You are on page 1of 17

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

MÔN: KINH TẾ BÁO CHÍNH TRỊ MÁC –


LÊNIN
CHỦ ĐỀ CÁO
QUÁ TRÌNH
TIỂU
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở
CÔNG NGHIỆP

VIỆT NAM
LUẬN

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC –


LÊNIN
CHỦ ĐỀ
BÁO
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở CÁO
VIỆT NAM ABC

Sinh viên
TIỂU thực hiện: ĐOÀN
VĂN HUY
Lớp:
Mã sinh viên:
LUẬN CNTT K20 CLC

DTC2154802014015
Giảng viên: Trần Thuỳ Linh

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2022

3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................4
NỘI DUNG......................................................................................................5
CHƯƠNG I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP
HÓA HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM.......................................................................5
1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa................................................5
2. Tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.......................................6
2.1. Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa............................................8
2.2. Những cơ hội và thách thức đối với sự nghiệp công nghiệp hoá và
hiện
đại hoá ở Việt
Nam...............................................................................................9
CHƯƠNG II. VẤN ĐỀ TIỀN LƯƠNG, CẢI CÁCH TIỀN LƯƠNG Ở VIỆT
NAM………………………………………………………………………………..11
1. Nội dung chủ yếu của công nghiệp hóa-hiện đại hóa............................11
2. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội........12
2.1. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý..........................................................12
2.2. Tiến hành phân công lại lao động xã hội............................................13
3.Những giải pháp để thực hiện công nghiệp hóa,hiện đại hóa ở Việt
Nam14
3.1. Huy động nguồn vốn từ bên ngoài......................................................15
KẾT LUẬN.........................................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................17

4
MỞ ĐẦU
Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển vượt bậc như hiện nay, việc tập
trung phát triển kinh tế là cuộc chạy đua dường như không có hồi kết giữa các quốc
gia trên thế giới. Các nước luôn tìm mọi cách nhằm đưa đất nước của mình tiến xa
hơn so với các nước khác, đặc biệt là các nước TBCN với nguồn vốn lớn và kỹ
thuật hiện đại luôn có tham vọng muốn thâu tóm thị trường thế giới.
Trước tình hình đó, đối với Việt Nam, ngoài việc đặt nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước lên tiêu chí hàng đầu, thì cần phải chú trọng
nhiều hơn nữa vào công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Một đất nước nghèo nàn, lạc hậu thì cũng đồng nghĩa
với đất nước đó sẽ là con nợ, sẽ lệ thuộc, và thậm chí có thể trở thành thuộc địa của
những nước khác. Điều này đúng đối với Việt Nam, khi mà nước ta đi lên CNXH
từ một nước phong kiến nghèo nàn lạc hậu, bỏ qua giai đoạn TBCN. Việc tiến hành
CNH, HĐH là một chiến lược “đi tắt đón đầu” hết sức cần thiết và cấp bách. Công
cuộc này đã và đang được toàn thể Đảng và dân tộc Việt Nam thực hiện hết sức
khẩn trương và bước đầu đã đem lại nhiều thành công thắng lợi.
Có thể nói công nghiệp hoá,hiện đại hoá là một tất yếu lịch sử trong quá trình
xây dựng CNXH ở Việt Nam. Đó là con đường chắc chắn sẽ giúp nước nhà thoát
khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, đưa nước ta trở thành một nước có nền kinh tế
vững mạnh, có thể sánh vai cùng các cường quốc kinh tế trên thế giới.
Từ thực tế đó, kết hợp với những kiến thức tổng hợp từ các tài liệu có liên quan,
em quyết định chọn đề tài “ QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI
HÓA Ở VIỆT NAM ”

