You are on page 1of 18

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU....................................................................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................................................2
2. Mục tiêu nghiên cứu.........................................................................................................................2
2.1. Mục tiêu chung.........................................................................................................................2
2.2. Mục tiêu cụ thể.........................................................................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................................................3
3.1. Đối tượng nghiên cứu...............................................................................................................3
3.2. Phạm vi nghiên cứu..................................................................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài........................................................................................................4
5. Kết cấu của đề tài.............................................................................................................................4
NỘI DUNG.................................................................................................................................................5
1. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa.................................................................5
1.1. Công nghiệp hoá là xu hướng mang tính quy luật của các nước đi từ nền sản xuất nhỏ đi lên một
nền sản xuất lớn...................................................................................................................................5
1.2. Tính tất yếu phải tiến hành đồng thời công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta.......................5
2. Lý luận chung về công nghiệp hóa và khái quát lịch sử quá trình công nghiệp hóa ở Việt Nam.........6
2.1. Những vấn đề lý luận chung về công nghiệp hóa – hiện đại hóa..................................................6
2.2. Khái quát lịch sử quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời gian qua.......8
3. Qúa trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta hiện.....................................................................9
3.1. Những quan điểm chỉ đạo của Đảng trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa...................9
3.2. Nội dung chính của ông nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta.....................................................10
3.3. Những điều kiện thuận lợi và khó khăn, thành tựu và một số giải pháp trong quá trình thực hiện
công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta..........................................................................................13
KẾT LUẬN..............................................................................................................................................17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................18

1
MỞ ĐẦU
Hiện nay nước ta đang bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là
nhiệm vụ trọng tâm bởi chỉ có con đường công nghiệp, hóa hiện đại hóa mới đưa nước ta
trở nên giàu mạnh, đồng thời xây dựng được một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, từ đó rút ngắn khoảng cách lạc hậu với các nước
phát triển, hòa vào dòng thác chung của nhân loại. Đại hội VIII của Đảng nhận định rằng
nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đặt ra cho thời kỳ đầu là
chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa cơ bản đã hoàn thành cho phép nước ta bước vào
thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Đảng ta đã đưa ra những
quan điểm mới chỉ đạo quá trình thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước trong
điều kiện mới.
Những quan điểm này được Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
khóa VII và tiếp tục được bổ sung hoàn thiện trong các Đại hội VIII, IX, X, XI của Đảng.
Một trong những quan điểm cơ bản đó là “Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường”.
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình phát triển lịch sử của loài người có rất nhiều giai đoạn hình thành
và phát triển đất nước. Trải qua mỗi giai đoạn đều có rất nhiều nguyên nhân để dẫn đến
sự thành công hay thất bại của chế độ xã hội. Trong đó vai trò của lực lượng sản xuất có
phần lớn quyết định đến xã hội.
Là một nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, và đang trong thời kì quá độ lên
xã hội chủ nghĩa nên chúng ta gặp rất nhiều khó khăn trên các lĩnh vực, chính vì vật
muốn cho đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa Đảng và nhà nước ta đã
nghiên cứu rất kĩ về vai trò của lực lượng sản xuất và đã có sự vận dụng phù hợp lực
lượng sản xuất vào quá trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa của nước ta hiện nay.
Qua nghiên cứu và tìm hiểu chúng em đã chọn đề tài “Vấn đề công nghiệp hóa –
hiện đại hóa ở Việt Nam” là đề tài tiểu luận.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Cơ sở vật chất kỹ thuật của một xã hội nhất định thường được hiểu là toàn bộ vật
chất của lực lượng sản xuất cùng với kết cấu của xã hội đã đạt được trình độ xã hội tương
ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một xã hội tồn tại trong phạm vi các quan hệ sản xuất
nhất định nên nó mang dấu ấn và chịu sự tác động của các quan hệ sản xuất trong việc tổ
chức quá trình công nghệ trong cơ cấu xã hội. Vì vậy khái niệm cơ sở vật chất kỹ thuật

2
gắn bó chặt chẽ với các hình thức xã hội của nó. Đặc trưng cơ sở vật chất kỹ thuật của
phương thức trước thời công nghiệp tư bản còn thủ công lạc hậu.
Còn cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại chỉ có thể là nền công
nghiệp hiện đại cân đối phù hợp dựa trên trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ ngày càng
cao. Để có cơ sở vật chất và kỹ thuật như vậy các nước đang phát triển cần phải tiến hành
công nghiệp hoá.
Nước ta thuộc vào nhóm đang phát triển, là một trong những nước nghèo
nhất thế giới, nông nghiệp lạc hậu còn chưa thoát khỏi xã hội truyền thống để sang "Xã
hội văn mình công nghiệp". Do đó khách quan phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại
hoá là nội dung, phương thức là con đường phát triển nhanh có hiệu quả. Đối với nước ta
quá trình công nghiệp hoá còn gắn chặt với hiện đại hoá, nó làm cho xã hội chuyển từ xã
hội truyền thống sang xã hội hiện đại làm biến đổi căn bản bộ mặt của xã hội trên tất cả
các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị...
2.2. Mục tiêu cụ thể
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kĩ
thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa cao, quan hệ sản xuất mới chưa
hoàn thiện. Vì vậy, công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một xu hướng khách quan, phù hợp
với xu thế của thời đại và hoàn cảnh đất nước góp phần tạo dựng cơ sở vật chất kĩ thuật
cho Chủ Nghĩa Xã Hội, hoàn thiện quan hệ sản xuất. Do công nghiệp hóa – hiện đại hóa
có ý nghĩa vô cùng to lớn với nước ta nên đã có rất nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu,
nhà kinh tế... và cả sinh viên nghiên cứu về đề tài này nhằm đưa ra giải pháp thúc đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Trong số các công trình đó có không ít những công trình có tác dụng lớn đối với
quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta. Đối với tôi, được sinh ra và lớn lên
đúng vào thời điểm đất nước bắt đầu đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa,
tôi mong đóng góp phần nào đó công sức của mình vào sự nghiệp chung của đất nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài trên, đối tượng nghiên cứu là vai trò công nghiệp hóa – hiện đại hóa
hiện nay ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là trong đất nước Việt Nam và việc vận dụng công
nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam.

