình
trong thời gian tới, tuy nhiên, những cơ chế hợp tác hiện hành có thể sẽ gặp phải những
khó khăn nhất định khi chủ nghĩa bảo hộ và chủ nghĩa dân túy đã và đang nổi lên ở nhiều
quốc gia, gây cản trở nhất định đến xu hướng tự do hóa và tạo ra ảnh hưởng tiêu cực đến
các quốc gia có nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào hoạt động xuất, nhập khẩu, trong đó có
Việt Nam.

Hòa bình và an ninh trên thế giới đang bị đe dọa bởi các vấn đề an ninh truyền
thống và phi truyền thống. Chiến tranh và xung đột nội bộ vẫn tiếp tục xảy ra trên nhiều
lục địa, quốc gia, đe dọa đến cuộc sống và sự ổn định của người dân. Ngoài ra, các vấn đề
33
an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia,
khủng bố… vẫn sẽ là mối nguy hàng đầu, thách thức nỗ lực hợp tác của các quốc gia.
Tình hình dịch Covid-19 hiện nay cũng đã gióng hồi chuông cảnh báo về những đại dịch
mới có thể xảy ra trong tương lai, đòi hỏi các quốc gia phải luôn sẵn sàng để ứng phó.
Bên cạnh đó, hoạt động khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia cũng ngày càng diễn biến
phức tạp, khó lường hơn khi mà các tổ chức tội phạm lợi dụng những lỗ hổng của cuộc
cách mạng công nghệ 4.0 để thực hiện âm mưu chống phá, lật đổ chính quyền.

Đối với vấn đề an ninh khu vực, khu vực châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục sẽ
đóng vai trò trọng tâm trong chính sách của các nước lớn. Việc Mỹ và các đồng minh gia
tăng hợp tác quân sự trong khu vực này có nguy cơ tạo ra một cuộc chạy đua về quân sự,
đặc biệt là khu vực biển Đông, nơi đang xảy ra các vụ tranh chấp chủ quyền biển đảo
giữa Trung Quốc và một số quốc gia trong khu vực, trong đó có Việt Nam.

IV. Giáo dục


1. Thành tựu

Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000; hoàn thành phổ
cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ I năm 2014; hoàn thành phổ cập giáo dục
trung học cơ sở vào năm 2010.

Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên. Chất lượng giáo dục đỉnh cao có
bước phát triển mới. Một trong những minh chứng cho điều này là việc ghi dấu ấn của
học sinh Việt Nam trên sân chơi trí tuệ thế giới.

Tại các kỳ thi Olympic khu vực và quốc tế, học sinh Việt Nam đã đạt thành tích
xuất sắc, đặc biệt là trong 4 năm vừa qua, 100% học sinh tham gia đều đoạt giải.

Cụ thể, từ năm 2000 đến năm 2015 đoạt 101 huy chương vàng, 169 huy chương
bạc, 174 huy chương đồng và 43 Bằng khen.

34
Để có nền giáo dục phát triển, liên tục trong 20 năm qua, ngành giáo dục đã có
những giải pháp đổi mới tích cực, khắc phục nhiều hạn chế, yếu kém. Cụ thể như:

 Giao quyền chủ động và hướng dẫn nhà trường, giáo viên xây dựng kế hoạch dạy
học và thực hiện chương trình giáo dục một cách linh hoạt, gắn với các di sản văn
hóa, lịch sử và thực tiễn địa phương;
 Xây dựng các chủ đề tích hợp, liên môn; Chú trọng giáo dục đạo đức và giá trị
sống, r
 Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.

Một số mô hình giáo dục mới đã được triển khai như: Phương pháp “Bàn tay nặn
bột”; mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) với định hướng lấy học sinh làm trung
tâm và thí điểm mô hình ở cấp trung học cơ sở; chương trình Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ
giáo dục; mô hình trường học gắn kết với sản xuất, kinh doanh tại địa phương… góp phát
triển năng lực và hình thành phẩm chất người học.

Nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách công bằng trong tiếp cận giáo dục, đặc
biệt đối với trẻ dân tộc thiểu số, trẻ ở vùng khó khăn.