5
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hoá
Công nghiệp hóa hiện đại hóa là một quá trình chuyển đổi mang tính chất
căn bản và toàn diện về những hoạt động kinh tế và quản lý kinh tế, xã hội. Từ việc
sử dụng sức lao động thủ công là chính sẽ được chuyển sang sử dụng sức lao động
với công nghệ, phương tiện và các phương pháp hiện đại, tiên tiến để giúp tạo ra
năng suất lao động hiệu quả nhất.
Khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được Đảng xác định rộng
hơn và bao hàm cả các hoạt động sản xuất, kinh doanh với cả dịch vụ và quản lý
kinh tế – xã hội. Tất cả đều được sử dụng trên những phương tiện hiện đại cùng với
kỹ thuật và công nghệ cao.
Có thể thấy rằng công nghiệp hóa hiện đại hóa theo tư tưởng mới không còn
bị bó hẹp về phạm vi trình độ những lực lượng sản xuất và kỹ thuật đơn thuần
nhằm chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí giống như các quan niệm
trước đây.
Quan niệm nêu trên cho thấy, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước
ta phải kết hợp chặt chẽ hai nội dung công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong quá
trình phát triển. Quá trình ấy, không chỉ đơn thuần phát triển công nghiệp mà còn
phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền
kinh tế quốc dân theo hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Quá trình ấy không
chỉ tuần tự trải qua các bước cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá, mà còn sử dụng
kết hợp kỹ thuật thủ công truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh
vào hiện đại ở những khâu có thể và mang tính quyết định.
Do những biến đổi của nền kinh tế thế giới và điều kiện cụ thể của đất nước,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện cơ chế thị trường có sự điều
tiết của Nhà nước.