3
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối chính sách của
Đảng Cộng sản Việt Nam là phương pháp nghiên cứu lớn nhất của đề tài.
Ngoài ra, bài tiểu luận còn sử dụng các phương pháp khác như so sánh, tổng hợp
tài liệu, tổng kết thực tiễn, phân tích tài liệu, … để làm sáng tỏ vấn đề.
5. Kết cấu của đề tài
Bài tiểu luận ngoài phần mở bài, kết thúc, danh mục tài liệu tham khảo còn bao
gồm các nội dung chi tiết sau:
1. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
2. Lý luận chung về công nghiệp hóa và khái quát lịch sử quá trình công nghiệp
hóa ở Việt Nam.
3. Qúa trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta hiện

4
NỘI DUNG
1. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
1.1. Công nghiệp hoá là xu hướng mang tính quy luật của các nước đi từ nền sản xuất nhỏ
đi lên một nền sản xuất lớn.
Để có một xã hội như ngày nay không phải do tự nhiên mà có, nó do quá trình tính
luỹ về lượng ngay từ khi loài người xuất hiện thì sản xuất thô sơ, đời sống không ổn định,
cơ sở vật chất hầu như không có gì nhưng trải qua sự nỗ lực của con người tác động vào
giới tự nhiên, cải biến nó thông qua lao động, trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử giời
đây con người đã tạo ra được những thành công đáng kể. Thành tựu đạt được là do quy
luật phát triển do tự thân vận động của con người trong toàn xã hội. Ngày nay công cuộc
xây dựng các nước đã cố gắng rất nhiều trong cuộc cạnh tranh chay đua về kinh tế. Thể
hiện là các chính sách, đường lối về phát triển kinh tế ngày một toàn diện hơn, về các mặt
quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, nền văn hoá và con người của xã hội đó.
Công nghiệp hoá chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất kỹ
thuật cho nền sản xuất hiện đại. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn
hiện đại cũng là một quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nước, tuy nhiên tuỳ từng
nước khác nhau, do điểm xuất phát tiến lên khác nhau, mục tiêu phát triển không giống
nhau nên cách thức tiến hành cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn, hiện đại không
giống nhau. Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển như nước ta hiện nay (nền
sản xuất nhỏ, kỹ thuật thủ công là chủ yếu) công nghiệp hóa là quá trình mang tính quy
luật, tất yếu để tồn tại và phát triển nhằm tạo ra cở sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất
lớn hiện đại.
Có tiến hành công nghiệp hoá chúng ta mới: Xây dựng được cơ sở vật chất- kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mới tiến hành tái sản xuất mở rộng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, mới tích luỹ về lượng mới để xây dựng thành
công nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Mới tăng cường phát triển lực lượng giai cấp
công nhân. Mới củng cố quốc phòng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Mới góp phần xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc, xây dựng con người mới ở
Việt Nam. Như vậy, công nghiệp hóa là xu hướng mang tính quy luật của các nước đi từ
một nền sản xuất nhỏ sang nền sản xuất lớn.
1.2. Tính tất yếu phải tiến hành đồng thời công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều nước dù thắng hay bại đều trở thành
nước kiệt quệ đã trở thành một trong những nguyên nhân cho bước khởi động của cuộc
khoa học công nghệ hiện đại. Có thể chia cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại
thành hai giai đoạn:

5
Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ những năm 40 đến giữa năm 70. Giai đoạn này sử
dụng khoa học kỹ thuật để hiện đại hoá các công cụ sản xuất, phát triển kinh tế theo
hướng mở rộng và tăng thêm các yếu tố sản xuất. Thực chất đây là giai đoạn bắt đầu phát
triển của lực lượng sản xuất cả về con người và công cụ sản xuất. Bình quân tăng trưởng
kinh tế hàng năm ở các nước kinh tế phát triển là 5,6%. Tốc độ tăng trưởng này được giữ
nguyên trong vòng 20 năm kể từ năm 1950-1970.
Giai đoạn hai bắt đầu vào những năm 70 trở đi và cho đến nay vẫn đang tiếp tục
rất mạnh mẽ. Giai đoạn này là thực hiện cuộc cách mạng với quy mô lớn và toàn diện
trên lực lượng sản xuất. Trên cơ sở áp dụng các thành tựu khoa học-kỹ thuật, đổi mới
toàn bộ bộ máy sản xuất hiện hành trên cơ sở sử dụng những phương tiện kỹ thuật về
công nghệ mới, thay thế hàng loạt các thiết bị lạc hậu bằng các thiết bị hiện đại làm cho
năng suất và chất lượng sản phẩm lên cao. Đây là giai đoạn biến đổi hẳn về chất của lực
lượng sản xuất ở các nước tư bản chủ nghĩa thì đây cũng là thời kỳ mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất lên cao tạo điều kiện cho sự ra đời của phương thức
sản xuất mới.
Qúa trình diễn ra không đồng đều ở các nước do nhiều nguyên nhân dễ dẫn đến sự
chênh lệch về kinh tế. Trên thế giới hình thành 3 nhóm nước đó là các cường quốc về
kinh tế, các nước phát triển và đang phát triển. Sự phân chia này cũng hình thành nên các
mâu thuẫn cơ bản của xã hội, vấn đề cơ bản của các nước đang phát triển là đường lối
đấu tranh hoà bình giải quyết mâu thuẫn thông qua làm cuộc cách mạng về kinh tế.
Việt Nam là một nước có nền kinh tế nhỏ, lạc hậu về khoa học kỹ thuật, lực lượng
sản xuất còn non nớt chưa phù hợp với quan hệ sản xuất của xã hội chủ nghĩa. Để có cơ
sở kỹ thuật của nền sản xuất lớn, không còn con đường nào khác là công nghiệp hoá, cơ
khí hoá cân đối và hiện đại trên trình độ khoa học kỹ thuật phát triển cao. Muốn vậy công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là phát triển tuần tự và phát triển nhẩy vọt, cùng một lúc thực
hiện hai cuộc cách mạng đó là chuyển lao động thô xơ sang lao động bằng máy móc và
chuyển lao động máy móc sang lao động tự động hoá có sự chỉ đạo của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Lý luận chung về công nghiệp hóa và khái quát lịch sử quá trình công nghiệp hóa ở
Việt Nam.
2.1. Những vấn đề lý luận chung về công nghiệp hóa – hiện đại hóa
Công nghiệp hóa là hình thức tổ chức có tính khách quan đối với mọi quốc gia khi
phát triển lực lượng sản xuất chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công
nghiệp. Song các quốc gia có quan điểm chiến lược và lộ trình công nghiệp hóa khác
nhau. Nước ta là một nước nghèo có điểm xuất phát thấp do đó vẫn đề công nghiệp hóa-
hiện đại hóa đất nước là một vấn đề cấp bách và hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện
6
nay. Đảng và nhà nước ta đã đặt ra vấn đề công nghiệp hóa- hiện đại hóa gắn liền với quá
trình phát triển lực lượng sản xuất trong các kỳ đại hội Đảng. Xuất phát từ đại hội Đảng
VII vấn đề công nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn liền với quá trình phát triển lực lượng sản
xuất đã được đặt ra, qua thời gian lý luận và thực tiễn vấn đề ngày càng được hoàn thiện.
Theo tư duy và quan điểm mới hiện nay có thể hiểu nội dung chủ yếu của công
nghiệp hóa ở các nước cũng như nước ta là: trang bị kỹ thuật công nghệ hiện đại và theo
đó xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý trong tất cả các ngành của nền KTQD. Tóm lại có
thể hiểu là: "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương
tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ
khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc (1993) công nghiệp hoá là một quá trình phát
triển nền kinh tế. Trong quá trình này nguồn của cải quốc dân được động viên để phát
triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu
kinh tế này là có một bộ phận luôn luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và
hàng hoá tiêu dùng có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ
cao, đảm bảo đạt tới sự tiến bộ kinh tế xã hội. Hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn
bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ chỗ
theo những quy trình công nghệ thủ công là chính sang chỗ sử dụng một cách phổ biến
những quy trình công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát
triển khoa học kỹ thuật tạo ra năng suất lao động hiệu quả và trình độ văn minh kinh tế xã
hội cao.
Trong văn kiện hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành trung ương khoá VII
có viết “Quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn
diện các hoạt động kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động cùng công nghệ và phương tiện hiện đại tạo ra năng suất lao động
cao”. Đối với nước ta đó là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội
nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp gắn với việc
hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ. Ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất
ưu việt của chế độ mới.
Như vậy công nghiệp hóa – hiện đại hóa không chỉ là một quá trình tất yếu khách
quan đối với nước ta mà chúng ta có sẵn những cơ sở lý luận vững chắc để áp dụng vào
thực tế nền kinh tế nước ta.

7
2.2. Khái quát lịch sử quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời
gian qua
Có thể xem xét thực trạng công nghiệp hóa ở nước ta qua 2 khía cạnh trang bị kỹ
thuật, công nghệ và việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. Trên thực tế công cuộc công
nghiệp hóa được tiến hành ở nước ta từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (1960). Chủ
trương công nghiệp hóa được tiến hành qua các kế hoạch dài hạn 5 năm song do nhiều
điều kiện khách quan gây khó khăn như nền kinh tế vốn nghèo nàn lạc hậu chính sách
cấm vận gây thù địch của Mỹ, trình độ dân trí, nguồn lao động chưa cao. Thực trạng của
quá trình công nghiệp hóa còn nhiều khó khăn. Trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ kết
cấu hạ tầng và việc ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ vào sản
xuất và dịch vụ còn thấp kém, lạc hậu.
Qua mấy thập niên công nghiệp hóa, chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở vật
chất - kỹ thuật nhất định. Cho đến nay một số công trình lớn và trọng điểm sau nhiều năm
xây dựng và bắt đầu đưa vào hoạt động trong cả công nghiệp lẫn nông nghiệp, giao thông
vận tải. Tất nhiên so với trình độ của thế giới vẫn ở trong tình trạng còn thấp kém và lạc
hậu: Thành phần kinh tế nhà nước được trang bị nhiều nhất, cao nhất có tổng số 27,8
nghìn tỷ đồng tài sản cố định chỉ 26% giá trị thiết bị máy móc, phần lớn thiết bị thuộc hệ
kỹ thuật những năm 1950-1960 chịu ảnh hưởng lớn của hao mòn vô hình. Việc tiếp cận
thành tựu khoa học mới của nước ta còn chậm trình độ tự động hoá các công cụ sản xuất
còn thấp: Trung ương đạt tỷ lệ 3%, địa phương 1,7% về mức độ tự động hoá công cụ. Kết
cấu hạ tầng sản xuất và xã hội còn rất thấp kém cả về trình độ kỹ thuật, công nghệ lẫn
mạng lưới nhỏ hẹp. Sản phẩm làm ra không có sức cạnh tranh, giá thành cao, mặt hàng
không nhiều, chưa có khả năng vươn ra thị trường quốc tế rộng lớn.
Gây khó khăn cho quá trình đầu tư của nước ngoài vào nước ta, cản trở nền kinh tế
nước ta hội nhập kinh tế thế giới. Ngăn trở việc xây dựng thị trường và sự hình thành
chiến lược thị trường hướng ngoại. Khó tránh khỏi vòng luẩn quẩn kỹ thuật công nghệ và
kết cấu hạ tầng thấp kém, lạc hậu dẫn đến năng suất lao động thấp và thu nhập quốc dân
tính theo đầu người thấp, từ đó khả năng tích luỹ hầu như không có và kết quả là không
có vốn đầu tư.
Bên cạnh đó là sự chưa phù hợp của cơ cấu kinh tế được hình thành trong thời
gian qua mà việc điều chỉnh lại là không dễ dàng: Với xuất phát điểm từ 1 quốc gia nông
nghiệp lạc hậu. Sau nhiều kế hoạch phát triển kinh tế lần lượt các mô hình cơ cấu kinh tế
hình thành, sự tập trung vốn thông qua nhiều hoạt động tích luỹ trong nước, vay vốn quốc
tế, đã đưa nền kinh tế có tỷ trọng công nghiệp tăng khá. Qua các thời kỳ kế hoạch 5 năm
nền kinh tế có sự tăng trưởng nhất định song chưa có sự phát triển kinh tế - xã hội đáng
kể, chưa có sự phát triển theo chiều sâu năng suất, chất lượng và hiệu quả. Nền kinh tế