Trước hết là ưu tiên đầu tư cho các địa bàn có nhiều khó khăn, phát hành công trái
giáo dục để hỗ trợ cho các tỉnh miền núi, vùng khó khăn xây dựng trường học kiên cố,
đạt chuẩn chất lượng và thực hiện xóa đói giảm nghèo, thông qua đó tạo nhiều cơ hội cho
trẻ tiếp cận nhiều hơn với dịch vụ giáo dục.

Những thay đổi trong chính sách đãi ngộ đối với giáo viên cũng tạo nên sự phát
triển mạnh mẽ của bậc phổ thông. Các trường lớp của Việt Nam đã và đang phấn đấu đạt
chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn về hạ tầng cơ sở đảm bảo cho việc dạy và học có chất lượng
tương đương với các nước khác trong khu vực

Hiện tại, cả nước đã có gần 500 trường mầm non, gần 3.200 trường tiểu học, trên
400 trường trung học cơ sở và phổ thông trung học đạt trường chuẩn quốc gia.

35
2. Những khó khăn, thách thức đặt ra trong quá trình đổi mới giáo dục Việt
Nam hiện nay

Từ thực tiễn giáo dục cho thấy, giáo dục Việt Nam đang có những khó khăn và thách
thức sau:

 Khó khăn về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, kinh phí đào tạo trong ngành giáo
dục. Để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới, cần giải quyết vấn đề đội
ngũ giáo viên thừa, thiếu cục bộ; cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học ở nhiều địa
phương chưa đáp ứng được yêu cầu của môn học.

 Công tác xã hội hóa giáo dục. Bên cạnh những thành tích đã đạt được, việc thực
hiện xã hội hóa giáo dục vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc như: một số xã,
phường, cấp ủy, chính quyền địa phương, đoàn thể và phụ huynh HS chưa chú
trọng đến việc học tập của con em mình; chưa nhận thức đúng đắn về vị trí, tầm
quan trọng của giáo dục. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên một bộ phận HS
phải bỏ học để đi làm. Mặt khác, việc quản lí công tác xã hội hóa giáo dục còn
thiếu biện pháp phù hợp, tính khả thi chưa cao.

 Xu thế hội nhập. Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế đòi hỏi phải
có nguồn nhân lực chất lượng cao, trong khi nguồn lực đầu tư cho giáo dục của
Nhà nước còn hạn chế. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, đặt ra những thách
thức trong quá trình đổi mới GD-ĐT; khoảng cách giàu nghèo, sự phát triển không
đều giữa các địa phương là nguyên nhân dẫn đến thiếu bình đẳng về cơ hội tiếp
cận giáo dục và khoảng cách chất lượng giáo dục giữa các đối tượng người học và
giữa các vùng miền.

36
Khoảng cách phát triển về KT- XH, khoa học và công nghệ, GD-ĐT giữa nước ta
và các nước tiên tiến trong khu vực, trên thế giới có xu hướng gia tăng, hội nhập quốc tế
và sự phát triển của kinh tế thị trường đang làm nảy sinh nhiều nguy cơ tiềm ẩn như sự
thâm nhập lối sống không lành mạnh, làm lu mờ bản sắc văn hóa dân tộc; sự thâm nhập
của các loại dịch vụ giáo dục kém chất lượng,…

 Nguy cơ thương mại hóa giáo dục. Đây là hậu quả của việc áp dụng các nguyên
tắc kinh tế thị trường một cách quá mức vào giáo dục, coi giáo dục thuần túy là
một ngành kinh doanh mang lại lợi nhuận. Điều này sẽ làm suy giảm chức năng xã
hội của giáo dục, giảm chất lượng giáo dục; đồng thời làm mất đi sự tự do, sáng
tạo trong giáo dục. Điều này cũng có thể dẫn đến gia tăng bất bình đẳng trong giáo
dục, mất dân chủ trong giáo dục.
3. Định hướng chung về giáo dục và vị trí, vai trò của giáo dục hiện nay

Trong quá trình đổi mới giáo dục cần thống nhất một số quan niệm, định hướng về
vị trí, vai trò của giáo dục:

 Giáo dục cần hướng tới phát triển tiềm năng của người học. Không chỉ cung cấp
tri thức, giáo dục còn rèn luyện người học toàn diện cả về năng lực và phẩm chất.
 Giáo dục cần có mô hình định hướng nhân cách nhưng không giáo điều; tôn trọng
sự phát triển đa dạng của cá nhân, của từng nhân cách cụ thể.
 Phát huy tinh thần tự học, học gắn với hành, lí luận gắn với thực tiễn.
 Giáo dục cần thể hiện tinh thần tự do, dân chủ của xã hội, đặc biệt rèn luyện và
thực hành dân chủ trong giáo dục. Tinh thần tự do thể hiện trong sự sáng tạo
không ngừng của người dạy và người học trên cơ sở những tri thức chung.