6
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế và Việt
Nam tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nước ta đang trong quá trình chuyển từ một nền kinh tế lạc hậu mang tính
chất tự nhiên sang một nền kinh tế thị trường có nghĩa là chúng ta đang trong quá
trình thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ sang
một nền kinh tế sản xuất lớn ngày càng hiện đại. Một nền sản xuất lớn đòi hỏi phải
có một cơ cấu cơ sở hạ tầng và những công cụ lao động ngày càng tiến bộ. Để tạo
lập ra những cơ sở vật chất kỹ thuật đó thì theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác, mọi
quốc gia đều phải tiến hành quá trình công nghiệp hoá -hiện đại hoá.
Cơ sở kỹ thuật là hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội
phù hợp với trình độ kỹ thuật công nghiệp thích ứng của nó mà lực lượng lao động
xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất.
Chúng ta không chỉ dừng lại ở việc cơ khí hoá các tư liệu sản xuất mà còn
ngày càng hiện đại hoá ở trình độ công nghệ tiên tiến và thường xuyên đổi mới.
Đây là một nhiệm vụ khó khăn và mang tính chất quyết định đối với sự sống còn
của mỗi quốc gia. Chỉ có tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất hiện đại
mới có thể làm thay đổi căn bản đời sống vật chất cũng như tinh thần của xã hội,
đẩy nhanh tốc độ phát triển tăng năng xuất lao động, ngày càng thoả mãn và đáp
ứng nhu cầu cuả nhân dân. Công nghiệp hoá hiện đại hoá chính là con đường và
bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật đó.
Công nghiệp hoá hiện đại hoá được hiểu là “Quá trình chuyển đổi căn bản
toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng
với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiêu biểu hiện đại dựa trên sự phát
triển của công nghệ và tiến bộ khoa học cồng nghệ tạo ra năng xuất lao động cao”.
Như vậy, trong điều kiện thế giới đang chuyển từ văn minh công nghiệp sang
hậu công nghiệp, nhiều nước châu Á đã chọn con đường “công nghiệp hoá đuổi kịp
để nhanh chóng hoà nhập vào nền văn minh hiện đại, biến những vùng nghèo nàn
lạc hậu trước đây thành những xã hội hiện đại” Các nước này đã tạo nên những
kinh nghiệm bổ ích, thiết thực cho các nước đang phát triển trong đó có nước ta.
Ở các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng công nghiệp hoá
là điều cấp bách sống còn.Công nghiệp hoá là chìa khoá của sự phát triển đặc biệt
gắn chặt với sự phát triển đặc biệt gắn chặt với sự tăng trưởng bởi vì “công nghiệp
hoá chẳng phải là cái gì khác ngoài một phương tiện đặc biệt mạnh mẽ để tăng
7
năng xuất của con người qua đó mà tăng số lượng sản phẩm, tính đa dạng và số
lượng sản phẩm. Các nước gọi là phát triển khác hẳn các nước khác chính là ở chỗ
là công nghiệp hoá”.
Công nghiệp hoá tạo nên nền kinh tế hiện đại với những ưu thế nổi bật: năng
suất cao, cơ cấu sản suất đa dạng, công ăn việc làm phong phú hơn nhiều so với
một nền kinh tế chưa công nghiệp hoá.
Để đạt được hiệu quả cao thì công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá,
kết hợp với những bước tiến tuần tự về công nghệ vận dụng phắt triển chiều rộng,
tạo nhiều công ăn việc làm cho đội ngũ đông đảo lao động hiện nay. Với việc tranh
thủ với bước đi tắt đón đầu phát triển chiều sâu tạo nên những mũi nhọn theo trình
độ phất triển của khoa học và công nghệ trên thế giới. Khoa học và công nghệ hiện
đại là nhân tố then chốt của hiện đại hoá, nhưng hiện đại hoá có nội dung sâu sắc
và rộng lớn hơn nhiều, bao gồm các mặt kinh tế, chính trị và văn hoá.
Hiện đại hoá là quá trình mà nhờ đó các nước đang phát triển tìm cách đạt
được sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, tiến hành cải cách chính trị và củng cố xã
hội của họ nhằm tiến tới một hệ thống kinh tế xã hội chính trị văn minh tiên tiến .
Công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước con người những vấn đề nan giải cả
trong quan hệ giữa con người với con người và con người với thiên nhiên. Để giải
quyết những vấn đề này chúng ta phải thay đổi sâu sắc cách nhìn, cách nghĩ và
hành động của mình. Nắm bắt được tư tưởng đó, Đảng ta đã xác định thực chất của
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là quá trình thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực
hiện sự phân công mới về lao động xã hội là quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa để
không ngừng quá trình tái sản xuất mở rộng. Đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa được xác định là ưu tiên cho phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý
trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Như vậy, không còn như
trước kia coi công nghiệp nặng là công nghiệp hàng đầu tuyệt đối.
Công nghiệp hóa và hiện đại hoá có những nét riêng đối vơí từng nước
nhưng đó chỉ là sự vận dụng một quá trình chuyển đổi có tính chất phổ biến cho
phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước mà thôi. Công nghiệp hoá và hiện đại
hoá là quá trình rộng lớn và phức tạp, bản chất của quá trình này bao gồm các mặt
sau:
- Trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại cho nền kinh tế.
- Xây dựng một cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý.
Thực hiện tốt công nghiệp hoá và hiện đại hoá có ý nghĩa vô cùng to lớn:
làm thay đổi lực lượng sản xuất thay đổi căn bản công nghệ kỹ thuật, công nghệ
8
sản xuất tăng năng xuất lao động tạo ra tốc độ phát triển cao, thực hiện xã hội hoá
về mặt khoa học kỹ thuật. Hơn thế nữa trong nền kinh tế thị trường hiện nay, mối
quan hệ giữa các ngành là rất phức tạp và đa dạng đòi hỏi phải không ngừng nâng
cao năng lực quản lý, điều tiết vĩ mô của nhà nước, tạo khả năng tích luỹ vốn. Tất
cả chỉ có thể thực hiện nhờ quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Chỉ có công
nghiệp hóa và hiện đại hoá mới có khả năng thực tế để quan tâm phát triển tự do
toàn diện của yếu tố con người tạo khả năng mở rộng hợp tác quốc tế và củng cố
quốc phòng.
Nắm bắt được tầm quan trọng vấn đề, sự bức bách phải công nghiệp hóa hiện
đại hoá để xử lý nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, không phải bây giờ mà ngay từ
đại hội VIII( tháng 9-1996), Đảng ta đã đề ra đường lối công nghiệp hoá và coi đó
là nhiệm vụ xuyên suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Trong những năm đất nước có chiến tranh Đảng và nhà nước ta vẫn kiên trì
đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá để từ đó tạo ra sức mạnh cho đất nước.
Ngày nay trong công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng XHCN, các nghị quyết
Đại hội Đảng( từ đại hội VI đến đại hội VIII) đều kiên định đường lối đổi mới và
đề ra những nội dung cụ thể thích hợp cho từng thời kỳ.
Đại hội Đảng VIII đã nêu rõ: “ Giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất
quan trọng của thời kỳ phát triển mới- đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước”.
Với tất cả ý nghĩa to lớn trên, công nghiệp hoá và hiện đại hoá là tất yếu và mang
tính khách quan là nội dung và con đường duy nhất đúng đắn để dựa trên kinh tế xã