8
nghiêng về xây dựng nền công nghiệp nặng, muốn hiện đại hoá nhanh nhưng do nền kinh
tế của ta còn nhỏ bé, phân tán và lạc hậu, nguồn vốn tích luỹ không lớn trình độ khoa học
công nghệ chưa cao không đủ điều kiện cần thiết để xây dựng một nền đại công nghiệp.
Điều này dẫn đến thực tế kinh tế nước ta mất cân đối, sản xuất phát triển chậm, thu nhập
quốc dân và năng suất thấp, đời sống nhân dân vẫn chưa được cải thiện... trong một thời
gian.
Sớm nhận thức được những biểu hiện chưa phù hợp của các chính sách kinh tế
Đảng và Nhà nước đã đưa ra những chủ trương mới nhằm khắc phục khiếm khuyết, tiếp
tục thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Đại hội toàn quốc lần
thứ VI của Đảng đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử quá trình công nghiệp hóa ở
nước ta. Đại hội cũng là đại hội của thời kỳ đổi mới của đất nước. Đại hội nhận định đặc
điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một thời kỳ lâu dài và gian khổ
trải qua nhiều chặng đường và chúng ta hiện đang ở chặng đường đầu tiên với nhiệm vụ
đề ra là: "ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục xây dựng những tiền đề cần
thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa trong chặng đường tiếp theo".
Trong 5 năm trước mắt (1986-1990) cần tập trung sức người sức của thực hiện
bằng được những mục tiêu của 3 chương trình kinh tế: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu. Nội dung của chương trình kinh tế là sự cụ thể hoá nội dung
chính của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong chặng đường đầu tiên. Bước đầu ta đã đạt
được thành tựu mới: xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Phát triển quan điểm kinh tế của đại hội VI,
Hội nghị ban chấp hành Trung ương đã khẳng định phát triển kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần là một chủ trương chiến lược lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Trong chính sách này chúng ta đã chuyển từ công tác kế hoạch pháp lệnh sang kế
hoạch hoá định hướng là chủ yếu. Trong thời gian này đường lối mới của Đảng đề ra từ
Đại hội VI đã thu được những thành quả bước đầu rất quan trọng. Trước tiên trong kinh
tế - xã hội đời sống nhân dân được cải thiện dần dần, ổn định sản lượng lương thực tăng
nhanh đáp ứng nhu cầu trong nước hàng hoá đa dạng thị trường mở rộng, các cơ sở sản
xuất gắn liền với nhu cầu thị trường. Phần bao cấp của nhà nước về vốn, giá, tiền lương
giảm đáng kể, lạm phát được kiểm chế một bước. Các cơ sở kinh tế có điều kiện hạch
toán kinh doanh, mọi mặt của đời sống được nâng lên.
3. Qúa trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta hiện
3.1. Những quan điểm chỉ đạo của Đảng trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa
Nghị quyết hội nghị lần thứ VII ban chấp hành Trung ương Đảng đã cụ thể hoá
thành phần quan điểm chỉ đạo quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước như sau:

9
công nghiệp hóa - hiện đại hóa phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa, định hướng xã hội
chủ nghĩa của quá trình này được xác định bởi 4 nhân tố sau:
Mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài công nghiệp hóa - hiện đại hóa là lợi ích vật
chất và tinh thần của nhân dân gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hiện đại cho một xã hội trong đó nhân dân
làm chủ. Phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc doanh
là chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác dần trở thành nền tảng. Công nghiệp hóa - hiện đại
hóa được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc điều hành và quản lý quá trình đó là nhà nước của dân, do dân và
vì dân.
Giữ vững độc lập tự chủ đi đối với mở rộng hợp tác quốc tế đa phương hoá, đa
dạng hoá quan hệ với nước ngoài kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh, xây dựng nền
kinh tế hướng mạnh sản xuất đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong
nước có hiệu quả.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân của mọi thành phần kinh
tế, nhà nước là chủ toạ được vận hành theo thị trường có sự quản lý của nhà nước, mặt
khác đây là một vấn đề mới so với quan niệm công nghiệp hóa trước đây, cho rằng công
nghiệp hóa chỉ là sự nghiệp của nhà nước, của các tổ chức quốc doanh. Ngày nay chúng
ta cho rằng đó là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế. Nếu toàn xã hội
không nhất trí quan tâm, không đề cao tinh thần tự chủ, tự cường ra sức làm việc có hiệu
quả thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham ô, nếu mọi thành phần không coi đó là sự
nghiệp của chính mình thì công nghiệp hóa - hiện đại hóa không thể thành công được.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa phải lồng việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố căn bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, muốn vậy trong mọi chủ trương,
chính sách phải nhằm giải phóng mọi tiềm năng của con người, phải thường xuyên quan
tâm bồi dưỡng trí lực, thể lực, có chính sách sử dụng nhân tài, tăng trưởng kinh tế phải
gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
3.2. Nội dung chính của ông nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta
Một số cơ sở vật chất kỹ thuật bước đầu phát huy tác dụng. Sau nhiều năm tập
trung xây dựng đất nước, chúng ta đã có một cơ sở vật chất kỹ thuật nhất định, một số
công trình lớn và quan trọng đã được đưa vào sử dụng như nhà máy thuỷ điện Sông Đà,
nhà máy thuỷ điện Trị An, nhà máy xi măng Hoàng Thạch, nhà máy xi măng Bỉm Sơn,
nhà máy giấy Bãi Bằng... Trong nông nghiệp cả nước đã có 654 hồ đập vừa và lớn, hàng
vạn hồ chứa nước, hàng ngàn cống tưới tiêu, hơn 2000 trạm bơm... Tất cả những cơ sở

10
vật chất đó, nếu được điều chỉnh và sử dụng có hiệu quả, rõ ràng sẽ là tiền đề đáng kể cho
sự phát triển nông nghiệp và công nghiệp. Sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng đã thúc
đẩy nền kinh tế phát triển khi chuyển sang cơ chế kinh tế mới cũng là lúc chúng ta không
còn được Liên Xô viện trợ, điều này lúc đầu quả thật có gây cho ta nhiều khó khăn song
nhờ có sự đổi mới tư duy nhất là đổi mới tư duy kinh tế của Đảng, nền kinh tế nước ta
dần dần đi vào ổn định và ngày càng khởi sắc. Sự giúp đỡ quốc tế đối với nước ta ngày
càng mở rộng.
Thực tiễn nước ta có những vấn đề nổi cộm mà muốn giải quyết không thể không
đẩy mạnh công nghiệp hoá. Mặc dù có bước phát triển nhất định nông nghiệp và nông
thôn nước ta cho đến nay vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất - kỹ
thuật còn nhiều mặt yếu kém, công nghệ còn lạc hậu, năng suất lao động và năng suất cây
trồng vật nuôi còn thấp. Nông nghiệp chưa thoát khỏi độc canh lúa. Còn giống và cây
giống chưa đổi mới kịp nhu cầu của thị trường. Sản phẩm làm ra khó bán trở thành nỗi lo
của nông dân. Đời sống nhân dân và bộ mặt nông thôn tuy có thay đổi nhưng chưa nhiều,
năng suất lao động, vật nuôi, cây trồng và ngành nghề tăng chậm, thu nhập và sức mua
của nông thôn còn hạn hẹp, nông nghiệp chưa trở thành thị trường rộng lớn cho sự phát
triển công nghiệp trong bối cảnh đó không thể dừng lại ở sự đổi mới cơ chế kinh tế, mà
phải thông qua công nghiệp hóa để biến đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta.
Hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất kinh doanh và dịch vụ xã hội,
mấy năm gần đây tuy có tiến bộ nhất định song về trình độ còn rất thấp kém so với các
nước trong khu vực, thực trạng này đã và đang cản trở việc hình thành và phát triển kinh
tế thị trường trong nước, cản trở việc mở rộng đầu tư kinh doanh của nước ngoài. Có thể
nói, đã đến lúc không thể giữ mãi tình trạng này, cần thông qua công nghiệp hóa để giải
toả nó, cónhư vậy chúng ta mới có thể phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường. Thúc đẩy
nhanh chóng sự nghiệp công nghiệp hóa bảo đảm hoàn thành về cơ bản sự cơ bản đó
trong vài thập kỷ tới ở nước ta.
Trong lĩnh vực công nghiệp, trình độ công nghệ còn lạc hậu, công nghệ
truyền thống chậm được đổi mới, công nghệ mới hầu như chưa có hoặc chỉ mới bắt đầu
trong điều kiện đó, sản phẩm sản xuất ra khó đứng vững ngay trên thương trường quốc tế.
Nền kinh tế vì vậy cũng khó hội nhập với nền kinh tế các nước trong khu vực và trên thế
giới, lối ra chỉ có thể là ở chỗ đổi mới công nghệ thông qua chuyển dịch cơ cấu công
nghệ, cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Nước ta khá thuận lợi so với một số nước về tài nguyên thiên nhiên, khí hậu và vị
trí địa lý nhưng cho đến nay tiềm năng đó mới được khai thác ở mức thấp để tiềm năng
này được khai thác thoả đáng không thể không đẩy mạnh công nghiệp hóa. Cuối cùng để
thực hiện mục tiêu "dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh" theo định hướng đã
11
chọn đưa nước ta nhanh chóng vượt qua "nghèo nàn kém phát triển" trở thành một nước
phát triển, cũng không thể không đẩy mạnh và hoàn thành về cơ bản sự nghiệp CNH. Tất
cả những dấu hiệu vừa nêu cho ta thấy đã đến lúc chúngta phải chuyển trọng tâm sang
đẩy mạnh công nghiệp hóa. Có như vậy mới tiếp tục giữ vững và phát huy được những
thành tựu làm cho mục tiêu và các quan điểm đổi mới của đảng ta về kinh tế, chính trị và
xã hội nhanh chóng trở thành hiện thực ở nước ta.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá theo mô hình công nghệ và cơ cấu kinh tế đã xác định
cần quán triệt các quan điểm kết hợp hài hoà mục tiêu "dần giàu nước mạnh xã hội công
bằng văn minh" với hiệu quả kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá gắn với quá
trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường. Công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá và
lợi thế của nước phát triển sau về công nghiệp, đổi mới cơ chế kinh tế gắn với đổi mới
xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Công nghiệp hoá có nhiều con đường, có con đường cổ điển của những nước tư
bản phát triển như Anh, Pháp trải qua từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Thường đó là
những nước có nền khoa học công nghệ tiên tiến do đó những bước tiến công nghiệp hóa
– hiện đại hóa thường gắn liền với những sáng chế phát minh của chính nó hoặc của thời
đại. Vì vậy quá trình công nghiệp hóa thường kéo dài hàng trăm năm theo đà của sự phát
triển khoa học kĩ thuật. Ngày nay các nước đi sau tình hình đã đổi khác để giải quyết một
vấn đề trong công nghiệp hóa có rất nhiều giải pháp hay công nghệ đã sẵn sàng đem sử
dụng. Vấn đề ở đây là phải nắm bắt kịp thời những công nghệ hiện đại nhất phù hợp với
hoàn cảnh của đất nước. Do đóông nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa là một khả năng, một
nhu cầu của các nước đi sau. Tuy nhiên để thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước cần phải nhận thức đánh giá vấn đề sau một cách đúng đắn cụ thể.
Cùng với việc tiếp cận công nghệ hiện đại cần phải chú ý đẩy mạnh của công nghệ
thông thường truyền thống không chỉ áp dụng các công nghệ tiên tiến mà còn phải biết
tận dụng và hiện đại hoá công nghệ truyền thống. Đối với khu vực công nghệ truyền
thống và cơ khí thông thường còn về mặt đầu tư của nhà nước để phát triển tiềm lực khoa
học và định hướng cho các hoạt động nghiên cứu triển khai chủ yếu là phải tập trung vào
các lĩnh vực công nghệ cao như điện tử, tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới, cơ khí
chính xác và tự động hoá... Để tạo điều kiện cần thiết cho việc đi thẳng, đi nhanh vào lĩnh
vực công nghệ cao, không tự hạn chế trong các điều kiện tiền đề hiện có, công nghệ cao
có nhiệm vụ. Hình thành một lĩnh vực công nghệ mới trên cơ sở các công nghệ cao
nhằm làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa. Thâm nhập vào công
nghệ truyền thống và cơ khí thông thường để hiện đại hoá và nâng cao hiệu quả công
nghệ đó.