 Giáo dục là một quá trình lâu dài, không chỉ giáo dục trong nhà trường mà còn ở
xã hội, trong gia đình,… Do vậy, cần xây dựng xã hội tri thức, xã hội học tập với
phương châm học tập suốt đời.

37
 Cần kết hợp giữa dịch vụ và chính sách xã hội trong giáo dục, tránh tình trạng
thương mại hóa quá mức giáo dục.

 Ở bậc đại học, cần kết hợp giữa giảng dạy và nghiên cứu khoa học để nâng cao
chất lượng đào tạo cũng như đảm bảo đúng chức năng của các trường đại học, học
viện.

 Tăng cường hội nhập quốc tế trong giáo dục. Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang
diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, việc xây dựng nền giáo dục, hệ thống giáo dục
theo những tiêu chuẩn quốc tế sẽ góp phần tăng cường chất lượng nguồn nhân lực,
rút ngắn khoảng cách giữa nhân lực Việt Nam và nhân lực quốc tế.

D. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ CẢM QUAN ĐÁNH GIÁ


CỦA CÁ NHÂN
I. Bài học kinh nghiệm

Bên cạnh những thành tựu như đã nêu ở trên, chúng ta còn có hạn chế, khuyết
điểm. Cụ thể như: Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm
rõ một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng thực tiễn, cung cấp cơ sở
khoa học hoạch định đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Lý luận
về CNXH và con đường đi lên CNXH còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn
để tiếp tục làm rõ. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng tiềm năng, yêu cầu
và thực tế nguồn lực được huy động; kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định, tốc độ tăng trưởng
kinh tế chưa cao. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế còn thấp. Phát triển còn thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội,
môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội
chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn một số nhân tố, nguy
cơ gây mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, lĩnh vực, còn một bộ phận nhân dân chưa

38
được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới…

Từ thành tựu, hạn chế, khuyết điểm đó, có thể đúc rút một số bài học:

Quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Ðảng,
là cơ sở phương pháp luận quan trọng nhất để phân tích tình hình, hoạch định, hoàn thiện
đường lối; đồng thời kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam. Xây dựng đất nước theo
con đường XHCN là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, lâu dài, nhưng đó là con đường hợp
quy luật để có một nước Việt Nam phát triển bền vững. Và trong quá trình đổi mới, bên
cạnh các cơ hội, có thể xuất hiện vấn đề mới, khó khăn, thách thức mới, Ðảng, Nhà nước
và nhân dân cần phải chủ động, không ngừng sáng tạo để giải quyết và vượt qua.

Ðổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân,
dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi
nguồn lực của nhân dân, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Xa rời, đi ngược lại
lợi ích của nhân dân, đổi mới sẽ thất bại. Những ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến của nhân
dân nảy sinh từ thực tiễn là yếu tố quan trọng góp phần hình thành đường lối đổi mới của
Ðảng. Nhân dân làm nên các thành tựu của đổi mới, đổi mới phải dựa vào nhân dân. Dân
chủ XHCN là bản chất của chế độ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất
nước. Do đó, xây dựng, phát huy dân chủ XHCN phải bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân để nhân dân thật sự là chủ thể tiến hành đổi mới và thụ hưởng thành quả của đổi
mới. Ðể phát huy dân chủ XHCN, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cần
phòng, chống đặc quyền, đặc lợi, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Ðổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải tôn trọng quy luật
khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề thực tiễn đặt ra. Thực tế