2.1. Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thực hiện đúng đắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ có những
tác dụng to lớn về nhiều mặt trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước:
- Tạo điều kiện thay đổi về chất nền sản xuất xã hội, tăng năng suất lao động,
tăng sức chế ngự của con người đối với thiên nhiên, tăng trưởng và phát triển kinh
tế, nâng cao đời sống nhân dân, ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, góp
phần quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
- Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng cường vai trò kinh tế của Nhà
nước, nâng cao năng lực quản lý, khả năng tích luỹ và phát triển sản xuất, tạo ra

9
nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, giúp cho sự phát triển tự do toàn diện của con
người trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học và công nghệ phát triển nhanh đạt
trình độ tiên tiến hiện đại. Tăng cường lực lượng vật chất - kỹ thuật cho quốc
phòng, an ninh; bảo đảm đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ngày càng
được cải thiện. Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,
đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế.
Sự phân tích trên cho thấy mối quan hệ gắn bó trực tiếp giữa công nghiệp
hóa, hiện đại hóa với lực lượng sản xuất. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là để thực
hiện xã hội hóa sản xuất về mặt kinh tế - kỹ thuật theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nó có tác dụng, ý nghĩa quan trọng và toàn diện. Vì vậy, Đảng ta xác định:
"Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại... là
nhiệm vụ trung tâm"1 trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
2.2. Những cơ hội và thách thức đối với sự nghiệp công nghiệp hoá và
hiện
đại hoá ở Việt Nam.
Thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN
là con đường phất triển của đất nước ta trong giai đoạn mới.
Trong cuộc hành trình đi đến tương lai chúng ta không quên rằng đất nước
mình còn nghèo nàn, lạc hậu, khoảng cách về trình độ phát triển so với các nước
quanh ta còn khác xa, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế vẫn là thách đố gay gắt.
Một số thế lực vẫn muốn âm mưu diễn biến hoà bình để chống phá cách mạng
nước ta. Trong khi đó nạn quan liêu tham nhũng vẫn còn là nguy cơ lớn.
Tuy nhiên, chúng ta có những điều kiện và những khả năng để thực hiện
thắng lợi công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Những yếu tố thuận lợi
do môi trường quốc tế đem lại cùng những bước chuyển mạnh mẽ do chúng ta tạo
ra đã trở thành nguồn lực tổng hợp để đưa đất nước đi lên.
Môi trường quốc tế hiện nay có nhiều biểu hiện tích cực rất thuận lợi cho sự
phát triển. Đó là xu hướng quốc tế hóa với việc phân công lao động không ngừng
phát triển là tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghệ, đặc biệt là xu thế
hoà bình, hợp tác trong khu vực và trên toàn thế giới.Bối cảnh chung đó giúp
những nước đi sau như nước ta có điều kiện để nhìn trước trông sau, tìm ra cho
mình những nhân tố hợp lý, rút ra cho mình những bài học thành công của các
nước đi trước về nhiều lĩnh vực, từ quản lý kinh tế vĩ mô thúc đẩy doanh nghiệp
đến bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn bản sắc dân tộc.
10
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang quốc tế hoá và khu vực hoá xu thế
hoà bình và hợp tác đang phát triển. Chúng ta có thể tranh thủ được những khả
năng về vốn, thị truờng, công nghệ và quản lý thế giới. Đặc biệt là trong những
năm tới những thuận lợi đó đang phát triển theo hướng thuận lợi hơn nữa cho
chúng ta, đó là những thành tựu của công cuộc đổi mới mở rộng quan hệ đối ngoại
của chúng trong những năm gần đây( gia nhập ASEAN, bình thường hoá quan hệ
với Hoa Kỳ, ký hiệp định chung với EU) cũng như những diễn biến trên thế giới
tạo cho chúng ta những thụân lợi mới, tình hình chính trị, xã hội nước ta ổn định.
Sự kịên Việt Nam trở thành thành viên chính thức cuả ASEAN ngày 28/7/1975 và
lệnh cấm vận của Mỹ ở Việt Nam bãi bỏ ngày 3/2/1994 mở ra một hướng phát triển
mới của nền kinh tế Việt Nam. Chúng ta có thêm điều kiện thuận lợi để hội nhập