12
Trong những năm trước mắt nhiệm vụ thứ 2 là rất quan trọng và cấp bách bởi vì
trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa với bên ngoài. Những cơ sở sản xuất áp
dụng công nghệ truyền thống và công nghệ cơ khí. Thông thường không nâng được năng
suất và chất lượng sản phẩm không đảm bảo được khả năng cạnh tranh ngay cả trong
trường hợp có sự bảo hộ của nhà nước. Những cơ sở đó không thể đứng vững, phải thu
hẹp hoặc đóng cửa, sự thật đã diễn ra tại một số nơi trong thời gian qua.
Về mặt quản lý kinh tế - xã hội nếu không áp dụng rộng rãi các thành tựu của điện
tử và tin học thì không thể nâng cao được trình độ quản lý lên ngang tầm thời đại, một
đòi hỏi cấp bách hiện nay của giao lưu kinh tế. Những biểu hiện của nền kinh tế đã được
hiện đại hóa được quy định bởi mức sống cao do cách mạng công nghệ, trình độ chuyên
môn cao trong sản xuất và năng suất lao động cao. Hiện đại hóa kinh tế còn được biểu
hiện ở sự gia tăng của vốn với những quy mô tích luỹ và đầu tư hiện đại, sự tham gia
rộng rãi vào thị trường trên cơ sở một kết cấu hạ tầng hiện đại về giao thông vận tải và
thông tin liên lạc. Hiện đại hóa nền kinh tế cũng không tách rời một bộ máy hành chính
quản lý hữu hiệu, một học vấn càng nâng cao của người lao động, một sự phổ cập rộng
rãi các trí thức khoa học và đổi mới công nghệ.
3.3. Những điều kiện thuận lợi và khó khăn, thành tựu và một số giải pháp trong quá trình
thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta
Thuận lợi: Nước ta tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong một tình hình
chính trị xã hội ổn định, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước đã hình thành và bức đầu có sự phát triển nguồn lực -
vật chất được tăng cường, mức sống của nhân dân dần được ổn định, sản lượng lương
thực thực phẩm đã tăng đáng kể, nền kinh tế bắt đầu tích luỹ, vốn đầu tư toàn xã hội năm
1990 chiếm 15,8% GDP, đến năm 1995 lên 27,4% GDP, sự nghiệp giáo dục của đất nước
có nhiều tiến bộ cải tiến, trình độ dân trí được tăng lên, sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước có thêm kinh nghiệm, tự do quan hệ với bên ngoài, sau khi Mỹ đã bãi bỏ lệnh cấm
vận với nước ta lại nằm trong một khu vực đang phát triển mạnh lôi kéo sự đầu tư của
khắp thế giới.
Những khó khăn thách thức: Nền kinh tế nước ta được xếp vào hạng chậm phát
triển, lạm phát còn chưa được hạn chế, nguồn vốn hạn chế mà lại phải đương đầu với
cuộc cạnh tranh quyền lực về kinh tế và thương mại, tình hình quốc phòng và an ninh còn
phức tạp, công tác giáo dục và đào tạo, nghiên cứu và triển khai chưa theo yêu cầu. Đội
ngũ cán bộ còn yếu, bố trí sử dụng chưa hợp lý. Bộ máy của Đảng và Nhà nước và các
đoàn thể còn cồng kềnh, kém hiệu lực, tình trạng tham nhũng, quanliêu lãng phí nghiêm
trọng.