39
cho thấy, phải đổi mới toàn diện, đồng bộ trên mọi lĩnh vực đời sống, từ nhận thức, tư
tưởng đến hoạt động thực tiễn, từ hoạt động lãnh đạo của Ðảng và quản lý của Nhà nước
đến hoạt động trong từng bộ phận của hệ thống chính trị, từ hoạt động ở trung ương đến
hoạt động của địa phương, cơ sở. Trong quá trình đổi mới, phải tổ chức thực hiện quyết
liệt với các bước đi, hình thức, cách làm phù hợp, hiệu quả; không để xảy ra tình trạng
nóng vội, chủ quan, hấp tấp, vì sẽ gây mất ổn định, thậm chí rối loạn, tạo cơ hội cho các
thế lực thù địch chống phá. Ðồng thời phải chủ động, năng động, không ngừng sáng tạo,
khắc phục tình trạng bảo thủ, trì trệ, bỏ lỡ cơ hội phát triển. Phải tôn trọng quy luật khách
quan, coi sự phát triển của thực tiễn là yêu cầu, là cơ sở để đổi mới tư duy lý luận, đường
lối, chủ trương, cơ chế, chính sách. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của
Ðảng và Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn. Ðể dân tin, dân ủng hộ, dân tích cực
thực hiện đường lối đổi mới, Ðảng, Nhà nước phải giải quyết kịp thời, hiệu quả những
vấn đề do thực tiễn đặt ra; kịp thời điều chỉnh, bổ sung các thể chế, thiết chế, cơ chế,
chính sách không còn phù hợp, cản trở phát triển.

Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc; kiên định độc lập, tự chủ, chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi. Phải luôn coi lợi ích quốc gia
- dân tộc là tối thượng. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định độc lập, tự chủ,
và đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế nhằm tạo ra sức mạnh
tổng hợp để phát triển đất nước nhanh, bền vững. Trong đó, phát huy sức mạnh toàn dân
tộc là cơ sở kết hợp sức mạnh thời đại, làm cho sức mạnh toàn dân tộc mạnh hơn. Và
quan hệ quốc tế dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.

Phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Ðảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến công tác
xây dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới; nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã

40
hội và cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Sự lãnh đạo
đúng đắn của Ðảng là nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới. Vì thế, nâng
cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Ðảng; xây dựng Ðảng
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt. Ðảng phải thường
xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; đồng thời
thường xuyên kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước,
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong tập hợp mọi tầng lớp nhân
dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp
đổi mới.

Rõ ràng sau 35 năm, chúng ta đã không chỉ đạt được thành tựu to lớn có ý nghĩa
lịch sử, mà còn tiếp tục đẩy mạnh và phát triển với các nguồn lực phong phú. Hành trình
đổi mới với sự hài hòa giữa ý Ðảng với lòng dân đã và đang kết hợp cả ba yếu tố thiên
thời, địa lợi, nhân hòa. Ðó là động lực lớn nhất, yếu tố cơ bản nhất tạo nên thành công
của sự nghiệp cao cả là xây dựng một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, vững bước đi lên CNXH.

II. Cảm quan đánh giá của cá nhân

Đổi mới là công cuộc có tính tổng thể, được chuẩn bị bài bản, theo cách thức, với
từng đường đi nước bước cụ thể, được cân nhắc chắc chắn, triển khai một cách sâu rộng
và đồng bộ, cho nên 35 năm qua, công cuộc đổi mới đã thật sự gắn bó với vận mệnh dân
tộc, vận mệnh đất nước, gắn bó với mỗi người Việt Nam, và được bạn bè quốc tế hết sức
quan tâm.

Ðổi mới để phát triển, song phải là phát triển trong thế ổn định, theo đúng định
hướng, con đường mà chúng ta đã chọn. Ðổi mới để thực hiện bước chuyển từ cơ chế tập
trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường do Nhà nước quản lý, điều hành theo
định hướng XHCN, khắc phục tình trạng thả nổi thị trường; phát triển kinh tế nhưng phải
đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, khắc phục tình trạng phân hóa giàu nghèo. Ðổi
mới yêu cầu gắn với mở cửa, hội nhập, với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa để

41
đất nước phát triển nhanh, bền vững; xây dựng, tăng cường lực lượng sản xuất, củng cố
và phát triển quan hệ sản xuất phù hợp, từ đó nâng tầm đất nước lên trình độ mới, tầm
cao mới.