với khu vực và thế giới, tham gia tích cực vào quá trình phân công lao động hợp tác
quốc tế.
Hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt là luật đầu tư đang từng bước được
sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện, tình hình kinh tế xã hội trong nước ổn định…., cũng
là những yếu tố góp phần tạo dựng một môi trường đầu tư thuận lợi, thu hút nguồn
đầu tư từ các doanh nghịêp, các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước vào Việt Nam.
Một thế lợi nữa mà chúng ta phải kể đến đó là nguồn tài nguyên Việt Nam. Việt
Nam có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng có vùng biển và thềm lục địa rộng
lớn với chiều dài bờ biển 3.260km, diện tích vùng biển, thềm lục địa thuộc quyền
tài phán quốc gia rộng lớn gấp 8 lầndiện tích đất liền gắn với một tiềm năng phát
triển tổng hợp được đánh giá là to lớn và đa dạng. Thực tiễn cho thấy, những nước
biết tận dụng và khai thác lợi thế tiềm năng một mặt của biển đã đạt được tốc độ
phát triển kinh tế cao. Những “Con rồng” Châu A đều là những quốc gia lãnh thổ
hải đảo hoặc bán đảo của các ngành kinh tế biển luôn đóng vai trò mũi nhọn trong
phát triển.
Về yếu tố thị trường, chúng ta đang phải đối mặt với những điều kiện cạnh
tranh gay gắt hơn so với giai đoạn thập niên 1960-1970.Thị trường Việt Nam ra đời
còn quá non trẻ, một mặt còn thiếu nhiều yếu tố thị trường như thị trường tiền tệ,
thị trường lao động bất động sản kể cả thị trường chất xám…mặt khác cơ chế thị
trường vận động còn những trục trặc chưa thật thông suốt. Trong khi đó các đối thủ
cạnh tranh với Việt Nam có nhiều lợi thế hơn về trình độ công nghệ, kinh nghiệm
buôn bán quốc tế.
Có thể nói rằng công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình lâu dài đầy khó
khăn gian khổ đòi hỏi chúng ta phải hết sức nỗ lực phấn đấu. Trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ chiến lược này, chúng ta phải đối mặt với nhiều khó khăn thử thách
nhưng chúng ta cũng có đủ những điều kiện và khả năng để thực hiện thành công
11
sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước mà toàn Đảng, toàn dân ta đã đề
ra quyết tâm thực hiện.
.
CHƯƠNG II. NỘI DUNG CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ
HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC Ở VIỆT NAM
1. Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá mặc dù có thể để lại những hậu quả tiêu cực như làm suy
thoái môi trường gây ảnh hưởng xấu đến những giá trị văn hoá truyền thống…
nhưng nó vẫn hiện là một giai đoạn phát triển mà các quốc gia trừ một nền kinh tế
chủ yếu dựa vào nông nghiệp muốn vượt lên với trình độ phát triển cao đều nhất
thiết phải trải qua.
Xuất phát từ những điều kiện thuận lợi và khó khăn kể trên, Đảng ta đã chủ
trương tiến hành công nghiệp hoá và hiện đại hoá theo hai nội dung cơ bản:
- Trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại cho nền kinh tế.
- Xây dựng một cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý và phân công lại lao động
xã hội
1.2. Trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại cho nền kinh tế
Để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá trong điều kiện kỹ thuật ngày
nay, quá trình trangbị công nghệ hịên đại cho các ngành kinh tế là vô cùng quan
trọng, nó phải gắn liền với quá trình hiện đại hóa cả ở phần cứng và phần mềm của
công nghệ.
Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật lần thứ nhất nổ ra khoảng những năm 30 cuối thế kỷ XVIII và
diễn ra đầu tiên ở nước Anh với nội dung chủ yếu là chuyển lao động thủ công lên
lao động cơ khí hoá. Cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ hai diễn ra vào khoảng thế
kỷ XX với tên gọi là cuộc cách mạng kỹ thuật công nghệ hiện đại.
Cả hai cuộc cách mạng trên khoa học- kỹ thuật thế giới đã và đang đóng vai
trò to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong tất cả các nước
nhất là các nước có nền kinh tế kém phát triển. Nó tạo ra nền móng vững chắc của
cơ sở hạ tầng, là quá trình áp dụng những thành tựu khoa học vào thực tế tạo ra tư
liệu sản xuất, nhà xưởng, bến bãi… hiện đại, phù hợp với điều kiện và đặc điểm
của từng nước hay nói cách khác là xây dựng một kết cấu hạ tầng đủ mạnh.