13
Những thành tựu đạt được: Công nghiệp hóa – hiện đại hóa là chủ trương xuyên
suốt và nhất quán của Ðảng, Nhà nước ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sau hơn 35 năm đổi mới, nhất là trong 10 năm (2011-2020), Công nghiệp hóa – hiện đại
hóa đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức cao, đạt bình quân 6,17%/năm, chất lượng
tăng trưởng được cải thiện, quy mô nền kinh tế tăng nhanh, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao
động chuyển dịch tích cực với tỷ trọng đóng góp vào GDP của công nghiệp và dịch vụ
đạt 72,7% vào năm 2020, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung
bình.

Công nghiệp được cơ cấu lại theo hướng giảm tỷ trọng ngành khai khoáng, tăng
nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; đã hình thành được một số ngành
công nghiệp có quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh và vị trí vững chắc trên thị trường
quốc tế. Đặc biệt, trong giai đoạn 2011-2020, với việc đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế,
Việt Nam đã trở thành một trong những trung tâm công nghiệp của khu vực và của thế
giới, thuộc nhóm ASEAN-4 và nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh công nghiệp
trung bình cao.

Theo Bộ Công Thương, quy mô sản xuất công nghiệp của Việt Nam ngày càng
mở rộng với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng cao (bình quân 7,7%/năm), tốc độ
tăng trưởng giá trị tăng thêm bình quân tăng khá cao (7,4%/năm). Đáng chú ý, đến nay,
công nghiệp vẫn là ngành thu hút đầu tư FDI lớn nhất với tốc độ tăng trưởng cao (tăng
gần 2 lần cả về quy mô và tỷ trọng trong 10 năm qua), đặc biệt là trong công nghiệp chế
biến, chế tạo (chiếm hơn 60% vốn đầu tư vào các ngành và khoảng 20% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội) với một số dự án đầu tư lớn của các tập đoàn công nghệ toàn cầu, từ đó tạo
động lực tăng trưởng mới cho Ngành và góp phần hình thành nên các trung tâm công
nghiệp mới của Đất nước.

Ngành Nông nghiệp tăng trưởng ổn định và bền vững, từng bước được cơ cấu lại
theo hướng hiện đại. Nông nghiệp đã phát huy vai trò bệ đỡ của nền kinh tế, ổn định đời
sống nhân dân. Sản xuất nông nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân, đặc biệt nông nghiệp cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến góp phần đẩy
nhanh tăng trưởng ngành Công nghiệp, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.

Năm 2022, ngành Nông nghiệp phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP đạt từ 2,8-3%,
cao hơn so với Chính phủ giao 2,5-2,8%. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản
năm 2022 khoảng 55 tỷ USD, cao hơn Chính phủ giao 5 tỷ USD... Bên cạnh đó, đóng
góp của ngành Dịch vụ vào tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng; đã hình thành được một
số ngành dịch vụ có hàm lượng khoa học và công nghệ (KH&CN) cao...

14
Một số giải pháp:

Đối với nhà nước:


Một là, cần quán triệt nhận thức trong toàn thể đội ngũ cán bộ, công chức của nền
hành chính, đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo về những tác động của cuộc công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đối với nền hành chính nhà nước.
Hai là, cần tích cực hoàn thiện hệ thống thể chế của nền hành chính, tạo hành lang
pháp lý cho sự phát triển của các ngành, lĩnh vực đáp ứng yêu cầu phát triển của cuộc
cách mạng công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Ba là, đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu công nghệ hiện đại vào hoạt động quản lý
của các cơ quan hành chính nhà nước.
Bốn là, xây dựng đội ngũ công chức hành chính có cơ cấu phù hợp, đổi mới công
tác tuyển dụng và công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ, năng lực cho đội
ngũ công chức, bảo đảm đội ngũ công chức có thể ứng dụng nhiều thành tựu công nghệ
hiện đại của cuộc cách mạng công nghiệp hóa – hiện đại hóa vào công tác quản lý, điều
hành.
Năm là, các cấp, ngành cần nhanh chóng rà soát, xây dựng chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch hành động để sẵn sàng các điều kiện và thực hiện ngay từ bây giờ việc hội nhập,
hợp tác, đưa Việt nam vào nhóm nước đi đầu trong việc chủ động đón nhận cuộc một
cách hiệu quả, tránh bị thụt hậu xa hơn trong cuộc cách mạng này.
Đối với doanh nghiệp:
Thứ nhất, các doanh nghiệp phải linh động điều chỉnh sản phẩm theo nhu cầu
người tiêu dùng, tích hợp các công nghệ tiên tiến để giản tiện quy trình sản xuất, giảm
thời gian giao hàng, rút ngắn vòng đời sản phẩm nhưng vẫn đảm bảo khả năng quản lý
sản xuất và chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, …
Thứ hai, tối ưu hóa mô hình kinh doanh. Để đạt được điểu này, các doanh nghiệp
cần phải phát triển các kỹ năng mới cho từng cá nhân cũng như cho tổ chức. Nếu chỉ tiếp
cận vấn đề từ một phía sẽ dễ tạo ra các phản ứng tiêu cực trong hệ thống tổ chức. Ngược
lại nếu tiếp cận từ hai phía sẽ có tác động tích cực tới người lao động.
Thứ ba, xây dựng chuỗi cung ứng thông minh cách mạng công nghiệp hóa – hiện
đại hóa sẽ tạo ra một mô hình chuỗi cung ứng mới gắn kết chặt chẽ hơn với nhu cầu của
khách hàng. Chuỗi cung ứng mới này sẽ tạo ra một cơ sở dữ liệu duy nhất, làm cho chuỗi
cung ứng thông minh hơn, minh bạch hơn và hiệu quả hơn ở mọi giai đoạn từ khi phát
sinh nhu cầu cho đến giao hàng.
Năm là, ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ mới trong cách mạng công
nghiệp hóa – hiện đại hóa vào công tác quản trị doanh nghiệp, thi công, quản lý dự án,
quảng bá, giới thiệu dự án, kinh doanh sản phẩm bất động sản qua mạng, đặc biệt là
nghiên cứu ứng dụng công nghệ blockchain vào kinh doanh bất động sản, để nâng cao