Qua 35 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình
trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bộ mặt đất nước, đời sống của
nhân dân thật sự thay đổi; dân chủ XHCN được phát huy và mở rộng; đại đoàn kết toàn
dân tộc được củng cố, tăng cường. Công tác xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN và hệ thống chính trị được đẩy mạnh; sức mạnh về mọi mặt của đất nước
được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được
giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt
Nam trên trường quốc tế được nâng cao…

Các thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển
trong những năm tới; đồng thời khẳng định con đường đi lên CNXH là phù hợp với thực
tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Cội nguồn của các thành tựu đó là do
Ðảng ta có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi ích, nguyện vọng của nhân
dân, được nhân dân tích cực ủng hộ, thực hiện, được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp
đỡ. Ðảng đã nhận thức, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại,
vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam, từ đó giữ bản lĩnh chính trị, kiên
định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đồng thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời
đưa ra các chủ trương, quyết sách phù hợp từng giai đoạn cách mạng, phù hợp tình hình
thế giới và trong nước. Ðó là cơ sở để năm 2020, với phương châm vì tính mạng con
người, không để ai bị bỏ lại phía sau, toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực vượt qua
đại dịch Covid-19, khắc phục hậu quả bão lụt ở các tỉnh miền trung, giúp nhân dân sớm
ổn định cuộc sống.

42
TỔNG KẾT:

Với bề dày lịch sử trải qua vô vàn những cuộc chiến tranh lớn nhỏ, đe doạ đến sự
toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia và thậm chí là sự tồn tại của cả một dân tộc. Qua những
cuộc chiến đó, những mất mát, hy sinh là điều không thể tránh khỏi, nhưng điều quan
trọng là chúng ta biết đứng lên sau những vấp ngã, đạp lên những trông gai để bước tiếp
con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà ông cha ta đã gây dựng trong suốt 4000 năm
lịch sử. Nắm bắt được điều đó, Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn có ý thức xây dựng và đổi
mới đất nước, kể cả trong thời chiến hay thời bình, đó là tinh thần thép luôn tiến về phía
trước, không bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù của một dân tộc tự lực, tự cường. Hơn
ba nươi năm đổi mới (1986 - 2021) là giai đoạn quan trọng của sự nghiệp phát triển đất
nước, đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt của Ðảng, Nhà nước và nhân dân, là sáng tạo có
tính tất yếu, toàn diện để gạt bỏ, tháo gỡ những vướng mắc, giải phóng năng lực sản xuất,
tạo động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Trong quá trình làm bài em còn gặp phải nhiều sai sót, em mong nhận được sự bổ
khuyết từ phía cô giáo phụ trách bộ môn Triết học Mác – Lênin để em có điều kiện hoàn
thành sự hiểu biết về cả lý luận và thực tiễn, rút kinh nghiệm cho những bài làm tiếp theo.

Em xin chân thành cảm ơn!

43
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. NXB Chính Trị Quốc Gia Sự Thật, Bộ GD&ĐT, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí
Minh (Dành cho Bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị).
2. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2019/04/tinh-hinh-kinh-te-xa-
hoi-nam-2000/
3. https://tapchicongsan.org.vn/nghien-cu/-/2018/1656/kinh-te-viet-nam-giai-doan-
2006-2010--thanh-tuu%2C-han-che-va-bai-hoc-rut-ra.aspx
4. https://tapchitaichinh.vn/su-kien-noi-bat/phat-trien-kinh-te-xa-hoi-giai-doan-
20112020%C2%A0va-dinh-huong-cho-giai-doan-toi-331908.html#:~:text=Quy
%20m%C3%B4%20GDP%20t%C4%83ng%20g%E1%BA%A5p,v
%C3%A0%20%C4%91%E1%BB%95i%20m%E1%BB%9Bi%20s%C3%A1ng
%20t%E1%BA%A1o.
5. https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview#1
6. https://moha.gov.vn/kstthc/tintuc/di-len-cnxh-van-la-su-lua-chon-cua-lich-su-viet-
nam-trong-giai-doan-hien-nay-46497.html

44
45

You might also like