12
Kết cấu hạ tầng chi phối tất cả các giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Trải
qua kinh nghiệm của các nước thành công ở châu Á- Thái Bình Dương trong những
năm gần đây, chúng ta càng thấy vai trò và sự bức bách của nhu cầu củng cố, mở
rộng và phát triển cơ sở hạ tầng.
Và trong quá trình thực hiện cách mạng khoa học và công nghệ, chúng ta cần
chú ý:
- ứng dụng những thành tựu mới, tiên tiến về khoa học và công nghệ, đặc
biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và từng bước phát triển nền kinh tế tri thức.
- Sử dụng công nghệ mới gắn với yêu cầu tạo nhiều việc làm, tốn ít vốn,
quay vòng nhanh, giữ được nghề truyền thống; kết hợp công nghệ cũ, công nghệ
truyền thống với công nghệ hiện đại.
- Tăng đầu tư ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho khoa học và
công nghệ; kết hợp phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, xây dựng mới, cải tạo cũ,
thực hiện tiết kiệm, hiệu quả.
- Kết hợp các loại quy mô lớn, vừa và nhỏ cho thích hợp; ưu tiên quy mô vừa
và nhỏ, coi trọng hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế - xã hội.
2. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội
2.1. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành, cùng với vị trí, tỷ trọng và
quan hệ tương tác phù hợp giữa các bộ phận trong hệ thống kinh tế quốc dân. Cơ
cấu kinh tế được xem xét dưới góc độ: cơ cấu ngành (như công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ...); cơ cấu vùng (các vùng kinh tế theo lãnh thổ) và cơ cấu thành
phần kinh tế. Đó là lẽ tất yếu vì nền kinh tế của một nước là hệ thống thống nhất
các ngành, các lĩnh vực hoạt động có quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự thay đổi kinh
tế sẽ kéo theo hoặc đòi hỏi sự thay đổi thích ứng ở các ngành các lĩnh vực hoạt
động khác.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là yêu cầu tất yếu trong quá trình công
nghiệp hoá. Cơ cấu kinh tế đó phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
+ Phản ánh đúng đắn và đáp ứng được các yêu cầu của các quy luật khách
quan, đặc biệt là các quy luật kinh tế.
+ Phù hợp với xu hướng phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện
đại trên thế giới hiện nay.