15
năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp; coi trọng việc hợp tác với
các nhà đầu tư vàdoanh nghiệp nước ngoài để tăng thêm nguồn lực tài chính, nâng cao
năng lực quản trị doanh nghiệp, tăng thêm tính đa dạng của sản phẩm bất động sản nhưng
vẫn giữ được bản sắc kiến trúc Việt Nam.        
Đối với người lao động:
Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân lao động, đặc biệt là người
lao động ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Từng bước thực hiện chính sách tiền
lương bảo đảm đời sống cho người lao động và có tích lũy từ tiền lương; đồng thời, mở
rộng cơ hội cho công nhân mua cổ phần trong doanh nghiệp, nhằm góp phần xây dựng
quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ, giảm thiểu tranh chấp lao động và đình
công trong doanh nghiệp. Các cơ quan chức năng và tổ chức công đoàn cần tăng cường
công tác kiểm tra, thanh tra để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người
lao động, xử lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm quyền lợi của người lao động. Xây
dựng và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp, chính sách cụ thể giải quyết nhà ở cho người lao động. Khi phê duyệt các khu
công nghiệp, khu chế xuất, cần yêu cầu dành quỹ đất tương xứng để xây dựng nhà ở và
các công trình dịch vụ thiết yếu cho công nhân. Chú trọng chăm lo xây dựng đời sống
văn hóa - tinh thần, nhất là quan tâm tới các dịch vụ văn hóa, thể thao, chăm sóc sức khỏe
cho người lao động. 
Nâng cao chất lượng đào tạo nghề, phát triển đội ngũ công nhân có trình độ cao,
ngày càng làm chủ được khoa học - công nghệ, có kỹ năng lao động, tác phong công
nghiệp, ý thức kỷ luật. Cần kịp thời bổ sung, sửa đổi, xây dựng chính sách đào tạo và đào
tạo lại công nhân; tạo điều kiện cho họ tự học tập nâng cao trình độ; điều chỉnh, bổ sung
quy hoạch mạng lưới các cơ sở dạy nghề gắn với các ngành, các vùng kinh tế trọng điểm.
Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế dành kinh phí và thời gian
thích đáng cho đào tạo, đào tạo lại công nhân.

16
KẾT LUẬN
Sau hơn 30 năm đổi mới và thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn, góp phần quan trọng đưa nền kinh tế đạt
tốc độ tăng trưởng khá, thúc đẩy công tác xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành công đã đạt được, quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời
gian qua cũng đang bộc lộ những hạn chế nhất định như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa
tương xứng với tiềm năng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, năng lực cạnh tranh so với
các nước trong khu vực còn thấp, chất lượng nhân lực chưa cao, hệ thống kết cấu hạ tầng
còn chậm phát triển.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang lan rộng ra toàn cầu như
hiện nay, Việt Nam muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải
thực hiện những giải pháp mang tính đồng bộ, phải quyết liệt chuyển đổi mô hình kinh tế,
nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn; chú trọng quá trình tái cơ cấu nền kinh tế,
góp phần phát huy khả năng cạnh tranh ở cấp độ quốc gia, địa phương, ngành, sản phẩm.
Bên cạnh đó, cần chú ý nâng cao vai trò định hướng của Nhà nước trong đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội gắn với thu hút đầu tư của khu vực tư nhân; tạo các cơ chế tài chính, hình
thành các chính sách phù hợp khuyến khích đầu tư. Chỉ khi thực hiện được cái giải pháp
một cách hợp lý, đồng bộ và hiệu quả thì quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới
càng được đẩy mạnh phát triển, đóng góp quan trọng cho việc xây dựng một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lenin, Hà Nội, 2005.
2. Thực trạng quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ở Việt Nam – Hoàng Bình
3. Những vấn đề lý luận đặt ra từ các văn kiện Đại hội IX của Đảng.GS.TS.Nguyễn
Trọng Chẩn – Nxb Chính trị Quốc gia.
4. doc.edu.vn/tai-lieu/tieu-luan-vai-tro-cua-luc-luong-san-xuat-trong-doi-song-xa-hoi-
va-su-van-dung-vao-qua-trinh-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa
5. Bộ Công Thương (2017), Tài liệu Diễn đàn CMCN 4.0, tổ chức ngày 11/4/2017;
6. Accenture Consulting (2017), Manning the Mission for Advanced Manufacturing:
New Demands on Talent in Singapore’s Energy, Chemicals and Utillities Industries;
7. Ủy ban khoa học công nghệ môi trường của Quốc hội (2018), tài liệu Diễn đàn Khoa
học và công nghệ với DN Việt Nam trong CMCN 4.0, tổ chức ngày 16/5/2018;
8. https://tapchitaichinh.vn/day-manh-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc-den-
nam-2030.html

18

You might also like