13
+ Đảm bảo cho phép tối ưu hoá việc sử dụng lợi thế so sánh về tài nguyên,
lao động của nước phát triển muộn về công nghiệp.
+ Thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng toàn cầu hoá
kinh tế, do vậy, cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là "cơ cấu mở".
Chỉ có như vậy mới cho phép chúng ta có thể khai thác tối đa và có hiệu quả
những tiềm năng vốn có của các ngành, các địa phương, các đơn vị kinh tế cơ sở.
Xây dựng cơ cấu kinh tế mới hợp lý trong sự nghiệp công nghiệp hoá là một quá
trình có ý thức, có kế hoạch và do đó tất yếu phải dựa vào các nhân tố và nhu cầu,
điều kiện tự nhiên và tiềm năng của đất nước. Trên cơ sở xem xét thực trạng của
đất nước Đảng ta đã khẳng định công nghiệp hoá ở nước ta là quá trình tạo ra “ cơ
cấu kinh tế Công- Nông nghiệp- Dịch vụ” gắn với sự phân công và phù hợp quốc tế
sâu rộng.
2.2. Tiến hành phân công lại lao động xã hội
Từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hoá tất yếu phải phân công lại lao
động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa lao động, tức là
chuyên môn hóa sản xuất giữa các ngành, trong nội bộ từng ngành và giữa các
vùng trong nền kinh tế quốc dân. Phân công lao động xã hội có tác dụng rất to lớn.
Nó là đòn bẩy của sự phát triển công nghệ và năng suất lao động; cùng với cách
mạng khoa học và công nghệ, nó góp phần hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế
hợp lý.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự phân công lại lao động xã
hội phải tuân thủ các quá trình có tính quy luật sau:
- Tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng và số
tuyệt đối lao động công nghiệp ngày một tăng lên.
- Tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động
giản đơn trong tổng lao động xã hội.
- Tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất phi vật chất (dịch vụ) tăng
nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất.
Ở nước ta, phương hướng phân công lại lao động xã hội hiện nay cần triển
khai trên cả hai địa bàn: tại chỗ và nơi khác để phát triển về chiều rộng kết hợp phát
triển theo chiều sâu.
Tóm lại, hai nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá là
trang bị kỹ thuật hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế hình thanh, phát triển và
14
chuyển dịch cơ cấu hợp lý. Thúc đẩy phân công lao động xã hội làm hình thành nên
những ngành nghề mới có tác dụng tốt tới quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh, bền
vững và có hiệu quả xã hội.
3. Những giải pháp để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam
Sau khi đã xác định được mục tiêu, những thuận lợi khó khăn và nội dung
của công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân của nước ta, thì một vấn đề
không kém phần quan trọng là đề ra các giải pháp để đạt đến các mục tiêu đó. Theo
em cần hướng vào bốn vấn đề chính sau:
Một là giải pháp về tạo vốn và sử dụng vốn hiệu quả. Vốn là tiền đề cơ bản
cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Nước ta tiến hành quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá trong điều kiện rất thiếu vốn. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để huy
động đủ vốn và sử dụng vốn có hiệu quả.
Hai là giải pháp nâng cao trình độ người lao động. Xây dựng và phát triển
đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, lấy việc phát huy
nguồn lực của con người làm yếu tố chiến lược. Giải pháp này nhằm vào việc
không ngừng đào tạo và đào tạo lại, nâng cao trình độ người lao động, chú trọng
xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế am hỉểu về kinh tế thị trườn, một đội ngũ
viên chức nhà nước có phẩm chất và năng lực để điều hành nền kinh tế theo luật
định.
Ba là giải pháp về công nghệ. Công nghiệp hoá hiện đại hoá đồng thời là quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng các ngành có hàm lượng khoa học
công nghệ cao, giá trị gia tăng cao. Để đạt được mục tiêu này phải phát triển công
nghiệp, phải đổi mới công nghệ trong tòan bộ nền kinh tế phải sử dụng có hiệu quả
những thành tựu khoa học công nghệ của thế giới.
Bốn là mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Ngày nay, cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ cùng với xu hướng toàn cầu hoá kinh tế đang tạo ra mối liên hệ
và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các nước. Do đó việc mở rộng
quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước khác trở thành một tất yếu kinh tế, tạo ra
khả năng và điều kiện để các nước chậm phát triển tranh thủ vốn, kỹ thuật, công
nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý... để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Quan hệ kinh tế đối ngoại càng mở rộng và có hiệu quả bao nhiêu, thì sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa càng thuận lợi và nhanh chóng bấy nhiêu.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là khả năng. Để khả năng trở thành hiện thực, chúng
ta phải có một đường lối kinh tế đối ngoại đúng đắn vừa đạt hiệu quả kinh tế cao,
15
kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; vừa giữ vững được độc lập,
chủ quyền dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Năm là các giải pháp về các chính sách kinh tế vĩ mô. Để thực hiện thắng lợi
những nhiệm vụ to lớn trong quá trình công nghiệp hoáhiện đại hoáđất nước trong
điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta phải đặc biệt chú ý đến vai trò quản lý,
điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế.
3.1. Huy động nguồn vốn từ bên ngoài
Ngoài việc tạo vốn trong nước cần phải thu hút nguồn vố từ bên ngoài.
Do đó cần có các chính sách hợp lý nhằm tranh thủ quyền viện trợ, vốn vay
và đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Để thực hiện vấn đề này cần có các giải pháp sau:
+ Thi hành chính sách mở cửa với thế giới bên ngoài là điều kiện kiên quyết
mở đường thu hút cho mọi nguồn vốn từ bên ngoài vào đầu tư phát triển và công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nươc. thông qua các hoạt động chính trị và ngoại giao
tích cực giúp cho hoạt động kinh tế đa phương hóa và đa dạng hoá, góp phần khắc
phục những khó khăn to lớn của tình trạng nền kinh tế nước ta nhằm tạo một môi
trường đầu tư thuận lợi.
+ Cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng: Hệ thống gíao thông vận tải viễn thông,
kho tàng bến bãi, nhà xưởng nhằm tạo điều kiện vật chất thuận lợi thu hút tối đa
các nhà đầu tư, các tổ chức kinh tế đầu tư vào Việt Nam.
+ Thực hiện duy trì và đẩy mạnh chính sách kinh tế nhiều thành phần nâng
cao trình độ , chất lượng nền kinh tế quốc doanh, mở rộng kinh tế tư nhân và gia
đình nhằm thu hút các hoạt động đầu tư, tạo sức lôi cuốn các nhà đầu tư quốc tế.
+ Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tham gia tích cực hơn nữa vào quá trình phân
công lao động trong khu vực và trên toàn thế giới. Thông qua nhiều hoạt động tích
cực, uyển chuyển và khéo léo để tranh thủ sự giúp đỡ của các chính phủ và nhân
dân các nước, tạo tiền đề lôi cuốn các nguồn vốn vào đầu tư vào hoạt động.
Bên cạnh đó, cần phải xây dựng và kiện toàn hệ thống các chính sách chuẩn
bị cho các dự án đầu tư: xây dựng và hoàn thịên hệ thống pháp luật, đổi mới hệ
thống hành chính giảm bớt phiền hà, hoàn thiện cơ chế quản lý vốn và quản lý các
doanh nghiệp có vốn nước ngoài, đồng thời phải tạo cơ sở để đối tác đầu tư thấy
được khả năng hoàn vốn của bên vay vốn, thông qua tiềm năng hiện có và luật đầu
tư cũng như có thể quản lý.
Cùng với việc khai thác tối đa mọi nguồn vốn phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá là việc sử dụng từng đồng vốn đó một cách hiệu quả tối
16
ưu nhất, chống các tệ nạn tham nhũng, lãng phí trong đội ngũ cán bộ cũng như
trong các tầng lớp dân cư.
KẾT LUẬN
Tóm lại, công nghiệp hoá hiện đại hoá chính là lời giải của bài toán phát
triển, trực tiếp đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu. Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá tạo nên những khuynh hướng chuyển biến căn bản về kinh tế xã hội của đất
nước trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế trong nước, mở rộng
quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, xây dựng cơ cấu kinh tế đa ngành với trình độ
khoa học và công nghệ ngày càng hiện đại. Công nghiệp hoá- hiện đại hoá chính là
quá trình xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, tạo hướng chuyển dịch cơ cấu trong các
ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng chúng ta cũng có nhiều yếu tố thuận lợi,
thời cơ và có đủ khả năng để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện
đại hoá. Ngày nay, tốc độ tăng trưởng cao và đầy ấn tượng trong sự ổn định chính
trị xã hội của chúng ta qua những năm đổi mới, chứng tỏ tiến trình công nghịêp
hoá- hiện đại hoá đã đạt được những thành tựu nhất định, nền kinh tế đã có sự khởi
sắc dù mới chỉ là bước đầu, còn nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp tục được bổ sung và
hoàn thiện.
Công nghiệp hoá- hiện đại hoá đặt chúng ta trước những thách thức lớn, vì
vậy cần phải xây dựng một hệ thống các giải pháp nhằm khắc phụckhó khăn đâỷ
lùi nguy cơ, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá tiến trước một bước.
Đó là các giải pháp về chính sách vĩ mô của nhà nước, về đổi mới công nghệ, về
tạo vốn, sử dụng vốn có hiệu quả và nâng cao trình độ người lao động, trình độ
quản lý kinh tế.Trong đóviệc tạo vốn và tạo vố có hiệu quả là một trong những vấn
đề cấp bách quan trọng nhất hiện nay. Cùng với việc phát huy các nguồn vốn trong
nước cần phải đẩy mạnh hợp tác quốc tế, mở cửa kinh tế nhằm khai thác nguồn vốn
viện trợ, cho vay, đồng thời tạo một môi trường đầu tư thuận lợi thu hút các nguồn
vốn đầu tư nước ngoài, xây dựng một kế hoạch sử dụng vốn có hiệu quả. Công
nghiệp hoá- hiện đại hoá là “chìa khoá vàng” để vươn tới sự hiện đại và phát triển.
Chúng ta nghiên cứu vấn đề này không nhằm một mục đích gì khác đó là tìm
ra điều kiện tốt nhất để phát triển đất nước. Thông qua những phân tích và đánh giá
về mặt lý luận và kinh nghiệm thực tiễn của các nước trên thế giới về quá trình
công nghiệp hóa- hiện đại hoá từ đó chúng ta có thể rút ra những nét phù hợp với
nền kinh tế Việt Nam và tìm ra những phương hướng phát triển công nghiệp hoá-
hiện đại hoá ở Việt Nam.

17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
IX, XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội
3. Giáo trình Kinh tế học Chính trị Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2008.
3. Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 19/5/2018, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về cải cách chính sách tiền
lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động
trong doanh nghiệp 

18

You might also like